QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
42-LCT/HĐNN8
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 6 năm 1990
|
BỘ LUẬT
HÀNG HẢI VIỆT NAM SỐ 42-LCT/HĐNN8 CỦA QUỐC HỘI NGÀY
30/06/1990
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
1- Bộ luật hàng hải Việt Nam được
áp dụng đối với những quan hệ pháp luật phát sinh từ các hoạt động liên quan đến
việc sử dụng tầu biển vào các mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học - kỹ thuật,
văn hoá, thể thao, xã hội và công vụ Nhà nước, sau đây gọi chung là hoạt động
hàng hải.
Tàu biển nói tại Bộ luật này là
cấu trúc nổi, có hoặc không có động cơ, chuyên dùng để hoạt động trên biển và
các vùng nước liên quan đến biển.
2- Đối với những quan hệ pháp luật
phát sinh từ hoạt động hàng hải không được Bộ luật này quy định, thì tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể mà áp dụng pháp luật tương ứng của Việt Nam.
Điều 2.
Hoạt động hàng hải của tổ chức,
cá nhân Việt Nam và nước ngoài, của tổ chức liên doanh, hợp tác giữa Việt Nam với
nước ngoài tại Việt Nam được khuyến khích và bảo hộ trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
công nhận.
Điều 3.
Phạm vi áp dụng các quy định của
Bộ luật này như sau:
1- Toàn bộ các quy định được áp dụng
đối với các tầu biển chuyên dùng để vận chuyển hàng hoá, hàng khách và hành lý;
thăm dò - khai thác - chế biến tài nguyên biển; lai dắt hoặc cứu hộ trên biển;
trục vớt tài sản trên biển và thực hiện các mục đích kinh tế khác, sau đây gọi
chung là tầu buôn.
2- Các quy định về vận chuyển
hàng hoá, hành khách và hành lý, cầm giữ, bắt giữ hàng hải, giới hạn trách nhiệm
dân sự của chủ tầu không áp dụng đối với các tầu biển chuyên dùng để thực hiện
các hoạt động bảo đảm hàng hải; khí tượng - thuỷ văn; thông tin - liên lạc;
thanh tra; hải quan; phòng dịch; chữa cháy; hoa tiêu; huấn luyện; bảo vệ môi
trường hoặc chuyên dùng để tìm kiếm và cứu nạn trên biển, sau đây gọi chung là
tầu công vụ Nhà nước.
3- Các quy định về vận chuyển
hàng hoá, hành khách và hành lý, tổn thất chung không áp dụng đối với các tầu
biển chuyên dùng để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và thể
thao.
4- Chỉ trong những trường hợp có
quy định cụ thể, thì mới được áp dụng đối với tầu biển chuyên dùng vào mục đích
quân sự và bảo vệ an ninh, trật tự thuộc các lực lượng vũ trang và các loại tầu
biển nước ngoài.
Các quy định về vận chuyển hàng
hoá, hành khách và hành lý không áp dụng đối với việc vận chuyển quân sự bằng tầu
buôn.
Điều 4.
1- Các bên tham gia hợp đồng
hàng hải có quyền có những thoả thuận riêng, nếu Bộ luật này không hạn chế.
2- Các bên tham gia hợp đồng
hàng hải mà trong đó có ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, thì
có quyền thoả thuận áp dụng luật hoặc tập quán hàng hải nước ngoài hoặc quốc tế
trong các quan hệ hợp đồng và chọn trọng tài, toà án ở một trong hai nước hoặc ở
một nước thứ ba để giải giải quyết tranh chấp.
Điều 5.
Trong trường hợp có xung đột
pháp luật, thì việc chọn luật để áp dụng được xác định theo các nguyên tắc sau
đây:
1- Đối với các quan hệ pháp luật
liên quan đến các quyền sở hữu tài sản trên tầu; hợp đồng cho thuê tầu; hợp đồng
thuê thuyền viên; hợp đồng vận chuyển hành khách và hành lý; chia tiền công cứu
hộ giữa chủ tầu cứu hộ và thuyền bộ của tầu cứu hộ; trục vớt tài sản chìm đắm ở
công hải; các vụ việc xảy ra trên tầu khi tầu đang ở công hải, thì luật được chọn
là luật quốc gia mà tầu mang cờ.
2- Đối với các quan hệ pháp luật
liên quan đến tổn thất chung, thì luật được chọn là luật nơi tầu ghé vào sau
khi xảy ra tổn thất chung.
3- Đối với các quan hệ pháp luật
liên quan đến tai nạn đâm va; tiền công cứu hộ; trục vớt tài sản chìm đắm ở biển,
xảy ra tại nội thuỷ hoặc lãnh hải của quốc gia nào, thì luật được chọn là luật
quốc gia đó.
4- Đối với các quan hệ pháp luật
liên quan đến tai nạn đâm va hoặc cứu hộ xảy ra ở công hải, thì luật được chọn
là luật do trọng tài hoặc toà án đã thụ lý tranh chấp áp dụng.
5- Đối với các quan hệ pháp luật
liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá, thì luật được chọn là luật quốc
gia, nơi người vận chuyển đặt trụ sở.
Điều 6.
Nếu điều ước quốc tế mà Việt nam
ký kết hoặc công nhận có quy định khác với Bộ luật này, thì áp dụng điều ước quốc
tế.
Điều 7.
Trong trường hợp Bộ luật này quy
dịnh hoặc do có thoả thuận trong hợp đồng, thì luật nước ngoài có thể được áp dụng
tại Việt Nam đối với các quan hệ hợp đồng hàng hải, nếu luật đó không trái với
pháp luật Việt Nam.
Chương 2:
TÀU BIỂN
Mục A: TÀU BIỂN
VIỆT NAM
Điều 8.
1- Chỉ có tầu biển Việt Nam mới
được mang cờ quốc tịch tầu biển Việt Nam.
2- Tàu biển Việt Nam là tầu biển
thuộc sở hữu của Nhà nước Việt Nam, tổ chức Việt nam có trụ sở chính tại Việt
nam và của công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam hoặc tầu biển thuộc sở hữu
nước ngoài đã được phép đăng ký tại Việt Nam.
3- Sau khi được đăng ký vào
"Sổ đăng ký tầu biển quốc gia" của Việt nam hoặc từ khi được cơ quan
đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự có thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài cấp
"Giấy phép mang cờ quốc tịch tầu biển tạm thời", thì tầu biển có quyền
và nghĩa vụ mang cờ quốc tịch tầu biển Việt Nam.
Điều 9.
1- Tàu biển Việt Nam được ưu
tiên vận chuyển hàng hoá, hành khách và hành lý giữa các cảng biển Việt Nam.
Tàu biển nước ngoài chỉ được vận chuyển hàng hoá, hành khách và hành lý giữa các
cảng biển Việt Nam trong các trường hợp do Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và
Bưu điện quy định.
2- Hội đồng Bộ trưởng quy định
phạm vi hoạt động của tầu biển Việt Nam thuộc sở hữu tư nhân Việt Nam.
Điều 10.
Tàu biển có tên gọi riêng do chủ
tầu đặt và phải được cơ quan đăng ký tầu biển Việt Nam chấp nhận.
Điều 11.
Chủ tầu là người sở hữu tầu biển.
Chủ tầu có quyền sử dụng cờ hiệu riêng.
Điều 12.
1- Tàu biển
Việt Nam phải được đăng ký vào "Sổ đăng ký tầu biển quốc gia" của Việt
Nam.
Việc đăng ký tầu biển ở Việt Nam
do cơ quan đăng ký tầu biển thực hiện công khai và thu lệ phí. Những người quan
tâm có quyền yêu cầu được cấp trích lục hoặc bản sao từ "Sổ đăng ký tầu biển
quốc gia".
2- Hội đồng
bộ trưởng quy định trường hợp tầu biển thuộc sở hữu Việt Nam được đăng ký ở nước
ngoài và tầu biển thuộc sở hữu nước ngoài được đăng ký tại Việt Nam.
3- Hội đồng
Bộ trưởng quy định về cơ quan đăng ký tầu biển ViệtNam; thể thức đăng ký tầu biển
và xử phạt hành chính các vi phạm về đăng ký tầu biển tại Việt Nam.
Điều 13.
Tàu biển chỉ được đăng ký vào
"Sổ đăng ký tầu biển quốc gia" của Việt Nam sau khi không còn mang quốc
tịch tầu biển của nước ngoài và được Đăng kiểm Việt Nam hoặc cơ quan đăng kiểm
tầu biển nước ngoài mà Đăng kiểm Việt Nam uỷ quyền đã kiểm tra kỹ thuật, phân cấp
tầu, đo đạc dung tích và cấp các giấy chứng nhận cần thiết.
Điều 14.
1- "Sổ đăng ký tầu biển quốc
gia" của Việt Nam bao gồm nội dung sau đây:
a) Tên tầu, tên chủ tầu và nơi
chủ tầu đặt trụ sở, hô hiệu quốc tế; loại tầu và mục đích sử dụng;
b) Sổ đăng ký; thời điểm đăng
ký;
c) Nơi đóng tầu, xưởng đóng tầu
và thời điểm đóng tầu;
d) Các đặc tính kỹ thuật của tầu;
e) Định biên tối thiểu;
g) Sở hữu và những thay đổi liên
quan;
h) Thời điểm xoá đăng ký và cơ sở
của việc xoá đăng ký.
2- Mọi thay đổi về nội dung đăng
ký nói tại khoản 1, Điều này cũng phải được ghi rõ vào "Sổ đăng ký tầu biển
quốc gia".
3- Nội dung đã được đăng ký vào
"Sổ đăng ký tầu biển quốc gia" có giá trị pháp lý đối với người liên
quan.
4- Sau khi hoàn thành thủ tục
đăng ký, tầu biển được cấp "Giấy chứng nhận đăng ký tầu biển" của Việt
Nam. Giấy này đồng thời là bằng chứng về quốc tịch Việt Nam của tầu.
Điều 15.
1- Tàu biển Việt Nam đương nhiên
xoá đăng ký trong "Sổ đăng ký tầu biển quốc gia" của Việt Nam trong
các trường hợp sau đây:
a) Bị phá huỷ hoặc chìm đắm;
b) Bị mất tích;
c) Bị hư hỏng không thể sửa chữa
được hoặc việc sửa chữa là không có hiệu quả kinh tế;
d) Không còn đủ cơ sở để được
mang quốc tịch tầu biển Việt Nam;
e) Không còn tính năng tầu biển.
2- Trong các trường hợp nói tại điểm
c và điểm e, khoản 1, Điều này, khi tầu biển bị cầm cố, thế chấp, cầm giữ, thì
tầu biển chỉ được chính thức xoá đăng ký, nếu chủ nợ chấp nhận cho xoá đăng ký.
3- Tàu biển Việt Nam có thể xoá
đăng ký theo yêu cầu của chủ tầu.
Điều 16.
1- Chủ tầu có trách nhiệm hoàn
thành thủ tục đăng ký tầu biển chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận tầu
tại Việt Nam hoặc từ ngày đưa tầu về đến cảng biển Việt Nam đầu tiên, nếu nhận ở
nước ngoài.
2- Chủ tầu có trách nhiệm thông
báo chính xác và nhanh chóng cho cơ quan đăng ký tầu biển về mọi sự kiện liên
quan đến tầu.
Mục B: AN
TOÀN HÀNG HẢI VÀ PHÒNG NGỪA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Điều 17.
Chỉ được phép sử dụng tầu biển
vào mục đích đã đăng ký khi cấu trúc, trang thiết bị, tài liệu của tầu, định
biên và khả năng chuyên môn của thuyền bộ hoàn toàn phù hợp với các quy định của
Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện về an toàn hàng hải đối với tầu,
người ở trên tầu và về phòng ngừa ô nhiễm môi trường.
Điều 18.
1- Sau khi được Đăng kiểm Việt
Nam hoặc cơ quan đăng kiểm tầu biển nước ngoài mà Đăng kiểm Việt Nam uỷ quyền
đã kiểm tra, xác nhận có đủ các điều kiện an toàn kỹ thuật theo quy phạm quốc
gia của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc công
nhận, tầu biển Việt Nam được cấp các giấy chúng nhận an toàn kỹ thuật.
2- Giấy chứng nhận an toàn kỹ
thuật phải ghi rõ thời hạn có hiệu lực. Thời hạn này đương nhiên được kéo dài
thêm nhiều nhất là chín mươi ngày, nếu tầu thực sự không có điều kiện đến nơi
được chỉ định để kiểm tra định kỳ và điều kiện kỹ thuật của tầu trong thực tế vẫn
bảo đảm an toàn. Thời hạn đương nhiên được kéo dài này kết thúc ngay khi tầu về
đến cảng được chỉ định để kiểm tra.
3- Giấy chứng nhận an toàn kỹ
thuật đương nhiên mất giá trị, nếu trên thực tế tầu biển có những thay đổi lớn,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng an toàn kỹ thuật của tầu.
4- Trong trường hợp có đủ căn cứ
để nghi ngờ khả năng an toàn kỹ thuật của tầu, Thanh tra an toàn hàng hải Việt
Nam có quyền tạm đình chỉ hoạt động của tầu, tự mình hoặc yêu cầu Đăng kiểm Việt
Nam kiểm tra kỹ thuật của tầu, mặc dù trước đó tầu đã được cấp đủ các giấy chứng
nhận an toàn kỹ thuật.
Điều 19.
1- Chủ tầu và thuyền trưởng có
trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để tiến hành thanh tra an toàn hàng hải,
kiểm tra kỹ thuật tầu biển.
2- Chủ tầu và thuyền trưởng có
trách nhiệm sửa chữa, bổ sung các điều kiện an toàn hàng hải theo yêu cầu của
Đăng kiểm Việt Nam, Thanh tra an toàn hàng hải Việt Nam trước khi cho tầu hoạt
động.
Điều 20.
1- Khi hoạt động trên biển và
vùng nước liên quan đến biển mà tầu biển được phép hoạt động, các tầu biển, tầu
sông, thuỷ phi cơ, kể cả của các lực lượng vũ trang Việt Nam phải chấp hành các
quy tắc phòng ngừa đâm va trên biển do Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu
điện quy định.
2- Các công trình, thiết bị được
xây dựng hoặc lắp đặt ở biển và vùng nước liên quan đến biển mà tầu biển được
phép hoạt động phải có đầy đủ các báo hiệu an toàn theo đúng quy định về báo hiệu
hàng hải do Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện quy định.
Điều 21.
1- Trong phạm vi nội thuỷ và
lãnh hải Việt Nam, tầu biển nước ngoài phải chấp hành đầy đủ các quy định về an
toàn hàng hải của Việt Nam, trừ trường hợp giữa Việt Nam và quốc gia mà tầu đó
mang cờ có những thoả thuận khác.
2- Thanh tra an toàn hàng hải Việt
Nam có quyền kiểm tra và xử phạt hành chính các vi phạm của tầu biển nước ngoài
khi hoạt động tại nội thuỷ và lãnh hải Việt Nam, nếu có đủ căn cứ để nghi ngờ
khả năng an toàn hàng hải của tầu hoặc khi tầu vi phạm quy định về an toàn hàng
hải Việt Nam.
Điều 22.
Việc thanh tra an toàn hàng hải,
kiểm tra kỹ thuật tầu biển theo quy định của Bộ luật này; việc khám xét tầu biển
phải được tiến hành theo đúng pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến khả
năng an toàn hàng hải của tầu.
Điều 23.
1- Khi hoạt động tại các vùng nước
thuộc chủ quyền của Việt Nam, tầu biển Việt Nam và tầu biển nước ngoài phải chấp
hành đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam và điều ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận.
2- Tàu biển Việt Nam và tầu biển
nước ngoài chuyên dùng để vận chuyển dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc các hàng
hoá nguy hiểm khác bắt buộc phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu về
ô nhiễm môi trường khi hoạt động tại vùng nước các cảng biển và khu vực hàng hải
khác của Việt Nam.
3- Tàu biển nước ngoài chạy bằng
năng lượng nguyên tử chỉ được vào hoạt động tại nội thuỷ, lãnh hải của Việt Nam
sau khi được Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng cho phép.
Điều 24.
Hội đồng bộ trưởng quy định về tổ
chức, hoạt động của Thanh tra an toàn hàng hải Việt Nam và Đăng kiểm Việt Nam.
Mục C: KIỂM
TRA DUNG TÍCH TẦU BIỂN
Điều 25.
1- Tàu biển Việt Nam và tầu biển
nước ngoài khi hoạt động tại vùng nước cảng biển và luồng quá cảnh của Việt Nam
phải có đủ các giấy chứng nhận dung tích do Đăng kiểm Việt Nam hoặc cơ quan
đăng kiểm tầu biển nước ngoài, cơ quan đo dung tích tầu biển có thẩm quyền của
nước ngoài cấp. Các giấy chứng nhận dung tích phải phù hợp với quy phạm quốc
gia của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận.
2- Trong trường hợp tầu không có
đủ các điều kiện nói tại khoản 1, Điều này, thì chủ tầu hoặc thuyền trưởng phải
yêu cầu Đăng kiểm Việt Nam kiểm tra dung tích tầu và thanh toán các chi phí
liên quan.
Mục D: TÀI LIỆU
CỦA TẦU
Điều 26.
Trên tầu biển Việt Nam phải có đủ
các loại nhật ký tầu biển, các loại giấy chứng nhận, các tài liệu khác của tầu
và của thuyền viên theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu
điện.
Mục E: CÁC
QUYỀN VỀ SỞ HỮU TẦU BIỂN
Điều 27.
1- Hợp đồng chuyển nhượng sở hữu
tầu biển tại Việt Nam phải được làm bằng văn bản và được cơ quan công chứng chứng
thực, nếu ở nước ngoài thì thủ tục được tiến hành theo luật nơi hợp đồng được
ký kết.
2- Chỉ sau khi được ghi nhận vào
"Sổ đăng ký tầu biển quốc gia" của Việt Nam nơi tầu biển đó đã được
đăng ký, thì việc chuyển nhượng sở hữu tầu biển Việt Nam mới có giá trị.
3- Sau khi hoàn thành các thủ tục
chuyển nhượng, thì toàn bộ con tầu và tài sản của tầu thuộc quyền sở hữu của
người được chuyển nhượng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Tài sản của tầu là các đồ vật,
trang thiết bị ở trên tầu mà không phải là các bộ phận cấu thành của tầu.
Điều 28.
Các quy định về chuyển nhượng sở
hữu tầu biển cũng được áp dụng đối với việc chuyển nhượng cổ phần sở hữu tầu biển.
Điều 29.
1- Chủ tầu
có quyền cầm cố, thế chấp tầu biển cho người khác theo quy định của pháp luật.
2- Việc cầm cố, thế chấp tầu biển
tại Việt Nam được giải quyết theo pháp luật Việt Nam. Hợp đồng về cầm cố, thế
chấp tầu biển tại Việt Nam phải làm bằng văn bản và được cơ quan công chứng chứng
thực.
3- Việc cầm cố, thế chấp tầu biển
Việt Nam ở nước ngoài được giải quyết theo luật nơi hợp đồng được ký kết.
4- Chỉ sau
khi được ghi nhận vào "Sổ đăng ký tầu biển quốc gia", thì việc cầm cố,
thế chấp tầu biển Việt Nam mới có giá trị.
Điều 30.
1- Chủ nợ có quyền cầm giữ hàng
hải theo luật định đối với tầu biển để bảo đảm cho các khoản nợ ưu tiên, mặc dù
tầu biển đó đã được cầm giữ, cầm cố, thế chấp để bảo đảm cho các khoản nợ khác trên
cơ sở hợp đồng hoặc quyết định của toà án.
2- Cầm giữ hàng hải đối với tầu
biển không bị ảnh hưởng khi có sự thay đổi chủ tầu, người khai thác tầu, cho dù
người mua tầu biết hay không biết về việc tầu đã bị cầm giữ.
3- Tuyên bố của chủ nợ về việc cầm
giữ hàng hải đối với tầu biển chỉ có giá trị sau khi đã được ghi nhận vào
"Sổ đăng ký tầu biển quốc gia", nơi tầu đã đăng ký.
Điều 31.
Những khoản nợ ưu tiên là những khoản
nợ được giải quyết trước các khoản nợ khác, theo thứ tự sau đây:
1- Tiền bồi thường tính mạng,
thương tích và tổn hại khác về sức khoẻ con người; tiền bồi thường liên quan đến
các quyền lợi phát sinh từ hợp đồng lao động;
2- Các loại án phí và chi phí
thi hành án; chi phí bảo vệ quyền lợi chung của các chủ nợ để duy trì tầu, bán
tầu và chia tiền bán tầu; cước phí cảng, thuế và các phí công cộng tương tự;
hoa tiêu phí; chi phí bảo vệ và bảo quản tầu từ khi tầu đến cảng cuối cùng;
3- Tiền công cứu hộ và các chi
phí đóng góp vào tổn thất chung;
4- Tiền bồi thường do đâm va hoặc
tại nạn hàng hải khác; tiền bồi thường thiệt hại cho thiết bị cảng, cầu bến, luồng
lạch, vũng đậu tầu, ụ tầu; tiền bồi thường tổn thất hàng hoá và hành lý;
5- Các khoản tiền liên quan đến
hợp đồng do thuyền trưởng ký kết hoặc các hành động khác của thuyền trưởng
trong phạm vi quyền hạn theo luật định, khi tầu ở ngoài cảng đăng ký để sửa chữa,
tiếp tục chuyến đi, ngay cả khi thuyền trưởng đồng thời là người khai thác tầu
hoặc là chủ tầu; các khiếu nại đòi bồi thường của chính bản thân thuyền trưởng
hoặc người cung ứng tầu biển, người sửa chữa tầu biển, người cho vay tiền và những
người khác có quan hệ hợp đồng với thuyền trưởng.
Điều 32.
1- Việc giải quyết yêu cầu của
chủ nợ trong phạm vi giá trị tài sản bị cầm giữ do toà án quyết định.
2- Các khoản nợ ưu tiên được giải
quyết lần lượt theo thứ tự các nhóm từ khoản 1 đến khoản 5, Điều
31 của Bộ luật này.
3- Các khoản nợ ưu tiên phát
sinh từ cùng một chuyến đi và ở trong cùng một nhóm nói tại Điều
31 của Bộ luật này, được giải quyết tuỳ theo tỉ lệ giá trị giữa chúng, nếu khoản
tiền phân chia không đủ để thanh toán giá trị của mỗi khoản nợ. Riêng các khoản
nợ thuộc các nhóm nói tại khoản 3 và khoản 5, Điều 31 của Bộ luật
này, thì khoản nợ nào phát sinh sau được giải quyết trước các khoản nợ khác
ở cùng nhóm đó, mặc dù các khoản nợ đó phát sinh sớm hơn.
4- Các khoản nợ phát sinh từ
cùng một sự kiện được coi là phát sinh trong cùng một thời gian.
5- Việc cầm giữ hàng hải đối với
tầu biển liên quan đến chuyến đi cuối cùng, được ưu tiên giải quyết trước việc
cầm giữ hàng hải liên quan đến các chuyến đi khác.
6- Các khoản nợ phát sinh từ
cùng một hợp đồng lao động liên quan đến nhiều chuyến đi được giải quyết cùng với
các khoản nợ liên quan đến chuyến đi cuối cùng.
Điều 33.
1- Chủ nợ có quyền cầm giữ hàng
hải đối với các khoản tiền sau đây:
a) Tiền cước vận chuyển hàng
hoá, hành lý hoặc tiền công vận chuyển hành khách của chuyến đi liên quan đến khoản
nợ hoặc của tất cả các chuyến đi đã được thực hiện trong thời gian hiệu lực của
cùng một hợp đồng lao động, để bảo đảm cho việc giải quyết các khoản nợ về hợp
đồng lao động;
b) Khoản tiền bồi dưỡng tổn thất
cho các hư hỏng của tầu mà chưa được sửa chữa và tiền bồi thường do mất cước;
c) Tiền bồi thường cho tầu sau tổn
thất chung, nếu trong đó đã được tính các khoản tiền nói tại điểm b, Điều này;
d) Tiền công cứu hộ trả cho tầu
sau khi đã trừ tiền công dành riêng để trả cho thuyền bộ và những người làm
công khác cho chủ tầu.
2- Quyền cầm giữ hàng hải nói tại
khoản 1, Điều này không áp dụng đối với những khoản tiền do người bảo hiểm bồi
thường cho tầu.
Điều 34.
1- Quyền cầm giữ hàng hải để giải
quyết các khoản nợ ưu tiên nói tại khoản 5, Điều 31 của Bộ luật
này chấm dứt sau một trăm tám mươi ngày; đối với các khoản nợ khác, thì thời
hiệu này là một năm.
2- Thời hiệu của quyền cầm giữ
hàng hải được tính:
a) Từ ngày kết thúc hoạt động cứu
hộ, trong trường hợp để giải quyết tiền công cứu hộ;
b) Từ ngày phát sinh tổn thất,
trong trường hợp để giải quyết các tổn thất do đâm va hoặc tai nạn hàng hải
khác;
c) Từ ngày giao hàng hoá, hành
lý hoặc ngày lẽ ra phải làm việc đó, trong trường hợp để giải quyết các tổn thất
hàng hoá, hành lý;
d) Từ ngày phát sinh khoản nợ,
trong trường hợp để giải quyết các khoản nợ nói tại khoản 5, Điều
31 của Bộ luật này;
e) Từ ngày phải thanh toán,
trong trường hợp để giải quyết các khoản nợ khác.
3- Quyền cầm giữ hàng hải đối với
các khoản nợ nói tại Điều 33 của Bộ luật này hết hiệu lực
khi chủ tầu đã thanh toán các khoản nợ liên quan. Nếu tiền thanh toán vẫn còn nằm
trong tay thuyền trưởng hoặc người đã được uỷ nhiệm thay mặt chủ tầu hoặc người
khai thác tầu để thanh toán các khoản nợ đó, thì quyền cầm giữ hàng hải vẫn còn
hiệu lực.
4- Khi toà án không thể thực hiện
việc kê biên tầu trong phạm vi nội thuỷ hoặc lãnh hải Việt Nam để bảo vệ quyền lợi
của chủ nợ thường trú hoặc có trụ sở chính tại Việt Nam, thì thời hiệu quy định
tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này kết thúc sau ba mươi ngày, tính từ ngày tầu về
đến cảng biển Việt Nam đầu tiên, nhưng tối đa không được quá hai năm, tính từ
ngày phát sinh khoản nợ.
Điều 35.
1- Theo yêu cầu của chủ nợ, Giám
đốc cảng vụ có quyền tạm giữ trong vòng bẩy mươi hai giờ các tài sản sau đây:
a) Tầu biển, để bảo đảm cho các
khiếu nại đối với tầu về cảng phí hoặc tiền bồi thường thiệt hại cho thiết bị cảng,
cầu bến, luồng lạch, vũng đậu tầu, ụ tầu;
b) Xác tầu đắm hoặc các vật thể
khác đã cản trở các hoạt động hàng hải, để bảo đảm cho các khiếu nại liên quan
đến việc thải chúng.
2- Chủ nợ phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm về yêu cầu tạm giữ nói tại khoản 1, Điều này. Thời hiệu khiếu nại về
việc tạm giữ nói tại khoản 1, Điều này là hai năm, tính từ ngày phát sinh vụ việc.
3- Sau bảy mươi hai giờ, tài sản
bị tạm giữ theo quy định tại khoản 1, Điều này được giải phóng, nếu không có
quyết định khác của toà án.
Điều 36.
1- Trong trường hợp cần thiết, để
bảo đảm cho việc giải quyết các tranh chấp đã được thụ lý, Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương có quyền ra lệnh
bắt giữ tầu biển.
2- Tầu biển nước ngoài có thể bị
bắt giữ tại Việt Nam theo yêu cầu của toà án nước ngoài để bảo đảm cho việc giải
quyết việc kiện mà toà án đó thụ lý.
3- Sau thời hạn ba mươi ngày, kể
từ ngày thuyền trưởng nhận được lệnh bắt giữ mà chủ tầu không thực hiện các biện
pháp bảo đảm thay thế, thì toà án đã ra lệnh bắt giữ có quyền quyết định bán đấu
giá tầu biển.
Điều 37.
1- Sau khi chủ tầu hoặc người
khai thác tầu đã thực hiện những biện pháp bảo đảm thay thế hoặc đã thanh toán
đủ các khoản nợ, thì tầu biển đang bị cầm giữ, bị tạm giữ, bị bắt giữ hàng hải
phải được giải phóng ngay. Những người khiếu nại không có quyền thực hiện bất cứ
hành động nào xâm phạm tài sản hoặc quyền lợi khác của chủ tầu hoặc người khai
thác tầu.
2- Tầu biển cũng có thể được giải
phóng theo yêu cầu của chính những người đã yêu cầu cầm giữ, tạm giữ, bắt giữ
hàng hải tầu biển đó. Mọi phí tổn liên quan do người yêu cầu chịu trách nhiệm
thanh toán.
CHƯƠNG 3
THUYỀN BỘ
Điều 38.
Thuyền bộ của tầu gồm thuyền trưởng,
các sĩ quan và những người khác làm việc trong định biên của tầu, sau đây gọi
chung là thuyền viên.
Điều 39.
Thuyền
viên làm việc trên tầu biển Việt Nam phải là công dân Việt Nam. Trong các trường
hợp do Bộ trưởng Bộ giao thông - Vận tải và Bưu điện quy định, thuyền viên là
công dân Việt Nam được phép làm việc trên tầu biển nước ngoài và thuyền viên là
công dân nước ngoài được phép làm việc trên tầu biển Việt Nam.
Điều 40.
Thuyền viên làm việc trên tầu biển
Việt Nam phải có đủ tiêu chuẩn sức khoẻ, tiêu chuẩn chuyên môn và chứng chỉ
chuyên môn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện.
Điều 41.
1- Thuyền viên làm việc trên tầu
biển Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm theo chức danh.
2- Bộ trưởng
Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện quy định chức danh, trách nhiệm theo chức
danh và chế độ kỷ luật đối với thuyền viên làm việc trên tầu biển Việt Nam; đối
với thuyền viên làm việc trên các tầu biển chuyên dùng để khai thác, chế biến hải
sản, thì do Bộ trưởng Bộ thuỷ sản quy định.
3- Chủ tầu quy định chức danh,
trách nhiệm theo chức danh của thuyền viên chưa được Bộ trưởng Bộ Giao thông -
Vận tải và Bưu điện hoặc Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản quy định.
Điều 42.
1- Chế độ lao động, nghĩa vụ và
quyền lợi của thuyền viên Việt Nam làm việc trên tầu biển Việt Nam được xác định
trên cơ sở pháp luật Việt Nam.
2- Trong trường hợp chủ tầu hoặc
thuyền trưởng yêu cầu thuyền viên Việt Nam phải rời tầu, thì chủ tầu có nghĩa vụ
chu cấp mọi chi phí sinh hoạt và đi đường cần thiết để đưa thuyền viên về đúng
nơi quy định trong hợp đồng lao động hoặc về đến cảng đã tiếp nhận thuyền viên
vào làm việc, nếu trong hợp đồng lao động không có thoả thuận khác.
3- Trong trường hợp tài sản
riêng hợp pháp của thuyền viên Việt Nam bị tổn thất do tầu bị tai nạn, thì chủ
tầu phải bồi thường tài sản đó theo giá trị thị trường ở nơi và thời điểm giải
quyết tại nạn. Thuyền viên có lỗi trực tiếp gây ra tai nạn không có quyền đòi bồi
thường tài sản của mình đã bị tổn thất.
4- Chế độ lao động, nghĩa vụ và
quyền lợi của thuyền viên Việt Nam làm việc trên tầu biển nước ngoài và của
thuyền viên nước ngoài làm việc trên tầu biển Việt Nam được xác định trên cơ sở
hợp đồng thuê thuyền viên.
Điều 43.
Thuyền trưởng là người có quyền
chỉ huy cao nhất ở trên tầu. Mọi người có mặt trên tầu đều phải chấp hành mệnh
lệnh của thuyền trưởng.
Điều 44.
1- Thuyền trưởng không được phép
rời tầu khi tầu đang hành trình hoặc đang gặp nguy hiểm, trừ trường hợp việc
thuyền trưởng rời tầu là hết sức cần thiết.
2- Thuyền trưởng có nghĩa vụ trực
tiếp điều khiển tầu ra, vào cảng, kênh đào, luồng sông và khi tầu hoạt động trong
vùng nước cảng hoặc khi xảy ra các tình huống đặc biệt khó khăn, nguy hiểm.
3- Thuyền trưởng có nghĩa vụ sử
dụng hoa tiêu, tầu lai dắt trong các trường hợp do pháp luật quy định hoặc để bảo
đảm an toàn cho tầu.
Việc sử dụng hoa tiêu không miễn
giảm nghĩa vụ của thuyền trưởng nói tại khoản 2, Điều này.
Điều 45.
1- Thuyền trưởng có nghĩa vụ thực
hiện mẵn cán các nhiệm vụ thuộc chức trách của mình theo đúng lương tâm nghề
nghiệp.
2- Trước và trong khi tầu đang
hành trình, thuyền trưởng có nghĩa vụ chăm sóc chu đáo để tầu có đủ các điều kiện
an toàn hàng hải cần thiết, phù hợp với tiêu chuẩn nghề nghiệp, các quy định về
trang thiết bị, vỏ tầu, dự trữ, chất lượng thuyền bộ và các vấn đề khác có liên
quan đến an toàn hàng hải cho tầu và người ở trên tầu.
3- Thuyền trưởng có quyền từ chối
không cho tầu hành trình, nếu xét thấy chưa đủ điều kiện an toàn hàng hải cần
thiết.
4- Thuyền trưởng có quyền áp dụng
các biện pháp khen thưởng hoặc kỷ luật đối với thuyền viên thuộc quyền; có quyền
từ chối tiếp nhận hoặc buộc phải rời khỏi tầu những thuyền viên không đủ trình
độ chuyên môn theo chức danh hoặc có hành vi vi phạm kỷ luật.
Điều 46.
1- Thuyền trưởng có nghĩa vụ
quan tâm thích đáng để hàng được bốc lên tầu, sắp xếp và bảo quản trên tầu, dỡ
khỏi tầu một cách hợp lý, mặc dù các công việc này đã được giao cho những người
có trách nhiệm thực hiện.
2- Thuyền trưởng có nghĩa vụ
chăm sóc chu đáo để hàng hoá trên tầu không bị hư hỏng hoặc mất mát; áp dụng biện
pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của những người có lợi ích liên quan đến
hàng hoá; phải tận dụng mọi khả năng thông báo cho những người có lợi ích liên
quan biết về những sự kiện đặc biệt, liên quan đến hàng hoá.
Điều 47.
1- Thuyền trưởng có nghĩa vụ áp
dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ tầu, người và các tài sản trên tầu.
2- Trong trưởng hợp cảng đích bị
chiến tranh đe doạ hoặc bị phong toả, thuyền trưởng có nghĩa vụ đưa tầu vào cảng
an toàn gần nhất và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ tầu, người, tài
sản trên tầu, tài liệu của tầu.
3- Trong trường hợp tầu có nguy
cơ bị chìm đắm hoặc bị phá huỷ, thuyền trưởng có nghĩa vụ tận dụng mọi khả năng
cho phép để trước hết cứu hành khách và sau đó cứu thuyền viên.
Thuyền trưởng phải là người cuối
cùng rời tầu, sau khi đã tìm mọi cách cứu nhật ký hàng hải, hải đồ, tài liệu
khác của tầu, đồ vật có giá trị cao và quỹ của tầu.
Điều 48.
1- Thuyền trưởng có nghĩa vụ tìm
kiếm và cứu nạn những người đang trong tình trạng nguy hiểm trên biển, nếu việc
thực hiện nghĩa vụ này không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho tầu và những người
đang trên tầu của mình.
Chủ tầu không chịu trách nhiệm về
việc thuyền trưởng vi phạm nghĩa vụ này.
2- Thuyền trưởng của tầu đang
trong tình trạng nguy hiểm trên biển có quyền yêu cầu cứu nạn và sau khi thoả
thuận với các tầu đến cứu nạn, có quyền chỉ định tầu thực hiện hành động cứu hộ.
Điều 49.
1- Thuyền trưởng là người đại diện
của chủ tầu và của những người có lợi ích liên quan đến hàng hoá khi giải quyết
những công việc thông thường trong việc điều khiển tầu, quản trị tầu và hàng
hoá.
2- Trong phạm vi các công việc
nói tại khoản 1, Điều này, thuyền trưởng có quyền nhân danh chủ tầu và người có
lợi ích liên quan đến hàng hoá thực hiện các hành vi pháp lý, có thể khởi kiện
hoặc tham gia tố tụng trước toà án khi tầu ở ngoài cảng đăng ký, trừ trường hợp
chủ tầu hoặc người có lợi ích liên quan đến hàng hoá tuyên bố hạn chế một phần
hoặc toàn bộ quyền đại diện đó. Tuyên bố này còn có hiệu lực pháp lý đối với
người thứ ba, nếu người đó biết về sự hạn chế này.
Điều 50.
1- Trong trường hợp cần thiết,
khi tầu ở ngoài cảng đăng ký, thuyền trưởng có quyền vay tín dụng hoặc nhân
danh chủ tầu để vay tiền mặt, nhưng chỉ trong giới hạn đủ để sửa chữa tầu, bổ
sung thuyền viên, cung ứng cho tầu hoặc vì nhu cầu khác để có thể tiếp tục chuyến
đi.
2- Trong thời hạn nói tại khoản
1, Điều này, thuyền trưởng còn có quyền đem bán một phần tài sản hoặc phần dự
trữ dư thừa của tầu, nếu việc chờ nhận tiền hoặc chỉ thị của chủ tầu không có lợi
hoặc không hiện thực.
3- Trong thời gian thực hiện
chuyến đi, nếu không còn cách nào khác để có đủ các điều kiện cần thiết cho việc
kết thúc chuyến đi, thì thuyền trưởng có quyền cầm cố hoặc đem bán một phần
hàng hoá sau khi đã tìm mọi cách xin chỉ thị của người thuê vận chuyển và chủ tầu
mà không được.
4- Khi lựa chọn biện pháp để có khoản
tiền cần thiết cho việc kết thúc chuyến đi, thuyền trưởng có nghĩa vụ giảm tới
mức thấp nhất sự thiệt hại của chủ tầu và những người có lợi ích liên quan đến
hàng hoá.
Điều 51.
1- Trong khi đang hành trình mà
trên tầu không còn lương thực, thực phẩm dự trữ, thuyền trưởng có quyền trưng dụng
một phần hàng hoá là lương thực, thực phẩm vận chuyển trên tầu; nếu thật cần
thiết, thì có quyền trưng dụng lương thực, thực phẩm của những người đang ở
trên tầu. Việc trưng dụng này phải được lập thành biên bản.
2- Chủ tầu có nghĩa vụ bồi thường
số lương thực, thực phẩm bị trưng dụng.
Điều 52.
1- Thuyền trưởng có trách nhiệm
ghi vào nhật ký hàng hải và lập biên bản với sự tham gia của nhân viên y tế của
tầu và hai nhân chứng về các trường hợp sinh, tử xẩy ra trên tầu và các sự kiện
có liên quan. Thuyền trưởng có nghĩa vụ lập bản kê và bảo quản tài sản của người
chết để lại trên tầu.
2- Thuyền trưởng có trách nhiệm
thông báo về các trường hợp sinh, tử xảy ra ở trên tầu và chuyển di chúc, bản
kê tài sản của người chết cho cơ quan hộ tịch có thẩm quyền ở cảng Việt nam đầu
tiên mà tầu ghé vào hoặc cho cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự có thẩm
quyền của Việt nam, nếu tầu đến cảng nước ngoài .
3- Sau khi đã cố gắng tìm mọi
cách để xin chỉ thị của chủ tầu và hỏi ý kiến của thân nhân người chết, thuyền
trưởng nhân danh chủ tầu làm thủ tục và tổ chức mai táng.
Mọi chi phí liên quan được thanh
toán theo quy định của pháp luật.
Điều 53.
1- Khi xảy ra hành vi phạm tội ở
trên tầu, thì thuyền trưởng có trách nhiệm:
a) áp dụng các biện pháp ngăn chặn
cần thiết, lập hồ sơ theo qui định của pháp luật;
b) Bảo vệ chứng cứ và tuỳ theo điều
kiện cụ thể, chuyển giao người có hành vi phạm tội và hồ sơ cho cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ở cảng Việt Nam đầu tiên mà tầu ghé vào hoặc cho tầu thuộc các lực
lượng vũ trang Việt Nam gặp ở trên biển khi tầu đang hành trình hoặc thông báo
cho cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự có thẩm quyền của Việt Nam và làm
theo chỉ thị của cơ quan này, nếu tầu đến cảng nước ngoài.
2- Trong trường hợp cần thiết để
bảo đảm an toàn, trật tự cho tầu, người ở trên tầu và hàng hoá vận chuyển trên
tầu, thuyền trưởng có quyền giữ bất cứ người nào có liên quan đang ở trên tầu tại
một phòng dành riêng.
Điều 54.
1- Khi tầu đến cảng nước ngoài,
thuyền trưởng có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan đại diện ngoại giao hoặc
lãnh sự có thẩm quyền của Việt Nam biết về việc tầu đến cảng, trừ trường hợp
không có điều kiện thực hiện trách nhiệm này.
2- Thuyền trưởng có trách nhiệm
xuất trình các tài liệu của tầu, nếu cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự
yêu cầu.
Điều 55.
1- Ngay sau khi xảy ra các tai nạn
hàng hải, phát hiện các tai nạn hàng hải hoặc sự kiện đặc biệt liên quan đến an
toàn hàng hải tại khu mực mà tầu hoạt động, thuyền trưởng có nghĩa vụ thông báo
ngay cho nhà chức trách nơi gần nhất biết.
2- Sau khi tầu ghé vào cảng Việt
Nam đầu tiên trong chuyến đi xảy ra tai nạn hàng hải hoặc khi xảy ra tổn thất
toàn bộ, thuyền trưởng có nghĩa vụ báo cáo cho các cơ quan quản lý an toàn hàng
hải Việt Nam một cách đầy đủ về sự kiện đó. Thuyền trưởng và những người liên
quan có thể bị cơ quan này thẩm vấn, nếu xét thấy cần thiết.
3- Tai nạn hàng hải nói tại Bộ
luật này là tai nạn do đâm va và các sự cố liên quan đến tầu, gây hậu quả chết
người, gậy thương tích, làm cho tầu bị hư hỏng, chìm đắm, phá huỷ, bị cháy, bị
mắc cạn hoặc gây ô nhiễm môi trường.
Điều 56.
1- Trong trường hợp tầu, người ở
trên tầu hoặc hàng hoá vận chuyển trên tầu bị tổn thất do gặp tai nạn hoặc nghi
ngờ là có tổn thất, thì thuyền trưởng có nghĩa vụ làm "Kháng nghị hàng hải"
và chậm nhất là hai mươi bốn giờ sau khi xảy ra tai nạn hoặc kể từ khi tầu ghé
vào cảng đầu tiên sau khi xảy ra tai nạn, phải trình cơ quan có thẩm quyền để
xác nhận việc trình kháng nghị này.
2- Bộ trưởng Bộ giao thông - Vận
tải và Bưu điện quy định cơ quan có thẩm quyền xác nhận việc trình "Kháng
nghị hàng hải" tại các cảng biển Việt Nam, trình tự và thủ tục xác nhận
vào "Kháng nghị hàng hải".
3- Khi tầu hoạt động ở nước
ngoài, thuyền trưởng trình "Kháng nghị hàng hải" tại cơ quan đại diện
ngoại giao hoặc lãnh sự có thẩm quyền của Việt Nam hoặc trình cho cơ quan có thẩm
quyền ở địa phương để xác nhận việc trình kháng nghị này.
Chương 4:
CẢNG BIỂN VÀ CẢNG VỤ
Điều 57.
1- Cảng biển nói tại Bộ luật này
là cảng được mở ra để tầu biển ra, vào hoạt động. Cảng biển bao gồm các khu vực
sau đây:
a) Kho bãi, cầu cảng, nhà xưởng,
khu hành chính và dịch vụ hàng hải, sau đây gọi chung là vùng đất cảng;
b) Vùng nước trước cầu cảng,
vùng neo đậu - chuyển tải, luồng ra, vào cảng, vùng tránh bão, sau đây gọi
chung là vùng nước cảng.
2- Khu vực hàng hải nói tại Bộ
luật này bao gồm vùng nước của nhiều cảng gần kề nhau và luồng quá cảng.
3- Hội đồng bộ trưởng quy định
việc mở các cảng biển.
Bộ trưởng Bộ
Giao thông - Vận tải và Bưu điện công bố việc mở cảng biển, việc tạm thời cấm tầu
ra, vào cảng và ban hành Quy chế hoạt động hàng hải trong từng vùng nước cảng
biển hoặc khu vực hàng hải.
Điều 58.
1- Cơ quan thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước chuyên ngành về hàng hải tại các khu vực hàng hải và vùng nước
cảng biển là cảng vụ.
2- Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận
tải và Bưu điện công bố khu vực trách nhiệm của cảng vụ, sau khi tham khảo ý kiến
của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính
tương đương; quy định về tổ chức và chỉ đạo hoạt động của cảng vụ.
Điều 59.
Người có quyền chỉ huy cao nhất
của cảng vụ là Giám đốc cảng vụ, Giám đốc cảng vụ có nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
1- Tổ chức thực hiện quy chế hoạt
động của cảng vụ, kiểm tra việc chấp hành các quy định bảo đảm an toàn hàng hải,
phòng ngừa ô nhiễm môi trường, vệ sinh và trật tự hàng hải;
2- Không cho phép tầu vào hoặc rời
cảng khi tầu không có đủ các điều kiện an toàn hàng hải cần thiết hoặc chưa
thanh toán xong các khoản nợ, tiền phạt vi phạm quy chế hoạt động tại cảng;
3- Thực hiện yêu cầu tạm giữ, bắt
giữ hàng hải đối với tầu biển hoặc lệnh bắt giữ tầu biển của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
4- Cấp giấy phép hoạt động cho tầu
thuyền và người hoạt động trong khu vực trách nhiệm; thu hồi giấy phép đã cấp,
nếu xét thấy không đủ điều kiện bảo đảm an toàn hàng hải;
5- Tổ chức tìm kiếm và cứu nạn tầu,
người trong khu vực trách nhiệm;
6- Xử phát hành chính các hành
vi vi phạm quy định về an toàn hàng hải, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, vệ sinh
và trật tự hàng hải.
Điều 60.
1- Trong phạm vi quyền hạn và
trách nhiệm của mình, các cơ quan quản lý Nhà nước về hàng hải, an ninh, kiểm dịch,
hải quan, thuế, văn hoá, phòng chống cháy - nổ, bảo vệ môi trường và các cơ
quan quản lý Nhà nước khác hoạt động tại cảng biển theo quy định của pháp luật.
2- Các cơ quan quản lý Nhà nước
có trách nhiệm hoạt động thường xuyên tại cảng có quyền đặt trụ sở làm việc
trong cảng, Giám đốc xí nghiệp cảng có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan này thực hiện nhiệm vụ.
3- Hội đồng
Bộ trưởng ban hành Quy chế phối hợp công tác giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
hoạt động tại cảng biển.
Chương 5:
HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG
HOÁ
Mục A: QUY
ĐỊNH CHUNG
Điều 61.
1- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá là
hợp đồng được ký kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển mà theo đó
người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng
tầu biển để vận chuyển hàng hoá từ cảng bốc hàng đến cảng đích.
Hợp đồng vận chuyển được ký kết
theo các hình thức do các bên thoả thuận và là cơ sở để xác định quan hệ pháp
luật giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển.
2- Người vận chuyển là người
dùng tầu biển thuộc sở hữu của mình hoặc thuê tầu thuộc sở hữu của người khác để
thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hoá.
Người thuê vận chuyển là người
nhân danh mình hoặc nhân danh người khác ký hợp đồng để thuê người vận chuyển vận
chuyển hàng hoá.
3- Người thuê vận chuyển có quyền
chỉ định một người khác thay mặt mình thực hiện nghĩa vụ giao hàng cho người vận
chuyển, sau đây gọi là người giao hàng.
Các quy định tại Chương này đối
với người giao hàng cũng được áp dụng đối với người thuê vận chuyển, nếu trong
thực tế người thuê vận chuyển tự mình giao hàng cho người vận chuyển.
Điều 62.
1- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
có thể được ký kết với điều kiện người vận chuyển phải dành cho người thuê vận
chuyển nguyên tầu hoặc một phần tầu cụ thể để vận chuyển hàng hoá theo chuyến
hoặc trong thời hạn nhất định, sau đây gọi là hợp đồng thuê tầu.
2- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
cũng có thể được ký kết với điều kiện người vận chuyển không phải dành cho người
thuê vận chuyển nguyên tầu hoặc một phần tầu cụ thể mà chỉ căn cứ vào chủng loại,
số lượng, kích thước hoặc trọng lượng của hàng hoá để vận chuyển, sau đây gọi
là hợp đồng lưu khoang.
Điều 63.
Người thuê vận chuyển có thể
chuyển giao quyền theo hợp đồng của mình cho người thứ ba mà không cần người vận
chuyển đồng ý, nhưng vẫn phải có trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng vận
chuyển hàng hoá theo nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm với người thứ ba đã được
chuyển giao quyền.
Điều 64.
Người vận chuyển có nghĩa vụ
dùng tầu đã được chỉ định trong hợp đồng để vận chuyển hàng hoá, trừ những trường
hợp sau đây:
a) Đối với hợp đồng thuê tầu,
thì người vận chuyển chỉ được thay thế tầu đã được chỉ định trong hợp đồng bằng
tầu khác, sau khi người thuê vận chuyển đồng ý;
b) Đối với hợp đồng lưu khoang,
thì người vận chuyển có quyền thay thế tầu đã được chỉ định trong hợp đồng bằng
một tầu khác cùng loại, có đủ điều kiện cần thiết để vận chuyển hàng hoá, nếu hợp
đồng không cấm việc thay thế tầu và phải thông báo cho người thuê vận chuyển biết.
Điều 65.
1- Thời hiệu khiếu nại liên quan
đến việc thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá là một năm, tính từ ngày thanh
toán tiền cước vận chuyển.
2- Thời hiệu khiếu nại về hư hỏng
hoặc mất mát hàng hoá vận chuyển theo vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá
tương đương là một năm, tính từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người
nhận hàng.
Điều 66.
Các quy định tại Chương này không
áp dụng đối với việc vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện. Hội đồng bộ trưởng quy định
việc vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện bằng tầu biển.
Mục B: BỐC
HÀNG
Điều 67.
1- Người vận chuyển có nghĩa vụ
đưa tầu đến cảng bốc hàng trong trạng thái sẵn sàng để nhận hàng, đúng thời điểm
và địa điểm; lưu tầu tại nơi bốc hàng theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng vận chuyển hàng hoá.
2- Người vận chuyển có nghĩa vụ
chăm sóc chu đáo để trước và khi bắt đầu chuyến đi, tầu có đủ khả năng đi biển;
có thuyền bộ thích hợp; được cung ứng đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ;
các hầm hàng, hầm lạnh và khu vực khác dùng để vận chuyển hàng hoá có đủ các điều
kiện nhận, vận chuyển và bảo quản hàng hoá phù hợp với tính chất của hàng hoá.
Điều 68.
1- Nếu trong hợp đồng không có
thoả thuận cụ thể về nơi bốc hàng tại cảng bốc hàng, thì người vận chuyển đưa tầu
đến địa điểm được tập quán địa phương coi là nơi bốc hàng.
2- Nếu việc vận chuyển được thực
hiện theo hợp đồng thuê tầu, thì người vận chuyển đưa tầu đến nơi bốc hàng do
người thuê vận chuyển chỉ định. Nơi bốc hàng này phải an toàn, không gây trở ngại
cho việc tầu vào, ra, chờ đợi cùng với hàng hoá. Trong trường hợp có nhiều người
thuê vận chuyển mà họ không thoả thuận được về nơi bốc hàng hoặc khi người thuê
vận chuyển không chỉ định rõ nơi bốc hàng, thì người vận chuyển đưa tầu đến địa
điểm được tập quán địa phương coi là nơi bốc hàng.
3- Người thuê vận chuyển trong
trường hợp thuê tầu, trừ tầu chuyên tuyến, có thể yêu cầu người vận chuyển thay
đổi vị trí tầu, mặc dù nơi bốc hàng đã được ghi rõ trong hợp đồng. Người thuê vận
chuyển phải thanh toán đầy đủ các chi phí liên quan đến việc thực hiện yêu cầu này.
4- Người thuê vận chuyển trong hợp
đồng lưu khoang chỉ được yêu cầu người vận chuyển thay đổi vị trí tầu, nếu đã có
thoả thuận trong hợp đồng hoặc được tập quán địa phương cho phép.
Điều 69.
1- Nếu việc vận chuyển hàng hoá
được thực hiện theo hợp đồng thuê tầu, thì người vận chuyển có nghĩa vụ thông
báo bằng văn bản cho người thuê vận chuyển hoặc người giao hàng về việc tầu đã
đến cảng bốc hàng và sẵn sàng để nhận hàng, sau đây gọi là "Thông báo sẵn
sàng".
Ngày, giờ có hiệu lực của
"Thông báo sẵn sàng" do các bên thoả thuận trong hợp đồng; nếu không
có thoả thuận, thì được xác định theo tập quán địa phương.
Người vận chuyển phải bồi thường
mọi thiệt hại phát sinh do nội dung của "Thông báo sẵn sàng" không
dúng với sự thật ở thời điểm người thuê vận chuyển hoặc người giao hàng nhận được
văn bản này.
2- Nếu việc vận chuyển hàng hoá
được thực hiện theo hợp đồng lưu khoang, thì người vận chuyển có nghĩa vụ thông
báo trong thời gian hợp lý cho người thuê vận chuyển hoặc người giao hàng biết
trước về nơi bốc hàng lên tầu, thời điểm mà tầu sẵn sàng nhận hàng và thời hạn
tập kết hàng hoá.
Trách nhiệm thông báo này không
áp dụng đối với tầu chuyên tuyến, trừ trường hợp lịch tầu có sự thay đổi.
Điều 70.
1- Thời hạn bốc hàng do các bên
thoả thuận trong hợp đồng thuê tầu; nếu không có thoả thuận, thì áp dụng tập
quán địa phương.
2- Thời gian gián đoạn do người thuê
vận chuyển hoặc người giao hàng gây ra, cũng như thời gian tầu thay đổi vị trí
theo yêu cầu của người thuê vận chuyển đều được tính vào thời hạn bốc hàng.
3- Thời gian gián đoạn do người
vận chuyển gây ra hoặc do các nguyên nhân bất khả kháng hoặc do điều kiện thời tiết
làm ảnh hưởng đến việc bốc hàng đúng kỹ thuật hoặc có thể gây nguy hiểm cho việc
bốc hàng đều không được tính vào thời hạn bốc hàng.
4- Người thuê vận chuyển hoặc
người giao hàng có thể thoả thuận với người vận chuyển về chế độ thưởng cho việc
bốc hàng xong trước thời hạn hoặc phạt đối với việc bốc hàng quá thời hạn bốc
hàng đã thoả thuận.
Điều 71.
1- Các bên tham gia hợp đồng
thuê tầu có thể thoả thuận trong hợp đồng về thời gian cho phép kéo dài thêm
ngoài thời hạn bốc hàng nói tại Điều 70 của Bộ luật này, sau
đây gọi là thời hạn dôi nhật. Nếu trong hợp đồng không quy định cụ thể số ngày,
giờ, thì thời hạn dôi nhật được các bên liên quan xác định theo tập quán địa
phương.
2- Tiền thanh toán về thời hạn
dôi nhật do các bên thoả thuận trong hợp đồng; nếu không có thoả thuận, thì xác
định theo tập quán địa phương.
Nếu tập quán địa phương cũng
không có quy ước, thì khoản tiền này được xác định trên cơ sở tổng chi phí thực
tế để duy trì tầu và thuyền bộ trong thời hạn dôi nhật.
3- Thời gian tầu phải lưu lại cảng
bốc hàng sau thời hạn bốc hàng và thời hạn dôi nhật do người thuê vận chuyển hoặc
người giao hàng gây ra gọi là thời gian lưu tầu. Người vận chuyển có quyền đòi
bồi thường các thiệt hại phát sinh do lưu tầu.
Điều 72.
Người thuê vận chuyển có quyền
thay thế hàng hoá đã được ghi trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng loại hàng
hoá khác có tính chất tương đương, không ảnh hưởng đến quyền lợi của người vận
chuyển và những người thuê vận chuyển khác.
Tiền cước vận chuyển đối với loại
hàng hoá thay thế không được thấp hơn giá cước đã thoả thuận đối với loại hàng
hoá bị thay thế.
Điều 73.
1- Hàng hoá phải được sắp xếp
trên tầu theo "Sơ đồ hàng hoá" do thuyền trưởng quyết định. Việc xếp
hàng hoá trên boong phải được người giao hàng đồng ý bằng văn bản.
2- Người vận chuyển có nghĩa vụ
chăm sóc chu đáo tới việc bốc hàng; sắp xếp, chằng buộc và ngăn cách hàng hoá ở
trên tầu. Các chi phí liên quan do hai bên thoả thuận trong hợp đồng.
Điều 74.
Người vận chuyển có quyền cho tầu
rời nơi bốc hàng sau khi thời hạn bốc hàng và thời hạn dôi nhật trong hợp đồng
thuê tầu hoặc thời hạn tập kết hàng hoá trong hợp đồng lưu khoang đã kết thúc,
mặc dù toàn bộ hàng hoá hoặc một phần hàng hoá được thuê vận chuyển chưa được bốc
lên tầu do những nguyên nhân thuộc về người thuê vận chuyển. Trong trường hợp này,
người vận chuyển vẫn được thu đủ tiền cước vận chuyển, kể cả tiền cước của số
hàng hoá chưa được bốc lên tầu, cước thu đối với số hàng hoá đó gọi là cước khống.
Điều 75.
1- Trong trường hợp cho thuê
nguyên tầu, người vận chuyển có quyền thu đủ cước, nhưng phải thực hiện các yêu
cầu sau đây của người thuê vận chuyển:
a) Cho tầu khởi hành trước thời
hạn;
b) Bốc lên tầu số hàng hoá đã tập
kết ở nơi bốc hàng, mặc dù thời hạn dôi nhật đã kết thúc, nếu việc bốc số hàng
đó chỉ làm lưu tầu trong thời hạn không quá mười bốn ngày và vẫn được hưởng quyền
lợi nói tại khoản 3, Điều 71 của Bộ luật này.
2- Trong trường hợp cho thuê một
phần tầu, người vận chuyển có quyền thu đủ cước và từ chối bốc lên tầu số hàng hoá
được đưa đến sau thời hạn bốc hàng hoặc sau thời hạn dôi nhật đã thoả thuận do
nguyên nhân thuộc về người thuê vận chuyển hoặc người giao hàng.
Điều 76.
1- Chỉ được xếp hàng vào những
khu vực dành riêng cho việc vận chuyển hàng hoá ở trên tầu, ngay cả khi người
thuê vận chuyển thuê nguyên tầu.
2- Người thuê vận chuyển có quyền
đòi người vận chuyển giảm tiền cước vận chuyển và bồi thường các thiệt hại phát
sinh do không nhận đủ phần tầu đã thuê theo hợp đồng thuê tầu.
Điều 77.
1- Hàng hoá phải được đóng gói
và đánh dấu ký, mã hiệu hàng hoá theo quy định hiện hành.
2- Người vận chuyển có quyền từ
chối bốc lên tầu những hàng hoá không bảo đảm các tiêu chuẩn đóng gói cần thiết.
3- Đối với hàng hoá dễ nổ, dễ
cháy và các loại hàng hoá nguy hiểm khác hoặc loại hàng hoá cần phải có biện
pháp đặc biệt khi bốc, vận chuyển, bảo quản và dỡ hàng, thì ngoài trách nhiệm
nói tại khoản 1, Điều này, người thuê vận chuyển còn có nghĩa vụ cung cấp trong
một thời gian thích hợp cho người vận chuyển các tại liệu và chỉ dẫn cần thiết
về hàng hoá.
Người thuê vận chuyển phải bồi
thường các tổn thất phát sinh do việc cung cấp chậm trễ, thiếu chính xác hoặc
không hợp lệ các tài liệu và chỉ dẫn cần thiết.
Điều 78.
1- Người thuê vận chuyển dù cố ý
hoặc vô ý đều phải chịu trách nhiệm đối với người vận chuyển, hành khách, thuyền
viên và các chủ hàng khác về những tổn thất phát sinh do khai báo hàng hoá
không chính xác hoặc không đúng sự thật.
2- Người giao hàng cũng phải chịu
trách nhiệm theo quy định tại khoản 1, Điều này, nếu có lỗi gây ra tổn thất.
3- Người thuê vận chuyển hoặc
người giao hàng chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất nói tại khoản 1, Điều này, nếu
người vận chuyển chứng minh được là họ có lỗi gây ra tổn thất đó.
Điều 79.
1- Người vận chuyển có quyền dỡ
khỏi tầu, huỷ bỏ hoặc làm mất khả năng gây hại của hàng hoá dễ nổ, dễ cháy hoặc
hàng hoá nguy hiểm khác mà không phải bồi thường và vẫn được thu đủ cước, nếu số
hàng hoá đó đã được khai báo sai hoặc do người vận chuyển không được thông báo
trước và cũng không thể nhận biết về những đặc tính nguy hiểm của hàng hoá khi
bốc hàng qua sự hiểu biết nghiệp vụ thông thường.
Người thuê vận chuyển phải chịu
trách nhiệm về các tổn thất phát sinh.
2- Trong trường hợp người vận
chuyển đã nhận bốc lên tầu những hàng hoá nguy hiểm, mặc dù đã được thông báo
trước hoặc đã nhận biết tính chất nguy hiểm của hàng hoá đó qua sự hiểu biết
nghiệp vụ thông thường và đã thực hiện các biện pháp bảo quản theo đúng quy định,
nhưng khi hàng hoá đó đe doạ sự an toàn của tầu, người và hàng hoá trên tầu,
thì người vận chuyển cũng có quyền xử lý như quy định tại khoản 1, Điều này.
Trong trường hợp này, người vận chuyển chịu trách nhiệm về tổn thất phát sinh
theo các nguyên tắc về tổn thất chung và chỉ được thu cước cự ly.
Mục C: VẬN
ĐƠN
Điều 80.
1- Theo yêu cầu của người giao
hàng, người vận chuyển có nghĩa vụ ký phát cho người giao hàng một bộ vận đơn.
2- Người vận chuyển và người
giao hàng có thể thoả thuận việc thay thế vận đơn bằng giấy gửi hàng hoặc chứng
từ vận chuyển hàng hoá tương đương và thoả thuận về nội dung, giá trị của các
chứng từ này theo tập quán hàng hải quốc tế.
Điều 81.
1- Vận đơn là bằng chứng về việc
người vận chuyển đã nhận lên tầu số hàng hoá với số lượng, chủng loại, tình trạng
như ghi rõ trong vận đơn để vận chuyển đến nơi trả hàng.
2- Vận đơn gốc là chứng từ có
giá trị, dùng để định đoạt và nhận hàng.
3- Vận đơn xác định mối quan hệ
pháp luật giữa người vận chuyển và người nhận hàng. Các quy định trong hợp đồng
vận chuyển hàng hoá chỉ có tác dụng ràng buộc người nhận hàng, nếu trong vận
đơn có ghi rõ điều đó.
Điều 82.
1- Vận đơn phải bao gồm nội dung
cơ bản sau:
a) Tên người vận chuyển và trụ sở
giao dịch chính;
b) Tên người giao hàng;
c) Tên người nhận hàng hoặc ghi
rõ vận đơn được ký phát dưới dạng vận đơn theo lệnh hoặc vận đơn vô danh;
d) Tên tầu;
e) Sự mô tả về chủng loại, kích
thước, thể tích, số lượng đơn vị, trọng lượng hoặc giá trị, nếu xét thấy cần
thiết;
g) Sự mô tả tình trạng bên ngoài
hoặc bao bì hàng hoá;
h) Ký, mã hiệu và đặc điểm nhận
biết hàng hoá mà người giao hàng đã thông báo bằng văn bản trước khi bốc hàng
và được đánh dấu trên từng đơn vị hàng hoá hoặc bao bì;
i) Tiền cước vận chuyển và các khoản
thu khác của người vận chuyển; ghi chú phương thức thanh toán;
k) Nơi bốc hàng và cảng bốc
hàng;
l) Cảng đích hoặc chỉ dẫn thời
gian, địa điểm sẽ chỉ định cảng đích;
m) Số bản vận đơn gốc đã ký phát
cho người giao hàng;
n) Thời điểm và địa điểm ký phát
vận đơn;
o) Chữ ký của người vận chuyển
hoặc của thuyền trưởng hoặc đại diện khác có thẩm quyền của người vận chuyển.
2- Nếu tên người vận chuyển
không được xác định cụ thể trong vận đơn, thì chủ tầu được coi là người vận
chuyển. Trong trường hợp vận đơn được lập theo quy định tại khoản 1, Điều này
ghi không chính xác hoặc không đúng sự thật về người vận chuyển, thì chủ tầu chịu
trách nhiệm bồi thường các tổn thất phát sinh và sau đó được đòi người vận chuyển
bồi hoàn.
Điều 83.
1- Vận đơn có thể được ký phát
dưới các dạng sau đây:
a) Ghi rõ tên người nhận hàng, gọi
là vận đơn đích danh;
b) Ghi rõ người giao hàng hoặc
những người do người giao hàng chỉ định sẽ phát lệnh trả hàng, gọi là vận đơn
theo lệnh;
c) Không ghi rõ tên người nhận
hàng hoặc người phát lệnh trả hàng, gọi là vận đơn xuất trình.
2- Nếu trong vận đơn theo lệnh
không ghi rõ tên người phát lệnh trả hàng, thì người giao hàng mặc nhiên được
coi là người có quyền đó.
Điều 84.
Vận đơn có thể được chuyển nhượng
theo các nguyên tắc sau đây:
a) Vận đơn đích danh được chuyển
nhượng bằng cách sang tên quyền sở hữu theo thủ tục do pháp luật quy định. Người
có tên trong vận đơn đích danh là người nhận hàng hợp pháp;
b) Vận đơn theo lệnh được chuyển
nhượng bằng cách ghi vào ô ký hậu của vận đơn về người có quyền phát lệnh trả
hàng. Người cuối cùng có quyền phát lệnh trả hàng trong vận đơn theo lệnh là
người nhận hàng hợp pháp, mặc dù vẫn còn ô ký hậu để trống;
c) Vận đơn vô danh được chuyển
nhượng bằng cách trao cho người được chuyển nhượng. Người xuất trình vận đơn vô
danh là người nhận hàng hợp pháp.
Điều 85.
1- Các đặc điểm của hàng hoá được
ghi vào vận đơn theo "Giấy khai hàng" của người giao hàng.
2- Người giao hàng phải chịu
trách nhiệm đối với người vận chuyển về tổn thất phát sinh do đã khai không
chính xác hoặc không đúng sự thật về chủng loại, kích thước, thể tích, số lượng
đơn vị, trọng lượng, ký, mã hiệu của hàng hoá.
Người vận chuyển vẫn phải chịu
trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng vận chuyển đối với những người
khác, không phải là người thuê vận chuyển hoặc người giao hàng.
Điều 86.
1- Người vận chuyển có quyền ghi
chú vào vận đơn các nhận xét của mình về tình trạng bên ngoài hoặc bao bì hàng
hoá, nếu có nghi vấn.
2- Người vận chuyển có quyền từ
chối ghi vào vận đơn sự mô tả về hàng hoá, nếu có đủ căn cứ nghi ngờ tính chính
xác về lời khai báo của người giao hàng ở thời điểm bốc hàng hoặc khi không có điều
kiện xác minh.
3- Người vận chuyển có quyền từ
chối ghi vào vận đơn ký, mã hiệu hàng hoá, nếu chúng chưa được đánh dấu rõ ràng
trên từng kiện hàng hoặc bao bì, bảo đảm dễ nhận thấy khi chuyến đi kết thúc.
4- Nếu hàng hoá được đóng gói
trước khi giao cho người vận chuyển, thì người vận chuyển có quyền ghi vào vận
đơn là không biết rõ nội dung bên trong.
Điều 87.
1- Việc vận chuyển hàng hoá được
thực hiện với sự tham gia của người vận chuyển đường bộ, đường sông hoặc đường
không, gọi là liên hiệp vận chuyển.
Vận đơn được ký phát cho cả quá
trình vận chuyển hàng hoá trong liên hiệp vận chuyển, gọi là vận đơn suốt.
2- Các quy định về vận đơn nói tại
Bộ luật này cũng được áp dụng đối với loại vận đơn suốt do người vận chuyển đường
biển ký phát, trừ trường hợp có những văn bản pháp luật khác qui định cụ thể.
Điều 88.
1- Người vận chuyển đã ký phát vận
đơn suốt có nghĩa vụ tổ chức việc vận chuyển hàng hoá và chịu trách nhiệm về
hàng hoá trong cả quá trình vận chuyển theo vận đơn suốt, cho đến khi hàng đã
được trả cho người nhận hàng hợp pháp.
2- Phạm vi trách nhiệm giữa người
ký phát vận đơn suốt và những người vận chuyển khác trong liên hiệp vận chuyển
do các bên thoả thuận theo nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm.
3- Người vận chuyển nào đã phải
bồi thường tổn thất liên quan đến vận đơn suốt theo nguyên tắc cộng đồng trách
nhiệm, thì có quyền yêu cầu những người vận chuyển khác hoàn trả số tiền bồi
thường theo tỉ lệ tiền cước vận chuyển tương ứng với quãng vận chuyển do họ thực
hiện.
Người vận chuyển nào chứng minh
được mình đã không có lỗi, thì không phải hoàn trả số tiền đó.
4- Người vận chuyển tham gia
liên hiệp vận chuyển có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình và tận
tâm chuẩn bị cho các quãng vận chuyển khác được thực hiện có kết quả.
Người vận chuyển trong quãng cuối
cùng của liên hiệp vận chuyển có nghĩa vụ bảo vệ các quyền của những người vận
chuyển khác, đặc biệt là quyền cầm giữ hàng hoá.
Mục D: THỰC
HIỆN VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ
Điều 89.
1- Người vận chuyển phải thực hiện
việc vận chuyển hàng hoá trong thời gian hợp lý, theo đúng tuyến đường quy định
trong hợp đồng hoặc theo tuyến đường thường lệ, nếu trong hợp đồng không có thoả
thuận khác.
2- Người vận chuyển không bị coi
là vi phạm hợp đồng, nếu tầu phải đi trệch đường để cứu người, tài sản trên biển
hoặc do các nguyên nhân chính đáng khác mà không ảnh hưởng đến hợp đồng vận
chuyển. Người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn thất
hàng hoá phát sinh do tầu phải đi trệch đường trong các trường hợp này.
Điều 90.
1- Trong trường hợp tầu không
vào được cảng đích do những nguyên nhân không thể vượt qua được và cũng không
có khả năng chờ đợi để vào cảng đích sau một thời gian hợp lý, thì người vận
chuyển được phép đưa tầu vào một cảng an toàn gần nhất và phải thông báo cho
người thuê vận chuyển biết để xin chỉ thị.
2- Trong trường hợp cho thuê
nguyên tầu, thì tuỳ theo điền kiện cụ thể, thuyền trưởng phải xin chỉ thị và
hành động theo chỉ thị của người thuê vận chuyển. Nếu không có khả năng thực hiện
chỉ thị của người vận chuyển hoặc sau một thời gian chờ đợi hợp lý mà vẫn không
nhận được chỉ thị của người thuê vận chuyển, thì thuyền trưởng có thể dỡ hàng
lên khỏi tầu hoặc vận chuyển hàng quay lại cảng bốc hàng, tuỳ theo sự suy xét của
mình, sao cho quyền lợi của người thuê vận chuyển được bảo vệ chính đáng. Người
thuê vận chuyển phải trả cho người vận chuyển cước cự ly và chi phí liên quan.
3- Trong trường hợp không cho
thuê nguyên tầu, thì thuyền trưởng cũng có quyền hành động như quy định tại khoản
1, Điều này, nếu năm ngày sau khi gửi thông báo xin chỉ thị mà vẫn không nhận
được chỉ thị của người thuê vận chuyển. Người thuê vận chuyển phải trả cho người
vận chuyển đủ cước và chi phí liên quan.
Mục E: DỠ
HÀNG VÀ TRẢ HÀNG
Điều 91.
Các quy định tại Chương này liên
quan đến việc bốc hàng cũng được áp dụng tương tự đối với việc dỡ hàng và trả
hàng.
Điều 92.
1- Người thuê vận chuyển có quyền
định đoạt hàng hoá cho tới khi hàng được trả cho người nhận hợp pháp, nếu chưa
chính thức giao quyền này cho người khác; có quyền yêu cầu dỡ hàng trước khi tầu
bắt đầu chuyến đi, thay đổi người nhận hàng hoặc cảng đích sau khi chuyến đi đã
bắt đầu với điều kiện phải bồi thường mọi tổn thất và chi phí liên quan.
2- Trong trường hợp hàng hoá được
vận chuyển theo vận đơn, thì các quyền nói tại khoản 1, Điều này thuộc về người
nhận hàng hợp pháp nào có vận đơn gốc. Người vận chuyển chỉ có nghĩa vụ thực hiện
các chỉ thị của người đó sau khi đã thu lại toàn bộ số vận đơn gốc đã ký phát.
3- Các quyền nói tại khoản 1, Điều
này, không được áp dụng, nếu việc thực hiện gây ra sự chậm chễ đáng kể cho việc
bắt đầu chuyến đi, trừ khi người vận chuyển đồng ý.
Điều 93.
Khi tầu đến cảng đích, người vận
chuyển có nghĩa vụ trả hàng cho người nhận hàng hợp pháp nào có ít nhất một bản
vận đơn gốc hoặc giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá tương đương có
giá trị để nhận hàng quy định tại khoản 2, Điều 80 của Bộ luật
này.
Sau khi hàng đã được trả, các bản
khác không còn giá trị để nhận hàng.
Điều 94.
1- Khi nhận hàng, người nhận
hàng phải thanh toán cho người vận chuyển tiền cước vận chuyển, tiền bồi thường
do lưu tầu hoặc các khoản chi phí khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá,
nếu các khoản tiền đó chưa được thanh toán trước.
Trong trường hợp hàng hoá được vận
chuyển theo vận đơn, thì người nhận hàng chỉ phải thanh toán các chi phí quy định
trong vận đơn.
2- Người vận chuyển có quyền từ
chối trả hàng và có quyền lưu giữ hàng, nếu người thuê vận chuyển và người nhận
hàng chưa thanh toán đủ các khoản nợ hoặc khi chưa nhận được sự bảo đảm thoả
đáng.
Các khoản nợ không trả đúng hạn
được tính thêm lãi, theo lãi suất áp dụng tại ngân hàng giao dịch liên quan.
Các khoản nợ này bao gồm cả các
chi phí đóng góp vào tổn thất chung và tiền công cứu hộ được phân bổ cho hàng
hoá.
3- Người vận chuyển mất quyền
khiếu nại người thuê vận chuyển, nếu hàng đã được trả cho người nhận hàng.
Điều 95.
1- Trước khi trả hàng, người nhận
hàng và người vận chuyển đều có thể yêu cầu giám định hàng hoá. Người yêu cầu
phải thanh toán giám định phí.
Người vận chuyển phải thanh toán
giám định phí, ngay cả khi người nhận hàng yêu cầu giám định, nếu không chứng
minh được rằng hàng hoá bị mất mát, hư hỏng ngoài phạm vi trách nhiệm của mình.
2- Hàng hoá được coi là đã trả đủ
và đúng như ghi trong vận đơn, nếu người nhận hàng không thông báo bằng văn bản
cho người vận chuyển về các mất mát, hư hỏng hàng hoá ngay khi nhận hàng hoặc
chậm nhất là ba ngày tính từ ngày nhận hàng, nếu không thể phát hiện thiệt hại
từ bên ngoài. Đối với hàng hoá đã giám định nói tại khoản 1, Điều này, thì
không cần thông báo bằng văn bản.
Mọi thoả thuận trái với quy định
này đều không có giá trị.
Điều 96.
1- Nếu người nhận hàng không đến
nhận hoặc từ chối nhận hàng hoặc trì hoãn việc dỡ hàng, thì người vận chuyển có
quyền dỡ hàng và ký gửi vào một nơi an toàn, thích hợp và thông báo cho người
thuê vận chuyển biết. Mọi chi phí và tổn thất phát sinh do người nhận hàng chịu
trách nhiệm bồi thường.
2- Người vận chuyển có quyền
hành động theo quy định tại khoản 1, Điều này, nếu có nhiều người cùng xuất
trình vận đơn gốc hoặc giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá tương
đương có giá trị để nhận hàng.
3- Việc bồi thường tổn thất do
lưu tầu để dỡ hàng và ký gửi hàng nói tại khoản 1, Điều này cũng được giải quyết
tương tự như trường hợp lưu tầu để bốc hàng.
4- Trong thời hạn sáu mươi ngày,
tính từ ngày tầu đến cảng đích, nếu không có người nhận số hàng ký gửi hoặc người
nhận hàng không thanh toán hết các khoản nợ hoặc không đưa ra một bảo đảm cần
thiết, thì người vận chuyển có quyền bán đấu giá số hàng đó để trừ nợ; nếu là
hàng hoá mau hỏng hoặc việc ký gửi là quá tốn kém so với giá trị thực tế của
hàng, thì người vận chuyển có quyền bán đấu giá trước thời hạn đó.
Người vận chuyển có nghĩa vụ
thông báo cho người thuê vận chuyển biết về những trường hợp nói tại khoản 1, 2
và 4, Điều này và dự định bán hàng để trừ nợ theo quy định tại khoản 4, Điều này.
5- Hội đồng bộ trưởng quy định cụ
thể thủ tục bán đấu giá các loại hàng hoá nói tại Điều này.
Điều 97.
1- Sau khi khấu trừ các khoản nợ
của người nhận hàng và các chi phí liên quan đến việc ký gửi và bán đấu giá
hàng hoá nói tại Điều 96 của Bộ luật này, số tiền còn thừa
phải được gửi vào ngân hàng để trả lại cho người có quyền nhận số tiền đó.
2- Nếu tiền bán hàng không đủ để
thanh toán các khoản tiền nói tại khoản 1, Điều này, thì người vận chuyển có
quyền tiếp tục khiếu nại đòi những người liên quan phải trả đủ.
3- Trong thời hạn một trăm tám
mươi ngày, kể từ ngày bán đấu giá hàng hoá mà không có ai yêu cầu nhận lại số
tiền còn thừa, thì người vận chuyển đem nộp vào kho bạc Nhà nước theo thủ tục
do pháp luật quy định.
Mục G: CƯỚC
PHÍ VÀ PHỤ PHÍ VẬN CHUYỂN
Điều 98.
1- Giá cước và phụ phí vận chuyển
hàng hoá được xác định trên cơ sở biểu giá do Hội đồng bộ trưởng quy định. Nếu
giá cước và phụ phí vận chuyển hàng hoá không được Hội đồng bộ trưởng quy định,
thì do các bên tự thoả thuận trong hợp đồng.
2- Thời hạn, phương thức thanh
toán tiền cước và phụ phí vận chuyển do các bên thoả thuận trong hợp đồng.
Điều 99.
1- Đối với số hàng hoá bị thiệt hại
do có tai nạn trong khi tầu đang hành trình, thì dù với bất cứ nguyên nhân nào
cũng được miễn tiền cước vận chuyển; nếu đã thu thì phải hoàn trả lại. Trong
trường hợp hàng hoá lại được cứu thoát hoặc được hoàn trả lại, thì người vận
chuyển chỉ được thu cước cự ly, nếu người có quyền lợi liên quan đến hàng hoá
đó không thu được lợi ích gì từ quãng đường mà hàng hoá đó đã được tầu vận chuyển.
2- Cước cự ly là tiền cước vận
chuyển được tính trên cơ sở tỉ lệ giữa quãng đường mà hàng hoá được vận chuyển
trong thực tế so với toàn bộ quãng đường vận chuyển đã thoả thuận trong hợp đồng,
cũng như trên cơ sở tỷ lệ giữa sự đầu tư chi phí, thời gian, sự rủi ro hoặc khó
khăn thông thường liên quan đến quãng vận chuyển đã thực hiện so với quãng vận
chuyển còn lại.
3- Trong trường hợp hàng hoá hư
hỏng hoặc hao hụt do đặc tính riêng hoặc hàng hoá là súc vật mà bị chết trong
khi vận chuyển, thì người vận chuyển vẫn có quyền thu đủ tiền cước vận chuyển.
Điều 100.
1- Trong trường hợp hàng hoá được
bốc lên tầu vượt qúa khối lượng đã thoả thuận trong hợp đồng, thì người vận
chuyển cũng chỉ có quyền thu tiền cước vận chuyển theo giá cước đã thoả thuận đối
với số hàng hoá đó.
2- Trong trường hợp hàng hoá được
bốc lậu lên tầu, thì người vận chuyển có quyền thu gấp đôi tiền cước vận chuyển
từ cảng bốc hàng đến cảng đích và được bồi thường các tổn thất phát sinh do việc
xếp số hàng hoá bốc lậu đó trên tầu. Người vận chuyển còn có quyền dỡ số hàng
hoá bốc lậu đó tại bất cứ cảng nào, nếu xét thấy cần thiết.
Mục H: CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG
Điều 101.
1- Người thuê vận chuyển có quyền
rút khỏi hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
a) Người vận chuyển không đưa tầu
đến nơi bốc hàng đúng thời điểm thoả thuận hoặc chậm trễ trong việc bốc hàng hoặc
bắt đầu chuyến đi; người thuê vận chuyển có quyền được bồi thường các tổn thất
phát sinh;
b) Khi hàng đã xếp xong mà vẫn
chưa bắt đầu chuyến đi hoặc khi tầu đang thực hiện chuyến đi, người thuê vận
chuyển có quyền yêu cầu dỡ hàng và phải trả đủ tiền cước vận chuyển, chi phí
liên quan cho người vận chuyển.
2- Người vận chuyển có quyền từ
chối, không thực hiện yêu cầu dỡ hàng của người thuê vận chuyển nói tại điểm b,
khoản 1, Điều này, nếu xét thấy việc đó làm chậm trễ chuyến đi hoặc ảnh hưởng đến
quyền lợi của những người liên quan do phải thay đổi lịch trình đã định.
Điều 102.
1- Trong trường hợp thuê nguyên
tầu, người thuê vận chuyển có quyền rút khỏi hợp đồng trước khi tầu bắt đầu
chuyến đi, nhưng phải bồi thường các chi phí liên quan, ngoài ra tuỳ theo thời điểm
rút khỏi hợp đồng, người thuê vận chuyển còn phải trả tiền cước theo các nguyên
tắc sau:
a) Phải trả một nửa tiền cước vận
chuyển, nếu rút khỏi hợp đồng trước khi tính thời hạn bốc hàng;
b) Phải trả đủ tiền cước vận
chuyển, nếu rút khỏi hợp đồng sau khi tính thời hạn bốc hàng hoặc rút khỏi hợp
đồng sau
khi tính thời hạn dôi nhật, nếu
hợp đồng chỉ ký kết cho một chuyến;
c) Phải trả đủ tiền cước vận
chuyển của cả chuyến đi mà người thuê vận chuyển rút khỏi hợp đồng trước khi bắt
đầu chuyến đi cộng thêm một nửa tiền cước vận chuyển của tất cả các chuyến đi
tiếp theo, nếu hợp đồng được ký kết cho nhiều chuyến.
2- Trong trường hợp người thuê vận
chuyển rút khỏi hợp đồng theo quy định tại khoản 1, Điều này, thì người vận
chuyển có nghĩa vụ lưu tầu tại nơi bốc hàng cho đến khi hàng hoá đã được dỡ
xong, mặc dù việc đó vượt quá thời hạn bốc hàng và thời hạn dôi nhật.
Điều 103.
Trong trường hợp không thuê
nguyên tầu, thì người thuê vận chuyển có quyền rút khỏi hợp đồng và phải bồi
thường các chi phí liên quan, ngoài ra tuỳ theo thời điểm rút khỏi hợp đồng, người
thuê vận chuyển còn phải trả tiền cước vận chuyển theo các nguyên tắc sau đây:
a) Phải trả một nửa tiền cước vận
chuyển, nếu rút khỏi hợp đồng sau thời hạn tập kết hàng hoá đã thoả thuận;
b) Phải trả đủ tiền cước vận
chuyển, nếu rút khỏi hợp đồng trong khi tầu đang thực hiện chuyến đi.
Điều 104.
Người vận chuyển có quyền rút khỏi
hợp đồng trước khi bắt đầu chuyến đi, nếu số hàng hoá đã bốc lên tầu chưa đủ
theo hợp đồng và tổng giá trị của số hàng hoá đó không đủ để bảo đảm cho tiền
cước vận chuyển và các chi phí liên quan mà người vận chuyển phải chi cho hàng
hoá, trừ khi người thuê vận chuyển đã trả đủ tiền cước vận chuyển hoặc có một sự
bảo đảm thoả đáng. Người thuê vận chuyển phải trả mọi chi phí liên quan đến việc
dỡ hàng và một nửa tiền cước vận chuyển đã thoả thuận.
Điều 105.
1- Các bên tham gia hợp đồng đều
có quyền rút khỏi hợp đồng mà không phải bồi thường, nếu trước khi tầu bắt đầu
rời khỏi nơi bốc hàng đã xẩy ra các sự kiện sau đây:
a) Chiến tranh đe doạ sự an toàn
của tầu hoặc hàng hoá; cảng bốc hàng hoặc cảng đích được công bố là bị phong toả;
b) Tầu bị giữ lại theo lệnh của
nhà chức trách địa phương mà không do lỗi của các bên tham gia hợp đồng;
c) Tầu bị Nhà nước trưng dụng;
d) Có lệnh cấm vận chuyển hàng
hoá ra khỏi cảng bốc hàng hoặc vào cảng đích.
2- Bên rút khỏi hợp đồng trong
các trường hợp nói tại khoản 1, Điều này, phải chịu mọi chi phí dỡ hàng.
3- Các bên cũng có quyền rút khỏi
hợp đồng, nếu các sự kiện nói tại khoản 1, Điều này xảy ra trong khi tầu đang hành
trình; người thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả tiền cước cự ly và chi phí dỡ
hàng.
Điều 106.
1- Hợp đồng mặc nhiên chấm dứt,
không bên nào phải bồi thường thiệt hại, nếu sau khi hợp đồng đã ký kết và trước
khi tầu rời khỏi nơi bốc hàng mà không bên nào có lỗi gây ra các trường hợp sau
đây:
a) Tầu được chỉ định trong hợp đồng
bị chìm đắm, mất tích, bị cưỡng đoạt hoặc được coi là hư hỏng không thể sửa chữa
được hoặc việc sửa chữa là không kinh tế.
b) Hàng hoá ghi cụ thể trong hợp
đồng bị mất.
2- Trong trường hợp tầu đang
hành trình, mà xẩy ra các trường hợp nói tại khoản 1, Điều này, thì người vận
chuyển chỉ có quyền thu cước cự ly. Nếu chỉ có tầu bị tổn thất mà hàng hoá được
cứu thoát hoặc được hoàn trả, thì người vận chuyển có quyền thu cước cự ly đối
với số hàng hoá đó.
Điều 107.
Trong trường hợp hợp đồng chấm dứt
theo các quy định tại Mục này, người vận chuyển vẫn phải có nghĩa vụ chăm sóc
hàng hoá cho đến khi chuyển giao lại.
Mục I: TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯƠNG TỔN THẤT HÀNG HOÁ
Điều 108.
1- Người vận chuyển có trách nhiệm
chăm sóc chu đáo hàng hoá và chịu trách nhiệm về các tổn thất do hư hỏng, mất
mát hàng hoá từ khi nhận bốc lên tầu cho đến khi giao cho người nhận hàng. Người
vận chuyển có nghĩa vụ bồi thường tổn thất hàng hoá, nếu không chứng minh được
rằng mình không có lỗi gây ra các tổn thất đó.
2- Người vận chuyển được miễn
hoàn toàn trách nhiệm, nếu tổn thất hàng hoá xẩy ra do:
a) Hành động, sự sơ suất hoặc
sai lầm của thuyền trưởng, thuyền viên khác, hoa tiêu hoặc những người làm công
cho người vận chuyển trong việc điều khiển hoặc quản trị tầu;
b) Hoả hoạn mà bản thân người vận
chuyển không gây ra;
c) Tai hoạ hoặc tai nạn hàng hải
trên biển và vùng nước liên quan đến biển mà tầu biển được phép hoạt động;
d) Thiên tai bất khả kháng;
e) Chiến tranh;
g) Hành động xâm phạm trật tự và
an toàn công cộng;
h) Hành động bắt giữ hoặc các
hành động cưỡng chế khác của nhà chức trách, nhân dân hoặc toà án;
i) Hạn chế về phòng dịch;
k) Hành động hoặc sự sơ suất của
người giao hàng, chủ sở hữu hàng, đại lý hoặc đại diện của họ;
l) Đình công, đóng cửa xí nghiệp
hoặc các hành động tương tự khác làm hạn chế hoàn toàn hoặc một phần công việc
do bất cứ nguyên nhân nào;
m) Bạo động hoặc gây rối;
n) Hành động cứu hoặc nhằm mục
đích cứu tính mạng con người hoặc tài sản trên biển;
o) Hao hụt về khối lượng, trọng
lượng hoặc bất cứ mất mát, hư hỏng nào khác của hàng hoá xảy ra do chất lượng,
khuyết tật ẩn hoặc khuyết tật khác của hàng hoá;
p) Hàng hoá không được đóng gói
đúng quy cách;
q) Hàng hoá không được đánh dấu ký,
mã hiệu đúng quy cách hoặckhông phù hợp;
r) Khuyết tật ẩn của tầu mà những
người có trách nhiệm không phát hiện được, mặc dù đã thực hiện nhiệm vụ một
cách mẵn cán;
s) Bất kỳ nguyên nhân nào khác xảy
ra mà người vận chuyển không có lỗi hoặc không đồng tình với việc gây ra tổn thất
hoặc không phải do đại lý và những người làm công khác cho người vận chuyển có
lỗi hoặc sơ suất gây nên tổn thất.
Trong trường hợp có người được
hưởng quyền miễn hoàn toàn trách nhiệm của người vận chuyển theo quy định của
pháp luật hoặc theo sự thoả thuận ghi trong hợp đồng, thì người đó phải chứng
minh rằng người vận chuyển đã không có lỗi, không đồng tình hoặc đại lý và những
người làm công khác cho người vận chuyển cũng không có lỗi hoặc sơ suất gây ra
sự mất mát, hư hỏng của hàng hoá.
Điều 109.
Người thuê vận chuyển không chịu
trách nhiệm bồi thường về các mất mát hoặc hư hỏng xảy ra đối với người vận
chuyển hoặc tầu, nếu chứng minh được rằng bản thân mình hoặc đại lý và những
người làm công cho mình đã không có hành động, sự sơ suất hoặc sai lầm gây ra tổn
thất đó.
Điều 110.
1- Trong trường hợp chủng loại
và giá trị của hàng hoá không được người giao hàng khai báo trước khi bốc hàng
hoặc không được ghi rõ vào vận đơn, giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng
hoá tương đương, thì người vận chuyển hoặc tầu chỉ có nghĩa vụ bồi thường mất
mát, hư hỏng hàng hoá hoặc tổn thất khác liên quan đến hàng hoá trong giới hạn
tối đa tương đương với mười nghìn Frăng vàng cho mỗi kiện hoặc đơn vị hàng hoá
quy ước hoặc ba mươi Frăng vàng cho mỗi kilôgam trọng lượng cả bì của số hàng
hoá bị mất mát, hư hỏng tuỳ theo giá trị nào là cao nhất.
Tiền bồi thường được chuyển đổi
thành tiền Việt Nam theo tỉ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công
bố ở thời điểm thanh toán bồi thường.
Tổng số tiền bồi thường được xác
định trên cơ sở tham khảo giá trị hàng hoá đó tại nơi và thời điểm dỡ hàng quy
định trong hợp đồng hoặc lẽ ra phải được dỡ hàng.
Giá trị của hàng hoá được xác định
theo giá giao dịch thương mại, nếu không xác định được giá đó, thì xác định
theo giá thị trường. Trong trường hợp cả hai giá trên đều không xác định được,
thì căn cứ vào giá hàng cùng loại, cùng chất lượng tại nơi giải quyết bồi thường.
2- Trong trường hợp chủng loại
và giá trị hàng hoá được người giao hàng khai báo trước khi bốc hàng và được
người vận chuyển chấp nhận, ghi vào vận đơn, giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận
chuyển hàng hoá tương đương, thì người vận chuyển chịu trách nhiệm bồi thường mất
mát, hư hỏng của hàng hoá trên cơ sở giá trị đó theo nguyên tắc sau đây:
a) Đối với hàng hoá bị mất mát,
thì bồi thường bằng giá trị đã khai báo;
b) Đối với hàng hoá bị hư hỏng,
thì bồi thường bằng mức chênh lệch giữa giá trị khai báo và giá trị còn lại của
hàng hoá.
Giá trị còn lại của hàng hoá được
xác định trên cơ sở giá thị trường ở nơi và thời điểm dỡ hàng hoặc lẽ ra phải dỡ
hàng; nếu không xác định được, thì căn cứ vào giá thị trường ở nơi và thời điểm
tầu bốc hàng cộng thêm chi phí vận chuyển đến cảng đích.
Điều 111.
Trong mọi trường hợp, người vận
chuyển hoặc tầu đều không chịu trách nhiệm bồi thường các mất mát, hư hỏng hàng
hoá hoặc tổn thất liên quan đến hàng hoá, nếu người giao hàng đã cố tình khai
gian về chủng loại, giá trị của hàng hoá khi bốc hàng và khai báo đó đã được
ghi nhận vào vận đơn, giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá tương
đương.
Điều 112.
1- Trong trường hợp hàng hoá được
vận chuyển theo vận đơn, thì mọi thoả thuận nhằm mục đích giảm các nghĩa vụ và
trách nhiệm của người vận chuyển nói tại các Điều 67, 108 và
110 của Bộ luật này, đều không có giá trị.
2- Nếu vận đơn được ký phát theo
hợp đồng thuê tầu, thì quy định tại khoản 1, Điều này được áp dụng từ khi vận
đơn được chuyển nhượng cho người thứ ba.
3- Các bên tham gia hợp đồng vận
chuyển chỉ có quyền thoả thuận về việc giảm trách nhiệm của người vận chuyển,
khác với quy định tại khoản 1, Điều này trong các trường hợp liên quan đến:
a) Quãng thời gian từ khi nhận
hàng đến trước khi bốc hàng và quãng thời gian từ khi kết thúc dỡ hàng đến khi
trả xong hàng;
b) Vận chuyển súc vật sống;
c) Vận chuyển hàng hoá trên
boong theo hợp đồng.
Mục K: CẦM GIỮ
HÀNG HOÁ
Điều 113.
1- Chủ nợ có quyền sử dụng quyền
cầm giữ hàng hoá theo luật định để bảo đảm cho các khoản nợ ưu tiên, mặc dù hàng
hoá đó đã được cầm giữ, cầm cố hoặc thế chấp để bảo đảm cho các khoản nợ khác
trên cơ sở hợp đồng hoặc quyết định của toà án.
2- Các khoản nợ ưu tiên được giải
quyết theo thứ tự sau đây:
a) Các loại án phí và chi phí hành
án; chi phí bảo quản, bán và chia tiền bán hàng hoá; thuế và các khoản chi phí
công cộng khác;
b) Tiền phân bổ hàng hoá để trả
công cứu hộ hoặc đóng góp vào tổn thất chung;
c) Tiền bồi thường các tổn thất
do hàng hoá gây ra;
d) Quyền lợi của người vận chuyển.
Điều 114.
1- Các chủ nợ còn có quyền cầm
giữ các khoản tiền bồi thường cho tổn thất hàng hoá đã xảy ra, nhưng chưa được
phục hồi và tiền phân bổ cho hàng hoá trong trường hợp xảy ra tổn thất chung.
2- Các chủ nợ không có quyền cầm
giữ các khoản tiền do người bảo hiểm bồi thường cho hàng hoá.
Điều 115.
1- Quyền cầm giữ hàng hoá chấm dứt
hiệu lực, kể từ khi hàng hoá được trả cho người nhận hàng hợp pháp.
2- Quyền cầm giữ các khoản tiền
liên quan đến hàng hoá chấm dứt hiệu lực, kể từ khi thanh toán các khoản tiền
đó cho người nhận hợp pháp.
Chương 6:
HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNH
KHÁCH VÀ HÀNH LÝ
Điều 116.
1- Hợp đồng vận chuyển hành
khách và hành lý là hợp đồng được ký kết giữa người vận chuyển và hành khách mà
theo đó người vận chuyển thu tiền công vận chuyển hành khách, tiền cước hành lý
do hành khách trả và dùng tầu biển để vận chuyển hành khách từ cảng nhận khách
đến cảng đích.
Hợp đồng là cơ sở để xác định
quan hệ pháp luật giữa người vận chuyển và hành khách. Vé đi tầu là bằng chứng
về việc ký kết hợp đồng.
2- Hành khách có nghĩa vụ trả tiền
công vận chuyển hành khách, tiền cước hành lý và phí dịch vụ khác cho người vận
chuyển.
3- Những thoả thuận nhằm hạn chế
quyền của hành khách hoặc miễn giảm trách nhiệm của người vận chuyển quy định tại
Bộ luật này đều không có giá trị.
4- Người vận chuyển có quyền
thay thế vé bằng loại chứng từ tương đương, nếu hành khách được vận chuyển trên
tầu biển không chuyên dùng chở khách.
Điều 117.
1- Hành khách có nghĩa vụ phục
tùng sự chỉ huy của thuyền trưởng và phải chấp hành mọi nội quy, chỉ dẫn trên tầu.
2- Hành khách được hưởng mọi quyền
lợi theo đúng hạng vé và không phải trả tiền cước vận chuyển đối với hành lý
xách tay trong phạm vi trọng lượng và chủng loại do người vận chuyển quy định.
Điều 118.
1- Người vận chuyển có nghĩa vụ
chuẩn bị cho tầu có đủ khả năng đi biển và an toàn vận chuyển cần thiết tương tự
như quy định tại Điều 67 của Bộ luật này.
2- Người vận chuyển có nghĩa vụ
chăm sóc và bảo vệ chu đáo hành khách và hành lý của họ từ khi nhận khách lên tầu
cho đến khi hành khách và hành lý của họ rời cầu tầu ở cảng đích an toàn; chịu
mọi phí tổn để đưa đón, chu cấp ăn uống, phục vụ sinh hoạt và giải trí trong
các trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài dự kiến, trong thời gian tầu thực hiện
chuyến đi.
Điều 119.
Người vận chuyển không chịu
trách nhiệm về việc hành khách bị các nhà chức trách tại cảng mà tầu ghé vào
trong thời gian thực hiện chuyến đi bắt giữ do những nguyên nhân mà bản thân
hành khách tự gây ra.
Điều 120.
1- Hành khách lậu vé có nghĩa vụ
trả đủ tiền công vận chuyển cho quãng đường đi tầu và một khoản tiền phạt tương
đương.
2- Thuyền trưởng có quyền đưa
hành khách lậu vé lên bờ hoặc chuyển sang một tầu khác để đưa về cảng, nơi hành
khách đó đã lên tầu và phải thông báo cho nhà chức trách có thẩm quyền biết về
tên, tuổi, quốc tịch của hành khách lậu vé, nơi hành khách lên tầu và trốn trên
tầu. Hành khách lậu vé vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nói tại khoản 1, Điều này.
Điều 121.
1- Nếu hành khách không có mặt tại
tầu đúng thời điểm quy định, kể cả khi tầu ghé vào cảng trong thời gian thực hiện
chuyến đi, thì người vận chuyển có quyền không trả lại tiền công vận chuyển đã
thu.
2- Nếu hành khách bị ốm đau nguy
hiểm đến tính mạng mà không thể đi tầu được hoặc bị chết trong vòng ít nhất là
hai mươi bốn giờ trước khi tầu bắt đầu chuyến đi hoặc trong khi tầu đang hành
trình và khi hành khách từ chối tiếp tục đi tầu vì những nguyên nhân do người vận
chuyển gây ra, thì hành khách được quyền nhận lại toàn bộ hoặc một phần tiền
công vận chuyển tương ứng với quãng đường còn lại.
3- Trong trường hợp tầu không thể
đến cảng đích hoặc không đến được cảng đích đúng thời gian quy định vì những
nguyên nhân khách quan không thuộc trách nhiệm của người vận chuyển, thì người
vận chuyển có nghĩa vụ hoàn trả cho hành khách số tiền công vận chuyển tương ứng
với quãng đường còn lại hoặc phải chịu phí tổn đưa hành khách quay lại cảng nhận
khách hoặc đến cảng đích tuỳ theo ý muốn của hành khách, bằng tầu biển hoặc các
phương tiện vận chuyển khác, nếu không có điều kiện vận chuyển bằng tầu biển chở
khách.
Điều 122.
1- Hành khách có thể rút khỏi hợp
đồng và yêu cầu được nhận lại tiền công vận chuyển, nếu đã thông báo ý định của
mình cho người vận chuyển biết trước bảy ngày trong vận chuyển quốc tế hoặc một
ngày trong vận chuyển nội địa, trước khi tầu bắt đầu chuyến đi.
Người vận chuyển có quyền giữ lại
25% tiền công vận chuyển, nếu không bán lại được cho người khác vé đi tầu đó.
2- Hành khách có thể rút khỏi hợp
đồng và nhận lại toàn bộ tiền vận chuyển, nếu ba ngày sau thời điểm lẽ ra tầu
phải bắt đầu chuyến đi mà tầu vẫn không rời cảng, đối với loại tầu không chuyên
dùng chở khách, thì thời hạn đó là bảy ngày.
Điều 123.
1- Trong trường hợp vận chuyển
hành khách bằng tầu không chuyên dùng chở khách, thì người vận chuyển có quyền
rút khỏi hợp đồng và hoàn trả tiền công vận chuyển cho hành khách vì không thể
bắt đầu chuyến đi do những nguyên nhân không thuộc về mình.
2- Người vận chuyển cũng có quyền
theo quy định tại khoản 1, Điều này khi tầu đang thực hiện chuyến đi và có
nghĩa vụ thực hiện các quy định tại khoản 3, Điều 121 của Bộ luật
này.
Điều 124.
Trong trường hợp tầu chưa bắt đầu
chuyến đi hoặc đang hành trình mà xảy ra các trường hợp nói tại khoản
1, Điều 105 của Bộ luật này, thì các bên tham gia hợp đồng đều có quyền rút
khỏi hợp đồng mà khồng phải bồi thường; người vận chuyển chỉ có nghĩa vụ hoàn
trả cho khách số tiền công vận chuyển tương ứng với quãng đường còn lại, ngay cả
khi hành khách rút khỏi hợp đồng.
Điều 125.
1- Hợp đồng mặc nhiên chấm dứt
trong các trường hợp tầu bị mất tích, bị chìm đắm, bị phá huỷ hoặc được coi là
hư hỏng không thể sửa chữa được hoặc việc sửa chữa là không có hiệu quả kinh tế.
2- Tiền công vận chuyển được
hoàn trả cho hành khách theo quy định tại Điều 124 của Bộ luật
này.
Điều 126.
1- Người vận chuyển phải chịu
trách nhiệm về mọi tổn thất liên quan đến tính mạng, thương tích và các tổn hại
khác về sức khoẻ của hành khách xảy ra trong thời gian thực hiện chuyến đi, nếu
không chứng minh được rằng bản thân mình hoặc các đại diện, người làm công cho
mình không có lỗi để xảy ra tai nạn liên quan đến các tổn thất đó do tầu bị đâm
va, chìm đắm, phá huỷ, mắc cạn, bị nổ hoặc cháy. Mọi thoả thuận nhằm làm giảm
nhẹ hoặc miễn trừ trách nhiệm này của người vận chuyển đều không có giá trị.
2- Nếu người vận chuyển chứng
minh được hành khách cố ý hoặc vô ý gây ra tai nạn, thì người vận chuyển được
giảm một phần trách nhiệm quy định tại khoản 1, Điều này.
3- Thời gian thực hiện chuyến đi
bao gồm thời gian hành khách ở trên tầu, thời gian hành khách lên tầu và rời tầu,
thời gian người vận chuyển chở khách từ bờ đến tầu và ngược lại bằng đường thuỷ,
nếu tiền công vận chuyển đã được tính vào giá vé chung hoặc khi phương tiện
chuyển tải hành khách do người vận chuyển cung cấp.
Điều 127.
1- Người vận chuyển chỉ chịu
trách nhiệm bồi thường các tổn thất liên quan đến tính mạng, thương tích và các
tổn hại khác về sức khoẻ của hành khách trong mức giới hạn do Hội đồng bộ trưởng
quy định hoặc trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận.
2- Người vận chuyển không có quyền
hưởng mức giới hạn này, nếu bản thân có lỗi gây ra tổn thất hoặc các đại diện,
người làm công cho người vận chuyển ở trên tầu có lỗi khi thực hiện các trách
nhiệm do người vận chuyển uỷ nhiệm.
Điều 128.
1- Người vận chuyển chịu trách
nhiệm về sự mất mát, hư hỏng hành lý theo các nguyên tắc liên quan đến hàng hoá
quy định tại Chương V của Bộ luật này.
2- Người vận chuyển chỉ chịu
trách nhiệm về sự mất mát, hư hỏng hành lý xách tay của hành khách xảy ra do
người vận chuyển hoặc những người làm công trên tầu cố ý hoặc vô ý gây ra hoặc
khi nhận ký gửi để bảo quản đã không chăm sóc cho đáo.
3- Người vận chuyển chỉ chịu
trách nhiệm bồi thường đồ vật quý hiếm, tiền bạc, giấy tờ có giá trị, tác phẩm
nghệ thuật và các tài sản có giá trị khác, nếu hành khách đã khai báo về tính
chất và giá trị của các tài sản đó cho thuyền trưởng hoặc sĩ quan có trách nhiệm
về hành lý biết khi ký gửi để bảo quản.
Điều 129.
1- Người vận chuyển có quyền lưu
giữ hành lý của hành khách để bảo đảm quyền lợi của mình cho đến khi đã được
thoả mãn hoặc nhận được một sự bảo đảm thoả đáng khác.
2- Hành lý không có người nhận
được xử lý theo Điều 96 của Bộ luật này.
Điều 130.
1- Mọi tổn thất liên quan đến
tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ của hành khách phải được
báo cho người vận chuyển biết ngay sau khi xảy ra và trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày rời tầu, người khiếu nại phải gửi cho người vận chuyển văn bản
khiếu nại đòi bồi thường.
2- Yêu cầu đòi bồi thường mất
mát, hư hỏng hành lý phải được thông báo bằng văn bản cho người vận chuyển
trong thời hạn bảy ngày, kể từ khi hành lý được giao hoặc lẽ ra phải được giao
cho người nhận.
3- Thời hiệu khiếu nại đòi bồi
thường các tổn thất về tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ của
hành khách là hai năm, tính từ ngày hành khách rời tầu; nếu hành khách chết
trên tầu thì thời hiệu đó tính từ ngày hành khách lẽ ra phải rời tầu.
Trong trường hợp hành khách chết
sau khi rời tầu thì thời hiệu khiếu nại là ba năm, tính từ ngày hành khách rời
tầu.
4- Thời hiệu khiếu nại đòi bồi
thường mất mát, hư hỏng hành lý là sáu tháng, tính từ ngày trả hành lý hoặc
ngày lẽ ra phải trả hành lý cho người nhận.
Chương 7:
HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TẦU
Điều 131.
1- Hợp đồng cho thuê tầu là hợp
đồng được ký kết giữa chủ tầu và người thuê tầu, mà theo đó chủ tầu giao quyền
sử dụng tầu biển của mình cho người thuê tầu trong một thời hạn hoặc một số
chuyến đi liên tục vào các mục đích cụ thể được thoả thuận trong hợp đồng để hưởng
tiền thuê tầu do người thuê tầu trả. Hợp đồng cho thuê tầu là cơ sở để xác định
quan hệ pháp luật giữa người thuê tầu và chủ tầu.
2- Hợp đồng cho thuê tầu được ký
kết theo các hình thức do hai bên thoả thuận.
Điều 132.
Hợp đồng cho thuê tầu quy định
việc chủ tầu giao quyền sử dụng tầu biển cho người thuê tầu cùng với cả thuyền
bộ, gọi là hợp đồng thuê tầu định hạn.
Hợp đồng cho thuê tầu chỉ quy định
việc chủ tầu giao quyền sử dụng tầu biển cho người thuê tầu mà không có thuyền
bộ, gọi là hợp đồng thuê tầu trần.
Điều 133.
1- Nếu có thoả thuận trong hợp đồng,
thì người thuê tầu có thể cho người thứ ba thuê lại tầu, nhưng vẫn có nghĩa vụ
thực hiện hợp đồng đã ký kết với chủ tầu.
2- Các quyền và nghĩa vụ của chủ
tầu quy định tại Chương này cũng được áp dụng đối với người cho thuê lại tầu.
Điều 134.
1- Chủ tầu có nghĩa vụ giao tầu
biển cho người thuê tầu đúng địa điểm, thời điểm với trạng thái an toàn kĩ thuật
cần thiết, có dủ dự trữ, phù hợp với mục đích sử dụng đã thoả thuận trong hợp đồng
và duy trì như vậy suốt thời gian cho thuê tầu.
2- Chủ tầu cho thuê tầu định hạn
còn có nghĩa vụ cung cấp cùng với tầu một thuyền bộ có năng lực phù hợp với mục
đích sử dụng tầu đã thoả thuận trong hợp đồng, trả lương và bảo đảm các quyền lợi
hợp pháp khác cho thuyền viên trong thời gian thuê tầu.
Điều 135.
1- Người thuê tầu có toàn quyền
sử dụng các khu vực chuyên dùng ở trên tầu để vận chuyển hàng hoá hoặc hàng
khách.
2- Nếu chủ tầu không đồng ý, người
thuê tầu không có quyền sử dụng các khu vực khác ở trên tầu để vận chuyển hàng
hoá hoặc hành khách.
Điều 136.
1- Người thuê tầu không phải trả
tiền thuê tầu cho thời gian tầu không đủ khả năng khai thác do hư hỏng, thiếu dự
trữ hoặc do thuyền bộ không đủ năng lực cần thiết, nếu là tầu cho thuê định hạn.
Trong trường hợp này, người thuê tầu được miễn trách nhiệm đối với các chi phí
để duy trì tầu.
2- Nếu tầu không đủ khả năng
khai thác do lỗi của người thuê tầu, thì chủ tầu vẫn được hưởng tiền thuê tầu
và được bồi thường các thiệt hại liên quan.
Điều 137.
1- Trong thời gian tầu cho thuê
định hạn, thuyền trưởng và các thuyền viên khác trong thuyền bộ của tầu vẫn thuộc
quyền quản lý về lao động của chủ tầu. Chủ tầu hoàn toàn chịu trách nhiệm về
các vấn đề liên quan đến thuyền bộ.
2- Trong hoạt động khai thác tầu,
thuyền trưởng là người đại diện của người thuê tầu và phải thực hiện các chỉ thị
của người thuê tầu.
3- Chủ tầu chịu trách nhiệm với
người thuê tầu về việc thuyền trưởng thực hiện quyền hạn nói tại khoản 2, Điều này
theo nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm, trừ khi thuyền trưởng đã ghi rõ trong
cam kết của mình là thực hiện quyền hạn đó nhân danh người thuê tầu.
Điều 138.
Nếu tầu cho thuê định hạn tham
gia cứu hộ trong thời gian cho thuê, thì tiền công cứu hộ được chia đều giữa chủ
tầu và người thuê tầu, sau khi đã trừ lần lượt các tổn thất liên quan đến hành
động cứu hộ và tiền thưởng công cứu hộ cho thuyền bộ.
Điều 139.
1- Người thuê tầu có nghĩa vụ sử
dụng tầu đúng các mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng và phải chăm sóc chu
đáo các quyền lợi của chủ tầu.
2- Sau khi đã hết hạn cho thuê tầu,
người thuê tầu có nghĩa vụ giao trả tầu cho chủ tầu đúng địa điểm, thời điểm và
trạng thái kĩ thuật như đã thoả thuận.
Người thuê tầu có trách nhiệm trả
tiền thuê tầu cho đến ngày giao trả tầu cho chủ tầu.
3- Người thuê tầu có nghĩa vụ bảo
dưỡng tầu và các trang thiết bị của tầu, nếu không có thoả thuận khác trong hợp
đồng.
4- Người thuê tầu trần còn có
nghĩa vụ sửa chữa các hư hỏng của tầu trong thời gian thuê tầu và phải thông
báo cho chủ tầu biết. Chủ tầu chịu trách nhiệm trả tiền sửa chữa, nếu các tổn
thất phát sinh ngoài phạm vi trách nhiệm của người thuê tầu.
Điều 140.
1- Người thuê tầu có quyền rút
khỏi hợp đồng và được đòi bồi thường các thiết hại liên quan, nếu chủ tầu có lỗi
trong khi thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 1, Điều 134 của
Bộ luật này.
2- Cả hai bên đều có quyền rút
khỏi hợp đồng mà không phải bồi thường, nếu xảy ra chiến tranh, bạo loạn hoặc
do các hành động cưỡng chế của chính quyền cản trở việc thực hiện hợp đồng mà
các sự kiện đó không thể chấm dứt sau một thời gian chờ đợi hợp lý.
Điều 141.
1- Hợp đồng cho thuê tầu mặc
nhiên chấm dứt, nếu tầu bị mất tích, bị chìm đắm,
bị phá huỷ hoặc bị coi là hư hỏng
không sửa chữa được hoặc việc sửa chữa là không có hiệu quả kinh tế.
2- Trong trường hợp tầu cho thuê
bị mất tích, thì tiền thuê tầu được tính đến ngày thực tế nhận được tin tức cuối
cùng về tầu đó.
Điều 142.
Thời hiệu khiếu nại đối với các
vụ việc liên quan đến hợp đồng cho thuê tầu là hai năm, tính từ ngày hợp đồng
đó chấm dứt.
Chương 8:
ĐẠI LÝ TẦU BIỂN VÀ MÔI
GIỚI HÀNG HẢI
Mục A: ĐẠI
LÝ TẦU BIỂN
Điều 143.
1- Người đại lý tầu biển là người
đại diện thường trực của chủ tầu tại một cảng hoặc khu vực đại lý nhất định.
2- Chủ tầu và người đại lý ký kết
hợp đồng đại lý cho từng chuyến tầu hoặc cho một thời hạn cụ thể, theo các hình
thức do hai bên thoả thuận. Trong hợp đồng phải ghi rõ phạm vi uỷ thác của chủ
tầu cho người đại lý.
3- Hợp đồng là cơ sở để xác định
quan hệ pháp luật giữa hai bên và là bằng chứng về sự uỷ nhiệm của chủ tầu cho người
đại lý trong quan hệ đối với người thứ ba.
Điều 144.
1- Trên cơ sở hợp đồng, người đại
lý nhân danh chủ tầu tiến hành các hoạt động liên quan đến việc kinh doanh hàng
hải, bao gồm việc thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến hoạt động của tầu
tại cảng; ký kết các hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng
bốc xếp hàng hoá, hợp đồng cho thuê tầu, hợp đồng thuê thuyền viên; ký phát vận
đơn hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá tương đương; thu chi các khoản tiền liên
quan đến hoạt động khai thác tầu; giải quyết tranh chấp về hợp đồng vận chuyển
hoặc về tai nạn hàng hải.
2- Người đại lý có thể phục vụ
cho quyền lợi của người thuê vận chuyển, người thuê tầu hoặc những người khác
có quan hệ hợp đồng với chủ tầu, nếu được chủ tầu đồng ý.
3- Trong trường hợp người đại lý
có hành động vượt quá phạm vi uỷ thác của chủ tầu, thì chủ tầu vẫn phải chịu
trách nhiệm về hành động đó, nếu ngay sau khi nhận được tin đã không tuyên bố
cho những người liên quan biết là mình không công nhận hành động này của người
đại lý.
Điều 145.
1- Người đại lý có trách nhiệm
tiến hành các hoạt động cần thiết để chăm sóc và bảo vệ chu đáo các quyền lợi của
chủ tầu; phải chấp hành các yêu cầu và chỉ dẫn của chủ tầu; nhanh chóng thông
báo cho chủ tầu về các sự kiện liên quan đến công việc được uỷ thác; tính toán
chính xác các khoản thu và chi liên quan đến công việc được uỷ thác.
2- Người đại lý phải bồi thường
cho chủ tầu các thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Điều 146.
Chủ tầu có trách nhiệm hướng dẫn
người đại lý thực hiện công việc đã uỷ thác khi cần thiết và phải ứng trước
theo yêu cầu của người đại lý khoản tiền dự chi cho công việc được uỷ thác.
Điều 147.
Các bên tham gia hợp đồng đại lý
thoả thuận về đại lý phí; nếu trong hợp đồng không có thoả thuận, thì đại lý
phí được xác định trên cơ sở tập quán địa phương.
Điều 148.
Các bên tham gia hợp đồng đại lý
đều có quyền rút khỏi hợp đồng theo các điều kiện đã thoả thuận trước trong hợp
đồng.
Điều 149.
Thời hiệu khiếu nại về việc thực
hiện hợp đồng đại lý là hai năm, tính từ ngày phát sinh vụ việc.
Mục B: MÔI
GIỚI HÀNG HẢI
Điều 150.
1- Người môi giới hàng hải là
người làm trung gian trong việc ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm
hàng hải, hợp đồng cho thuê tầu, hợp đồng mua bán tầu, hợp đồng lai dắt, hợp đồng
thuê thuyền viên và các hợp đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải, theo sự
uỷ thác từng vụ việc của người uỷ thác.
2- Người môi giới hàng hải chỉ
được hưởng hoa hồng môi giới khi hợp đồng được ký kết do hoạt động trung gian của
mình. Người môi giới và người uỷ thác thoả thuận về hoa hồng môi giới; nếu
không có thoả thuận trước, thì hoa hồng môi giới được xác định trên cơ sở tập
quán địa phương.
3- Trên cơ sở uỷ thác, người môi
giới hàng hải nhân danh người uỷ thác ký kết hợp đồng hoặc thu các khoản tiền
liên quan, nếu không có sự hạn chế rõ ràng mà phía bên kia đã biết.
Điều 151.
Người môi giới hàng hải có quyền
phục vụ các bên tham gia hợp đồng với điều kiện phải thông báo cho tất cả các
bên biết về việc đó và có nghĩa vụ quan tâm thích đáng đến quyền lợi hợp pháp của
các bên liên quan.
Điều 152.
Thời hiệu khiếu nại về việc thực
hiện hoạt động môi giới hàng hải giữa người môi giới và người uỷ thác là hai
năm, tính từ ngày phát sinh vụ việc.
Chương 9:
HOA TIÊU HÀNG HẢI
Điều 153.
1- Hoa tiêu là người cố vấn và
giúp đỡ cho thuyền trưởng điều khiển tầu phù hợp với điều kiện hàng hải ở khu vực
dẫn tầu của hoa tiêu. Việc sử dụng hoa tiêu không miễn giảm trách nhiệm chỉ huy
tầu của thuyền trưởng, kể cả trong trường hợp việc sử dụng hoa tiêu là bắt buộc
theo quy định của pháp luật.
2- Thuyền trưởng có quyền lựa chọn
hoa tiêu hoặc đình chỉ hoạt động của hoa tiêu và yêu cầu thay thế hoa tiêu.
Điều 154.
1- Trong thời gian dẫn tầu, hoa
tiêu thuộc quyền chỉ huy của thuyền trưởng tầu được dẫn.
2- Hoa tiêu có nghĩa vụ thường
xuyên chỉ dẫn cho thuyền trưởng biết về các điều kiện hàng hải ở khu vực dẫn tầu;
khuyến nghị thuyền trưởng về các hành động không phù hợp với các quy định bảo đảm
an toàn hàng hải và các quy định pháp luật khác.
Khi thuyền trưởng cố ý không thực
hiện các chỉ dẫn hoặc khuyến nghị hợp lý của mình, thì với sự làm chứng của người
thứ ba, hoa tiêu có quyền từ chối dẫn tầu.
3- Hoa tiêu có nghĩa vụ thông
báo cho Giám đốc cảng vụ về tình hình dẫn tầu và những thay đổi có tính chất nguy
hiểm về hàng hải mà mình phát hiện được trong khi dẫn tầu.
4- Hoa tiêu phải thực hiện mẫn
cán nghĩa vụ của mình.
Điều 155.
Thuyền trưởng có nghĩa vụ thông
báo chính xác cho hoa tiêu tính năng và đặc điểm riêng của tầu; bảo đảm an toàn
cho hoa tiêu khi lên và rời tầu; cung cấp cho hoa tiêu các tiện nghi làm việc,
phục vụ sinh hoạt trong suốt thời gian hoa tiêu ở trên tầu.
Điều 156.
Nhiệm vụ của hoa tiêu chỉ được
coi là kết thúc sau khi tầu đã thả neo, cập cầu hoặc đã đến vị trí thoả thuận một
cách an toàn hoặc khi có hoa tiêu khác thay thế. Không có sự đồng ý của thuyền
trưởng, hoa tiêu không được phép rời tầu.
Trong trường hợp vì lý do bảo đảm
an toàn, hoa tiêu không thể rời tầu sau khi kết thúc nhiệm vụ, thì thuyền trưởng
phải ghé vào cảng gần nhất để hoa tiêu rời tầu. Chủ tầu phải chịu trách nhiệm
đài thọ các chi phí liên quan và tổ chức đưa hoa tiêu trở về nơi đã tiếp nhận
hoa tiêu.
Điều 157.
1- Trong trường hợp xảy ra tổn
thất do lỗi của hoa tiêu, thì chủ tầu phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn
thất đó như đối với tổn thất xảy ra do lỗi của thuyền viên.
2- Hoa tiêu chỉ phải chịu trách
nhiệm hành chính hoặc hình sự trong trường hợp nói tại khoản 1, Điều này.
Điều 158.
1- Hội đồng bộ trưởng quy định
biểu phí hoa tiêu tại Việt Nam.
2- Bộ trưởng
Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện quy định cụ thể về tổ chức hoa tiêu; tiêu
chuẩn và chứng chỉ chuyên môn của hoa tiêu; vùng hoa tiêu bắt buộc hoặc không bắt
buộc tại Việt Nam.
Chương
10:
LAI DẮT TRÊN BIỂN
Điều 159.
1- Lai dắt trên biển là việc thực
hiện tác nghiệp lai, kéo, đẩy hoặc hỗ trợ tầu biển và các phương tiện nổi khác
trên biển và các vùng nước liên quan đến biển mà tầu biển được phép hoạt động,
ngay cả khi tầu lai chỉ túc trực bên cạnh để hỗ trợ khi cần thiết.
2- Người thuê lai dắt và chủ tầu
lai thoả thuận về tiền công lai dắt trong hợp đồng lai dắt; nếu không có thoả
thuận trong hợp đồng, thì tiền công lai dắt được xác định trên cơ sở tập quán địa
phương.
3- Hợp đồng lai dắt phải được
làm thành văn bản, trừ trường hợp lai dắt tầu làm man-nơ trong cảng.
Điều 160.
1- Tầu lai và tầu biển hoặc các
phương tiện được lai dắt khác hợp thành tập thể lai dắt. Tập thể lai dắt được
hình thành kể từ khi tầu lai và các thành viên khác của tập thể lai dắt đã sẵn
sàng thực hiện các tác nghiệp cần thiết theo lệnh của người chỉ huy tập thể lai
dắt và được giải tán khi các tác nghiệp cuối cùng đã được thực hiện xong, các
thành viên của tập thể lai dắt đã rời xa nhau ở một khoảng cách an toàn.
2- Các bên tham gia hợp đồng lai
dắt trên biển thoả thuận trong hợp đồng về người có quyền chỉ huy theo tập thể
lai dắt; nếu không có thoả thuận, thì xác định theo tập quán địa phương.
Điều 161.
Chủ tầu lai có nghĩa vụ cung cấp
tầu lai đúng địa điểm, thời điểm với điều kiện kĩ thuật thoả thuận trong hợp đồng.
Điều 162.
1- Chủ tầu của tầu có thuyền trưởng
giữ quyền chỉ huy tập thể lai dắt phải chịu trách nhiệm về các tổn thất về tầu,
người và tài sản trên tầu của các thành viên khác trong tập thể lai dắt, nếu
không chứng minh được rằng các tổn thất đó xảy ra ngoài phạm vi trách nhiệm của
mình.
2- Các tầu dưới quyền chỉ huy của
thuyền trưởng tầu khác không được miễn giảm trách nhiệm quan tâm đến sự an toàn
chung của tập thể lai dắt và an toàn hàng hải; chủ tầu chịu trách nhiệm về các
tổn thất về tầu, người và tài sản trên tầu của các thành viên khác, nếu tầu của
mình có lỗi gây ra tổn thất.
Điều 163.
Thời hiệu khiếu nại về việc thực
hiện hợp đồng lai dắt trên biển là hai năm, tính từ ngày chấm dứt hợp đồng lai
dắt.
Chương
11:
CỨU HỘ HÀNG HẢI
Điều 164.
1- Cứu hộ hàng hải là hành động
cứu tầu biển hoặc các tài sản thuộc về tầu thoát khỏi nguy hiểm hoặc hành động
cứu trợ tầu biển đang bị nguy hiểm, được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cứu hộ
hàng hải.
2- Hợp đồng cứu hộ hàng hải được
ký kết theo các hình thức do các bên thoả thuận.
Điều 165.
1- Mọi hành động cứu hộ hàng hải
mang lại kết quả có ích đều được hưởng tiền công cứu hộ hợp lý.
2- Tiền công cứu hộ cũng phải được
trả, kể cả trong các trường hợp: người cứu hộ có hành động trực tiếp hoặc gián
tiếp giúp người được cứu hộ bảo vệ các quyền lợi liên quan đến tiền cước, tiền
công vận chuyển hành khách; cứu hộ tầu biển thuộc cùng một chủ tầu; cứu hộ tầu
sông hoặc thuỷ phi cơ trên biển hoặc các vùng nước nội địa
3- Hành động cứu hộ trái với sự
chỉ định rõ ràng và hợp lý của thuyền trưởng tầu được cứu, thì không được trả
tiền công cứu hộ.
Điều 166.
1- Người được cứu tính mạng
không có nghĩa vụ trả bất cứ một khoản tiền nào cho người đã cứu mình.
2- Người cứu tính mạng được hưởng
một khoản tiền thưởng hợp lý trong tiền công cứu hộ tài sản, nếu hành động đó
liên quan đến cùng một tai nạn làm phát sinh hành động cứu hộ tài sản.
Điều 167.
Người đang thực hiện nhiệm vụ
hoa tiêu hoặc lai dắt trên biển được thưởng công cứu hộ, nếu đã có những sự
giúp đỡ đặc biệt vượt quá phạm vi trách nhiệm theo hợp đồng để cứu hộ tầu mà
mình đang phục vụ.
Điều 168.
Các bên tham gia hợp đồng cứu hộ
đều có quyền yêu cầu huỷ bỏ hoặc thay đổi những thoả thuận không hợp lý trong hợp
đồng, nếu các thoả thuận này được ký kết trong tình trạng nguy cấp và bị tác động
bởi tình trạng đó hoặc chứng minh được là đã bị lừa dối, lợi dụng khi ký kết và
khi tiền công cứu hộ quá thấp hoặc quá cao so với thực tế.
Điều 169.
1- Tiền công cứu hộ bao gồm tiền
thưởng công cứu hộ, chi phí cứu hộ và chi phí vận chuyển, bảo quản tầu hoặc tài
sản được cứu hộ.
2- Tiền công cứu hộ được thoả
thuận trong hợp đồng, nhưng phải hợp lý và không được vượt quá giá trị tầu hoặc
tài sản được cứu hộ.
3- Trong trường hợp tiền công cứu
hộ không được thoả thuận trong hợp đồng hoặc không hợp lý và khi có nhiều người
tham gia cứu hộ, thì tiền công cứu hộ được xác định trên cơ sở:
a) Kết quả cứu hộ;
b) Công sức và mức độ cố gắng của
người cứu hộ;
c) Mức độ nguy hiểm đối với người
trên tầu bị nạn, tầu hoặc tài sản bị nạn;
d) Mức độ nguy hiểm đối với người
cứu hộ cũng như đối với các tầu và thiết bị cứu hộ mà người cứu hộ sử dụng;
e) Thời gian, chi phí và các tổn
thất liên quan;
g) Rủi ro về trách nhiệm hoặc
các rủi ro khác mà người cứu hộ phải gánh chịu;
h) Giá trị các thiết bị cứu hộ;
i) Sự điều chỉnh đặc biệt của tầu
cứu hộ để phục vụ hành động cứu hộ;
k) Giá trị tài sản được cứu.
4- Tiền công cứu hộ có thể bị giảm
hoặc không được công nhận, nếu người cứu hộ đã tự gây ra tình trạng phải cứu hộ
hoặc có hành động trộm cắp, lừa đảo, gian lận khi thực hiện hợp đồng cứu hộ.
Điều 170.
Giá trị tầu hoặc tài sản được cứu
là giá trị thực tế tại nơi để tầu hoặc tài sản sau khi được cứu hộ hoặc tiền
bán, định giá tài sản sau khi đã trừ chi phí ký gửi, bảo quản, tổ chức bán đấu
giá và các chi phí tương tự khác.
Điều 171.
Tầu hoặc tài sản được cứu hộ có
thể bị cầm giữ hoặc tạm giữ để bảo đảm việc thanh toán tiền công cứu hộ và các
chi phí khác liên quan đến việc định giá, tổ chức bán đấu giá.
Điều 172.
1- Tiền công cứu hộ được chia đều
giữa chủ tầu và thuyền bộ tầu cứu hộ, sau khi trừ chi phí, tổn thất của tầu và
chi phí, tổn thất của chủ tầu hoặc của thuyền bộ liên quan đến hành động cứu hộ.
Nguyên tắc này không áp dụng đối
với tầu cứu hộ chuyên dùng.
2- Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận
tải và Bưu điện quy định cụ thể cách thức phân chia tiền công cứu hộ của thuyền
bộ.
Điều 173.
1- Các quy định tại Chương này
cũng được áp dụng đối với các loại tầu thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam.
2- Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Bộ
trưởng Bộ nội vụ quy định cụ thể cách thức phân chia tiền công cứu hộ của thuyền
bộ các tầu thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam.
Điều 174.
Thời hiệu khiếu nại về việc thực
hiện hợp đồng cứu hộ là hai năm, tính từ ngày kết thúc hành động cứu hộ.
Chương
12:
TRỤC VỚT TÀI SẢN CHÌM ĐẮM
Điều 175.
1- Tài sản chìm đắm nói tại
Chương này là tầu, hàng hoá hoặc các vật thể khác chìm đắm ở nội thuỷ, lãnh hải
Việt Nam hoặc trôi nổi trên biển hoặc dạt vào bờ biển Việt Nam.
2- Trong thời hạn chậm nhất là một
trăm tám mươi ngày, kể từ ngày tài sản bị chìm đắm, chủ sở hữu tài sản đó phải
thông báo cho Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện về ý định trục vớt
và thời hạn dự kiến kết thúc hành động trục vớt.
Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể
từ ngày nhận được thông báo nói trên, Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu
điện ra quyết định chấp nhận thời hạn dự kiến kết thúc hoạt động trục vớt hoặc
quy định cụ thể thời hạn chủ sở hữu phải kết thúc hoạt động trục vớt. Thời hạn
trục vớt không được quá một năm, kể từ ngày chủ sở hữu tài sản được giao quyết
định này.
3- Trong trường hợp chủ sở hữu
tài sản không tiến hành hoạt động trục vớt trong thời hạn nói tại khoản 2, Điều
này hoặc kéo dài hoạt động trục vớt quá một năm, kể từ ngày kết thúc thời hạn
trục vớt, thì tài sản đó đương nhiên trở thành tài sản của Nhà nước Việt Nam.
Điều 176.
Việc trục vớt tài sản chìm đắm
trong khu vực quân sự và việc trục vớt trang thiết bị quân sự phải được Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng hoặc thủ trưởng cơ quan quân sự mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng uỷ nhiệm
cấp giấy phép.
Điều 177.
1- Trong trường hợp tài sản bị
chìm đắm gây nguy hiểm hoặc cản trở hoạt động hàng hải, khai thác cảng và tài
nguyên biển; đe doạ tính mạng và sức khoẻ con người; gây ô nhiễm môi trường biển,
thì chủ tài sản có nghĩa vụ trục vớt ngay sau khi bị chìm đắm. Trong trường hợp
chủ tài sản không thực hiện việc trục vớt, thì Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải
và Bưu điện tổ chức trục vớt và quy định rõ thời hạn chủ sở hữu tài sản phải
thanh toán các chi phí liên quan.
Chủ sở hữu tài sản còn phải bồi
thường các tổn thất liên quan và bị phạt theo quy định của pháp luật, ngay cả
khi bị mất quyền sở hữu tài sản quy định tại khoản 3, Điều 175
của Bộ luật này.
2- Trong trường hợp nói tại khoản
1, Điều này, Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện có quyền chỉ định
người trục vớt tài sản, nếu xét thấy người trục vớt do chủ sở hữu tài sản chỉ định
không có khả năng bảo đảm trục vớt tài sản đúng thời hạn.
3- Sau một trăm tám mươi ngày, kể
từ ngày nhận thông báo về việc tài sản đã được trục vớt, nếu chủ sở hữu tài sản
không yêu cầu nhận lại tài sản hoặc không thanh toán các chi phí liên quan
trong thời hạn quy định, thì Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện hoặc
cơ quan được Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và Bưu điện uỷ nhiệm có quyền
đem bán đấu giá tài sản. Sau khi thu lại chi phí trục vớt, chi phí bảo quản, tổ
chức bán đấu giá và các chi phí khác, số tiền còn thừa phải được ký gửi vào
ngân hàng để trả lại cho chủ sở hữu tài sản.
4- Chủ sở hữu tài sản chỉ chịu
trách nhiệm thanh toán các chi phí liên quan đến các trường hợp nói tại Điều này
trong giới hạn giá trị thực tế của tài sản đã được trục vớt.
Điều 178.
Các tổ chức và cá nhân Việt Nam
được giành quyền ưu tiên trong việc ký kết hợp đồng trục vớt tài sản chìm đắm tại
nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam.
Điều 179.
1- Trong trường hợp ngẵu nhiên
trục vớt được tài sản của người khác trong nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam hoặc khi
đưa tài sản ngẵu nhiên trục vớt được vào nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam, người trục
vớt phải thông báo ngay cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và đơn vị hành chính tương đương, Hải quan nơi gần nhất và Bộ trưởng Bộ
Giao thông - Vận tải và Bưu điện biết về thời điểm, địa điểm và các sự kiện
liên quan khác; phải bảo vệ tài sản đó đến khi giao lại; nếu có điều kiện cũng
phải thông báo cho chủ sở hữu tài sản biết.
2- Trong trường hợp nói tại khoản
1, Điều này, người trục vớt được hưởng tiền công trục vớt và nhận lại chi phí
liên quan khác theo các nguyên tắc tương ứng về cứu hộ.
3- Trong trường hợp tài sản trục
vớt nói tại khoản 1, Điều này thuộc loại mau hỏng hoặc khi việc bảo quản là quá
tốn kém, thì người trục vớt có quyền xử lý tài sản theo quy định tại khoản 3, Điều 177 của Bộ luật này.
4- Trong thời hạn mười bốn ngày,
kể từ ngày được thông báo mà chủ sở hữu tài sản không yêu cầu nhận lại tài sản
hoặc không thanh toán các khoản nợ và khi không xác định được chủ sở hữu tài sản,
thì người trục vớt có nghĩa vụ giao nộp tài sản đó cho Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương quản lý.
Trong thời hạn một trăm tám mươi
ngày, kể từ ngày thông báo mà chủ sở hữu tài sản không có hành động gì để bảo vệ
quyền lợi của mình, thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và đơn vị hành chính tương đương có quyền xử lý tài sản theo quy định tại khoản 3, Điều 177 của Bộ luật này.
Điều 180.
1- Người nào tìm thấy, cứu hoặc
tham gia cứu được tài sản của người khác đang trôi nổi trên biển, thì có quyền
hưởng tiền công theo nguyên tắc tương tự về cứu hộ, nếu đã thông báo cho chủ sở
hữu tài sản biết về yêu cầu của mình, chậm nhất là khi trao trả tài sản.
2- Người tìm thấy, bảo quản tài
sản dạt vào bờ biển, thì có quyền được hưởng một khoản tiền thưởng và bồi hoàn
chi phí bảo quản không quá 30% giá trị thị trường của tài sản đó, nếu đã thông
báo cho chủ sở hữu tài sản biết, chậm nhất là khi trao trả tài sản.
3- Các quy định tại các khoản 1, 3 và 4 , Điều 179 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối
với các trường hợp nói tại khoản 1 và khoản 2, Điều này.
Điều 181.
Hội đồng bộ trưởng quy định cụ
thể việc xử lý tài sản chìm đắm ở biển.
Chương
13:
TAI NẠN ĐÂM VA
Điều 182.
1- Tai nạn đâm va nói tại Bộ luật
này là tai nạn xảy ra do đâm va giữa tầu biển với tầu biển, tầu biển với tầu
sông, tầu biển với thuỷ phi cơ hoặc các phương tiện nổi khác trong các vùng nước
mà tầu biển được phép hoạt động.
2- Tầu có lỗi gây ra tai nạn đâm
va phải bồi thường mọi tổn thất về tầu, người và tài sản liên quan đến tai nạn
đâm va đó. Khi chưa xác định được lỗi một cách rõ ràng, thì không ai có thể bị
coi là đã có lỗi gây ra tai nạn đâm va.
3- Tầu có lỗi gây ra tai nạn đâm
va là tầu gây ra sự đâm va do có hành động hoặc sự sơ suất trong việc trang bị,
điều khiển, quản trị tầu; trong việc chấp hành quy tắc phòng ngừa đâm va trên
biển và quy định bảo đảm an toàn hàng hải; do không thực hiện những tập quán
nghề nghiệp cần thiết.
Điều 183.
1- Trong trường hợp có hai hoặc
nhiều tầu cùng có lỗi trong một tai nạn đâm va, thì trách nhiệm bồi thường được
phân bổ tuỳ theo mức độ lỗi của mỗi bên. Trong trường hợp mức độ lỗi ngang nhau
hoặc khi không xác định cụ thể mức độ lỗi của mỗi bên, thì trách nhiệm bồi thường
được phân bổ đều cho tất cả các bên.
2- Đối với việc bồi thường tính
mạng, thương tích hoặc tổn hại khác về sức khoẻ con người, các tầu có lỗi phải
chịu trách nhiệm theo nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm. Tầu đã bồi thường quá
trách nhiệm của mình có quyền đòi các tầu liên quan hoàn trả số tiền quá mức
đó.
Thời hiệu khiếu nại về việc đòi
hoàn trả số tiền quá mức là một năm, tính từ ngày trả tiền bồi thường.
Điều 184.
Trong trường hợp tai nạn đâm va
xảy ra do các nguyên nhân bất khả kháng, ngẵu nhiên hoặc khi không xác định được
tầu có lỗi, thì thiệt hại của tầu nào do tầu đó chịu, kể cả trường hợp tầu đang
được neo, buộc hoặc cặp mạn một tầu khác thì xảy ra đâm va.
Điều 185.
1- Khi xảy ra tai nạn đâm va,
thuyền trưởng các tầu liên quan có nghĩa vụ tiến hành cứu nạn tầu, người và tài
sản trên tầu khác, nếu hành động đó không gây ra sự nguy hiểm đặc biệt cho tầu,
người và tài sản trên tầu của mình.
2- Ngay sau khi đâm va, thuyền
trưởng các tầu liên quan có nghĩa vụ trao đổi cho nhau biết tên tầu, hô hiệu,
nơi đăng ký, cảng rời cuối cùng và cảng định đến của tầu mình.
3- Chủ tầu không chịu trách nhiệm
về việc thuyền trưởng dưới quyền không thực hiện nghĩa vụ nói tại khoản 1 và khoản
2, Điều này.
Điều 186.
1- Các quy định tại Chương này
cũng được áp dụng khi tầu có lỗi gây ra tổn thất cho tầu, người và tài sản trên
tầu khác mà không có sự đâm va trực tiếp.
2- Các quy định tại Chương này
cũng được áp dụng đối với các tầu thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam. Các tầu
này chỉ được miễn trách nhiệm bồi thường nếu có lỗi gây ra tai nạn đâm va khi
đang làm nhiệm vụ ở vùng diễn tập quân sự và vùng cấm hoạt động hàng hải đã được
công bố, nhưng thuyền trưởng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 185 của Bộ luật này.
Chương
14:
TỔN THẤT CHUNG
Điều 187.
1- Tổn thất chung bao gồm những
hy sinh hoặc chi phí bất thường được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì
sự an toàn chung nhằm cứu tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển hoặc tiền công vận
chuyển hành khách thoát khỏi hiểm hoạ chung.
2- Tổn thất là hậu quả trực tiếp
của hành động gây ra tổn thất chung mới được tính vào tổn thất chung. Tổn thất
gián tiếp liên quan đến hành động gây ra tổn thất chung như tổn thất do lưu tầu
hoặc do chênh lệch giá đều không được tính vào tổn thất chung.
3- Chi phí đặc biệt vượt quá mức
cần thiết chỉ được tính vào tổn thất chung trong giới hạn hợp lý đối với từng
trường hợp cụ thể.
Điều 188.
1- Tổn thất chung được phân bổ
theo một tỉ lệ tương ứng với giá trị của tầu, hàng hoá, tiền cước vận chuyển,
tiền công vận chuyển hành khách ở nơi và thời điểm mà tầu ghé vào lánh nạn sau
khi xảy ra tổn thất chung.
2- Các quy định tại khoản 1, Điều
này cũng được áp dụng đối với trường hợp hiểm hoạ chung phát sinh do lỗi của
người cùng có lợi ích trong tổn thất chung hoặc của người thứ ba.
3- Tổn thất chung cũng được phân
bổ ngay cả khi đã phải hy sinh tầu hoặc toàn bộ hàng hoá mà không đạt được hiệu
quả mong muốn.
4- Việc phân bổ tổn thất chung
không loại trừ quyền của người liên quan đòi người có lỗi phải bồi thường cho
mình.
Điều 189.
Tổn thất của số hàng hoá được bốc
lậu lên tầu hoặc khai sai về chủng loại và giá trị không được tính vào tổn thất
chung; nếu hàng hoá đó cũng được cứu thoát khỏi hiểm hoạ chung, thì cũng phải chịu
một giá trị phân bổ tương ứng.
Điều 190.
Mọi tổn thất về tầu, hàng hoá,
tiền cước vận chuyển không được tính vào tổn thất chung theo các nguyên tắc
trên đây, được gọi là tổn thất riêng. Người bị thiệt hại không được bồi thường,
nếu không chứng minh được tổn thất xảy ra do lỗi của người khác.
Điều 191.
1- Việc xác định tổn thất chung,
giá trị tổn thất và phân bổ tổn thất chung do các chuyên viên phân bổ tổn thất
chung thực hiện theo yêu cầu và chỉ định của chủ tầu.
2- Chủ tầu có nghĩa vụ chỉ định
chuyên viên phân bổ tổn thất chung của mình chậm nhất là sau ba mươi ngày, kể từ
ngày tầu ghé vào nơi lánh nạn, sau khi xảy ra tổn thất chung. Sau thời hạn đó
mà chủ tầu chưa chỉ định được, thì bất cứ ai trong số những người liên quan
cũng có quyền chỉ định chuyên viên phân bổ tổn thất chung.
3- Các nguyên tắc dùng để xác định
cụ thể giá trị tổn thất và giá trị phân bổ tổn thất chung do các bên thoả thuận
trong hợp đồng. Trong trường hợp không có thoả thuận trước trong hợp đồng, thì
chuyên viên phân bổ tổn thất chung căn cứ vào tập quán quốc tế để giải quyết.
Điều 192.
Thời hiệu khiếu nại về tổn thất
chung là hai năm, tính từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời hiệu này tạm dừng
khi các chuyên viên phân bổ tổn thất chung bắt đầu tiến hành hoạt động xác định
tổn thất chung và tiếp tục được tính từ ngày hoạt động đó chấm dứt.
Điều 193.
Hội đồng bộ trưởng ban hành Quy
chế về chuyên viên phân bổ tổn thất chung.
Chương
15:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA
CHỦ TẦU
Điều 194.
1- Chủ tầu có trách nhiệm bồi
thường dân sự các tổn thất phát sinh trong việc sử dụng tầu biển, nếu không chứng
minh được rằng đã không có lỗi gây ra tổn thất đó, sau đây gọi là trách nhiệm
dân sự của chủ tầu.
2- Trách nhiệm bồi thường dân sự
không loại trừ trách nhiệm hành chính và hình sự.
Điều 195.
1- Chủ tầu được hạn chế trách
nhiệm bồi thường theo mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ
luật này khi bồi thường các tổn thất liên quan đến:
a) Bất cứ người nào có mặt ở
trên tầu mà bị chết, bị thương hoặc bị tổn hại khác về sức khoẻ con người; mọi
tài sản ở trên tầu bị mất mát, hư hỏng;
b) Bất cứ người nào ở bên ngoài
con tầu mà bị chết, bị thương hoặc bị tổn hại khác về sức khoẻ con người; mọi
tài sản hoặc các quyền lợi khác ở bên ngoài con tầu bị mất mát, hư hỏng hoặc bị
xâm phạm do hành động, sự sơ suất, sai lầm của bất cứ ai đang ở trên tầu hoặc ở
ngoài con tầu mà chủ tầu phải chịu trách nhiệm về hành động, sự sơ suất, sai lầm
của họ. Trong trường hợp tổn thất do những người ở bên ngoài con tầu gây ra mà
chủ tầu phải chịu trách nhiệm về hành động, sự sơ suất, sai lầm của họ, thì chủ
tầu chỉ được hạn chế trách nhiệm bồi thường đối với các tổn thất phát sinh
trong việc điều khiển, quản trị tầu, bốc hàng, vận chuyển và dỡ hàng; nhận hành
khách, vận chuyển và trả hàng khách;
c) Mọi nghĩa vụ, trách nhiệm
theo quy định của pháp luật về việc thanh thải xác tầu và các vật thể liên quan
đến tầu khi trục vớt, di chuyển, phá huỷ tầu bị đắm, bị mắc cạn hoặc bị bỏ lại;
nghĩa vụ hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho thiết bị cảng, cầu bến, luồng
lạch, vũng đậu tầu, ụ tầu; nghĩa vụ hoặc trách nhiệm bồi thường tổn thất ô nhiễm
môi trường do tầu gây ra mà không phải là tổn thất ô nhiệm môi trường do phóng
xạ nguyên tử.
2- Chủ tầu cũng được hạn chế
trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp nói tại điểm b, khoản 1, Điều này,
nếu trách nhiệm đó phát sinh từ việc sở hữu, chiếm hữu, quản lý, kiểm soát tầu
mà không cần phải chứng minh; lỗi của chủ tầu hoặc của những người khác mà chủ
tầu phải chịu trách nhiệm.
3- Chủ tầu không được hạn chế
trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp xảy tổn thất liên quan đến:
a) Hành động cứu hộ hoặc chi phí
để đóng góp vào tổn thất chung;
b) Ô nhiễm môi trường do phóng xạ
nguyên tử;
c) Khiếu nại của thuyền trưởng,
thuyền viên khác, người làm công cho chủ tầu ở trên tầu hoặc của những người
làm công khác ở bên ngoài con tầu mà có nhiệm vụ liên quan đến tầu, kể cả khiếu
nại của người thừa kế, người đại diện và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng,
nếu quy định pháp luật về hợp đồng lao động giữa chủ tầu và những người này không
cho phép chủ tầu được hạn chế trách nhiệm bồi thường đối với những khiếu nại của
họ hoặc chỉ cho phép chủ tầu giới hạn trách nhiệm bồi thường với mức cao hơn so
với mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này.
4- Trong trường hợp pháp luật về
bảo vệ môi trường của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
công nhận có quy định khác với Bộ luật này, thì mức giới hạn trách nhiệm bồi
thường của chủ tầu được xác định và giải quyết trên cơ sở các văn bản đó.
Điều 196.
1- Chủ tầu chỉ có trách nhiệm bồi
thường theo trách nhiệm dân sự trong các mức giới hạn:
a) Tổng giá trị của con tầu liên
quan, tính theo đơn giá tương đương ba nghìn một trăm Frăng vàng cho mỗi tấn
đăng ký dung tích toàn phần (GRT), nếu là để bồi thường tổn thất liên quan đến
tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ con người;
b) Tổng giá trị của con tầu liên
quan, tính theo đơn giá tương đương một nghìn Frăng vàng cho mỗi tấn đăng ký
dung tích toàn phần (GRT), nếu là để bồi thường mất mát, hư hỏng tài sản;
c) Tổng giá trị của con tầu liên
quan, tính theo giá tương đương ba nghìn một trăm Frăng vàng cho mỗi tấn đăng
ký dung tích toàn phần (GRT), nếu là để bồi thường tổn thất liên quan đến tính
mạng, thương tích và các tổn thất khác về sức khoẻ con người và mất mát, hư hỏng
tài sản trong cùng một vụ việc. Trong đó, tổng số tiền tính theo đơn giá tương
đương hai nghìn một trăm Frăng vàng cho mỗi tấn đăng ký dung tích toàn phần
(GRT) dùng để bồi thường tổn thất liên quan tính mạng, thương tích và các tổn hại
khác về sức khoẻ con người; số còn lại dùng để bồi thường mất mát, hư hỏng tài
sản. Trong trường hợp tổng số tiền dành để bồi thường tổn thất liên quan đến
tính mạng, thương tích và các tổn hại khác về sức khoẻ con người không đủ, thì
phần còn thiếu được tính vào phần tiền dành để bồi thường mất mát, hư hỏng tài
sản theo tỉ lệ thuận.
2- Mọi thoả thuận nhằm giảm
trách nhiệm bồi thường của chủ tầu dưới mức giới hạn nói tại khoản 1, Điều này
đều không có giá trị.
3- Số tấn đăng ký dung tích toàn
phần (GRT) nói tại khoản 1, Điều này là:
a) Tổng dung tích thực dụng cộng
với dung tích buồng máy, nếu là tầu có động cơ;
b) Tổng dung tích thực dụng, nếu
là tầu không có động cơ.
4- Khi xác định giới hạn trách
nhiệm dân sự của chủ tầu, loại tầu dưới ba trăm tấn đăng ký dung tích toàn phần
được quy tròn là ba trăm.
Điều 197.
1- Mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này chỉ được dùng để bồi thường các tổn
thất phát sinh trong cùng một vụ việc, không liên quan đến các vụ việc khác.
2- Trong trường hợp chủ tầu có
quyền đòi người khiếu nại mình bồi thường trong cùng một vụ việc, thì các quy định
tại Chương này chỉ áp dụng để xác định khoản tiền chênh lệch so với trách nhiệm
của mỗi bên.
3- Mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật này được chuyển đổi thành tiền Việt Nam
theo tỉ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm
thanh toán.
Điều 198.
1- Trong trường hợp số tiền bồi
thường vượt quá mức giới hạn quy định tại Điều 196 của Bộ luật
này, thì chủ tầu có thể lập "Quỹ bồi thường" để thoả mãn các khiếu
nại.
2- "Quỹ bồi thường" này
chỉ dành để giải quyết các khiếu nại đòi bồi thường mà chủ tầu được hưởng quyền
giới hạn trách nhiệm dân sự.
3- "Quỹ bồi thường" được
lập bằng cách ký quỹ hoặc bằng các hình thức bảo đảm khác ở toà án nhận khiếu nại
hoặc tại một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác và phải được toà án hoặc cơ
quan đó công nhận là hợp lệ và bảo hộ.
4- Sau khi chủ tầu đã lập
"Quỹ bồi thường", không ai có quyền xâm phạm quyền lợi hoặc tài sản của
chủ tầu. Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nói ở khoản 3, Điều này có
quyền ra lệnh giải phóng tài sản bị cầm giữ, bắt giữ hoặc chấm dứt các bảo đảm
tương tự.
5- "Quỹ bồi thường" được
phân chia cho những người khiếu nại theo tỉ lệ thích hợp giữa các khoản tiền
khiếu nại.
6- Việc lập "Quỹ bồi thường"
không có nghĩa là chủ tầu đã thừa nhận mọi trách nhiệm về mình.
Điều 199.
Giới hạn trách nhiệm dân sự của
chủ tầu cũng được áp dụng theo nguyên tắc tương tự đối với người khai thác tầu,
người quản lý tầu, người cứu hộ chuyên nghiệp và những người mà bản thân chủ tầu
hoặc những người nói trên phải chịu trách nhiệm về hành động, sự sơ suất, sai lầm
của họ.
Chương
16:
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG
HẢI
Mục A: QUY
ĐỊNH CHUNG
Điều 200.
1- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải là
hợp đồng được ký kết giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm mà theo đó, người
bảo hiểm thu bảo hiểm phí do người được bảo hiểm trả và người được bảo hiểm được
người bảo hiểm bồi thường tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các hiểm hoạ hàng
hải gây ra theo mức độ và điều kiện đã thoả thuận với người bảo hiểm.
2- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải có
thể áp dụng đối với cả các hiểm hoạ có thể gây ra tổn thất cho đối tượng bảo hiểm
hàng hải trên quãng vận chuyển đường không, đường thuỷ nội địa hoặc đường bộ
trong liên hiệp vận chuyển.
3- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải phải
được làm bằng văn bản.
Điều 201.
1- Đối tượng bảo hiểm hàng hải
có thể là bất kỳ quyền lợi vật chất nào liên quan đến các hoạt động hàng hải mà
có thể quy ra tiền, bao gồm: tầu biển, hàng hoá, tiền cước vận chuyển, tiền công
vận chuyển hành khách, tiền thuê tầu, tiền thuê - mua tầu, tiền lãi ước tính của
hàng hoá, các khoản hoa hồng, chi phí tổn thất chung, trách nhiệm dân sự và các
khoản tiền được bảo đảm bằng tầu, hàng hoá hoặc tiền cước vận chuyển.
2- Đối tượng bảo hiểm hàng hải
còn có thể là tầu đang đóng.
Điều 202.
1- Người bảo hiểm có thể cho người
khác tái bảo hiểm đối tượng bảo hiểm mà mình đã nhận bảo hiểm.
2- Hợp đồng tái bảo hiểm độc lập
với hợp đồng bảo hiểm gốc.
Điều 203.
1- Theo yêu cầu của người được bảo
hiểm, người bảo hiểm có nghĩa vụ cấp đơn bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Đơn
bảo hiểm là bằng chứng về việc ký kết hợp đồng.
2- Trước khi cấp đơn bảo hiểm,
người bảo hiểm có nghĩa vụ cấp cho người được bảo hiểm giấy chứng nhận về việc
ký kết hợp đồng, nếu người đó yêu cầu.
3- Đơn bảo hiểm có thể được cấp
theo hình thức đơn bảo hiểm đích danh, đơn bảo hiểm theo lệnh hoặc đơn bảo hiểm
vô danh.
4- Đơn bảo hiểm phải có những nội
dung cơ bản sau đây:
a) Tên người được bảo hiểm hoặc
người có quyền lợi được bảo hiểm;
b) Đối tượng bảo hiểm;
c) Các hiểm hoạ được bảo hiểm;
d) Số lượng chuyến đi hoặc thời
hạn thực hiện hợp đồng bảo hiểm, tuỳ theo hợp đồng đó là hợp đồng bảo hiểm chuyến
hoặc hợp đồng bảo hiểm thời hạn;
e) Số tiền bảo hiểm;
g) Nơi, ngày, tháng và giờ cấp đơn
bảo hiểm;
h) Chữ ký và xác nhận của người
bảo hiểm.
Điều 204.
1- Người được bảo hiểm có nghĩa
vụ cung cấp cho người bảo hiểm biết tất cả các thông tin mà mình biết hoặc cần
phải biết liên quan đến việc ký kết hợp đồng bảo hiểm, có thể ảnh hưởng đến việc
xác định khả năng xảy ra hiểm hoạ hoặc quyết định của người bảo hiểm về việc nhận
bảo hiểm và các điều kiện bảo hiểm, trừ loại thông tin mà mọi người đều biết hoặc
người bảo hiểm đã biết hoặc cần phải biết.
2- Nghĩa vụ của người được bảo
hiểm quy định tại khoản 1, Điều này cũng được áp dụng đối với các đại diện được
uỷ quyền của người được bảo hiểm.
3- Các nghĩa vụ quy định tại Điều
này cũng được áp dụng đối với người thứ ba, nếu hợp đồng bảo hiểm được ký kết
vì quyền lợi của người thứ ba, trừ trường hợp người thứ ba không biết về việc
ký kết này.
Điều 205.
1- Hợp đồng bảo hiểm hàng hải có
thể được ký kết vì quyền lợi của người thứ ba, sau đây gọi là người có quyền lợi
được bảo hiểm.
2- Người có quyền lợi được bảo
hiểm có quyền yêu cầu người bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm; nếu đơn bảo hiển đã được
giao cho người có quyền lợi được bảo hiểm, thì người đó được hưởng đầy đủ các
quyền theo hợp đồng.
Nghĩa vụ của người được bảo hiểm
liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, trừ nghĩa vụ nộp bảo hiểm phí, được chuyển
sang cho người có quyền lợi được bảo hiểm từ khi người này nhận được đơn bảo hiểm.
Điều 206.
1- Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu
lực, nếu vào thời điểm ký kết hợp đồng, hiểm hoạ được bảo hiểm đã xảy ra hoặc
không có khả năng xảy ra trong thực tế. Người bảo hiểm vẫn có quyền thu tiền phạt
huỷ hợp đồng, trừ trường hợp trước khi ký kết người bảo hiểm đã biết về sự kiện
đó.
2- Hai bên thoả thuận trong hợp
đồng về mức tiền phạt huỷ hợp đồng.
Điều 207.
Trong trường hợp người được bảo
hiểm vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 204 của Bộ luật này,
thì người bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng và vẫn được thu đầy đủ bảo hiểm
phí. Nếu người được bảo hiểm không có lỗi trong việc khai báo không chính xác
hoặc không khai báo theo quy định tại Điều 204 của Bộ luật này,
thì người bảo hiểm không có quyền rút khỏi hợp đồng, nhưng có quyền thu thêm bảo
hiểm phí ở mức độ hợp lý.
Điều 208.
Người được bảo hiểm có quyền rút
khỏi hợp đồng bảo hiểm vào bất kỳ lúc nào, trước khi xuất hiện hiểm hoạ được bảo
hiểm và có nghĩa vụ trả tiền phạt huỷ hợp đồng.
Các bên tham gia hợp đồng thoả
thuận trong hợp đồng về tiền phạt huỷ hợp đồng và điều kiện hoàn trả bảo hiểm
phí.
Điều 209.
Thời hiệu khiếu nại liên quan đến
hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hai năm, tính từ ngày phát sinh vụ việc.
Mục B: GIÁ
TRỊ BẢO HIỂM VÀ SỐ TIỀN BẢO HIỂM
Điều 210.
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực
tế của đối tượng bảo hiểm và được xác định như sau:
a) Giá trị bảo hiểm của tầu là tổng
giá trị của tầu vào thời điểm bắt đầu bảo hiểm. Giá trị này còn bao gồm giá trị
của máy móc, trang thiết bị, phụ tùng, dự trữ của tầu cộng với toàn bộ phí bảo
hiểm phí. Tuỳ theo hợp đồng, giá trị tầu còn có thể bao gồm cả tiền lương ứng
trước cho thuyền bộ và chi phí chuẩn bị chuyến đi;
b) Giá trị bảo hiểm của hàng hoá
là giá trị hàng ghi trên hoá đơn ở nơi bốc hàng hoặc giá trị thị trường ở nơi
và thời điểm bốc hàng cộng với phí bảo hiểm và có thể cả tiền lãi ước tính;
c) Giá trị bảo hiểm của tiền cước
vận chuyển là tổng số tiền cước vận chuyển cộng với bảo hiểm phí. Trong trường
hợp người thuê vận chuyển mua bảo hiểm cho tiền cước vận chuyển, thì số tiền cước
này được tính gộp vào giá trị bảo hiểm của hàng hoá để bảo hiểm.
d) Giá trị bảo hiểm của các đối
tượng bảo hiểm khác, trừ các trách nhiệm dân sự, là giá trị của đối tượng ở nơi
và thời điểm bắt đầu bảo hiểm cộng với phí bảo hiểm.
Điều 211.
1- Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm,
người được bảo hiểm phải kê khai số tiền cần bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm,
sau đây gọi là số tiền bảo hiểm.
2- Nếu số tiền bảo hiểm ghi
trong hợp đồng bảo hiểm thấp hơn giá trị bảo hiểm, thì người bảo hiểm chịu
trách nhiệm bồi thường tổn thất, theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo
hiểm, kể cả chi phí khác thuộc phạm vi bảo hiểm.
3- Nếu số tiền bảo hiểm ghi
trong hợp đồng bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm, thì phần tiền vượt quá giá trị
bảo hiểm không được thừa nhận.
Điều 212.
Trong trường hợp đối tượng bảo
hiểm được nhiều người bảo hiểm đối với cùng một hiểm hoạ và tổng số tiền bảo hiểm
vượt quá giá trị bảo hiểm, thì tất cả những người bảo hiểm đó chỉ chịu trách nhiệm
bồi thường trong phạm vi giá trị bảo hiểm và mỗi người chỉ chịu trách nhiệm
theo tỉ lệ tương ứng với số tiền bảo hiểm mà mình đã nhận bảo hiểm. Bảo hiểm này
gọi là bảo hiểm trùng.
Mục C: CHUYỂN
GIAO QUYỀN THEO HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG HẢI
Điều 213.
Các quyền theo hợp đồng bảo hiểm
hàng hải chỉ được chuyển cho người đã được chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm; nếu
các quyền đó không được chuyển cho người được chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm,
thì hợp đồng mặc nhiên chấm dứt và người bảo hiểm vẫn có nghĩa vụ bồi thường
các tổn thất liên quan, xảy ra trước khi đối tượng bảo hiểm được chuyển nhượng.
Nghĩa vụ của người chuyển nhượng
đối tượng bảo hiểm cũng đồng thời được chuyển cho người được chuyển nhượng đối
tượng bảo hiểm. Kể cả trách nhiệm liên quan đến những khiếu nại do người bảo hiểm
đã đưa ra trước đó đối với người chuyển nhượng đối tượng bảo hiểm.
Điều 214.
1- Việc chuyển quyền theo hợp đồng
bảo hiểm hàng hải có cấp đơn bảo hiểm được thực hiện cùng với việc chuyển nhượng
đơn bảo hiểm.
2- Việc chuyển nhượng đơn bảo hiểm
được giải quyết theo nguyên tắc như chuyển nhượng vận đơn.
Điều 215.
1- Nếu đối tượng bảo hiểm là tầu
biển, thì việc chuyển các quyền theo hợp đồng bảo hiểm phải được người bảo hiểm
đồng ý trước.
2- Nếu tầu đang hành trình ở thời
điểm được chuyển nhượng cho người khác, thì các quyền theo hợp đồng bảo hiểm tầu
không được chuyển ngay cho người được chuyển nhượng tầu mà hợp đồng bảo hiểm vẫn
giữ nguyên hiệu lực cho đến khi tầu đó vào neo đậu tại cảng đầu tiên, sau khi
được chuyển nhượng.
Mục D: BẢO
HIỂM BAO
Điều 216.
1- Bảo hiểm bao là loại bảo hiểm
trọn gói, được áp dụng đối với đối tượng bảo hiểm là một loại hàng hoá hoặc một
số loại hàng hoá mà người được bảo hiểm gửi đi hoặc nhận được trong một thời hạn
nhất định.
2- Người bảo hiểm trong hợp đồng
bảo hiểm bao có nghĩa vụ cấp theo yêu cầu người được bảo hiểm đơn bảo hiểm hoặc
giấy chứng nhận bảo hiểm cho mỗi chuyến hàng hoặc cho từng đơn vị hàng hoá.
Điều 217.
1- Người được bảo hiểm trong bảo
hiểm bao có nghĩa vụ thông báo ngay cho người bảo hiểm biết sau khi nhận được
các thông tin liên quan đến việc gửi hàng hoặc nhận được hàng và mỗi lần đều phải
thông báo tên tầu, tuyến hành trình, hàng hoá và số tiền bảo hiểm, kể cả khi
người bảo hiểm nhận được thông báo, thì có thể hàng đã được gửi hoặc đã đến cảng
đích.
2- Nếu người được bảo hiểm cố ý
hoặc do cẩu thả mà không thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 1, Điều này, thì
người bảo hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng và vẫn được hưởng bảo hiểm phí tương
tự như trong trường hợp hợp đồng được thực hiện đúng đắn.
Điều 218.
Các bên có quyền yêu cầu huỷ hợp
đồng bảo hiểm bao với điều kiện phải thông báo cho nhau biết trước ba tháng về
việc đó.
Mục E: THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG HẢI
Điều 219.
Người được bảo hiểm có nghĩa vụ
nộp bảo hiểm phí cho người bảo hiểm ngay sau khi ký kết hợp đồng hoặc ngay khi
được cấp đơn bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Điều 220.
1- Người được bảo hiểm có nghĩa
vụ báo ngay cho người bảo hiểm biết sau khi nhận được các thông tin liên quan đến
sự thay đổi về các hiểm hoạ được bảo hiểm có khả năng đe doạ đối tượng bảo hiểm
hoặc về tai nạn đã xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm và phải làm theo các chỉ dẫn
của người bảo hiểm.
2- Người bảo hiểm có quyền rút
khỏi hợp đồng bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm đã vi phạm quy định nói tại khoản
1, Điều này.
Điều 221.
1- Trong trường hợp xảy ra tổn
thất liên quan đến hiểm hoạ đã được bảo hiểm, người được bảo hiểm có nghĩa vụ
tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa hoặc hạn chế tổn thất và bảo đảm
cho việc thực hiện quyền khiếu nại của người bảo hiểm đối với người gây ra tổn
thất. Khi thực hiện nghĩa vụ này, người được bảo hiểm phải thực hiện các chỉ dẫn
của người bảo hiểm.
2- Người bảo hiểm không chịu
trách nhiệm đối với tổn thất xảy ra do người được bảo hiểm quá cẩu thả hoặc cố
ý không thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều này.
Điều 222.
Người bảo hiểm có trách nhiệm bồi
hoàn cho người được bảo hiểm mọi chi phí hợp lý và cần thiết do người được bảo
hiểm chi ra để ngăn ngừa hoặc hạn chế tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm, cũng
như chi phí thực hiện những chỉ dẫn của người bảo hiểm quy định tại Điều 221 của Bộ luật này hoặc chi phí để xác định nguyên nhân
và mức độ tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm và chi phí đóng
góp vào tổn thất chung. Các chi phí này phải được bồi hoàn theo tỉ lệ giữa số
tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
Điều 223.
Trong phạm vi số tiền bảo hiểm,
người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất là hậu quả trực
tiếp của hiểm hoạ được bảo hiểm và còn phải bồi hoàn những chi phí quy định tại
Điều 222 của Bộ luật này, mặc dù tổng số tiền phải trả cho
người được bảo hiểm có thể vượt quá số tiền bảo hiểm.
Điều 224.
Người bảo hiểm không chịu trách
nhiệm đối với những tổn thất xảy ra do hành động cố ý hoặc quá cẩu thả của người
được bảo hiểm, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn thất phát
sinh do sự sơ suất hoặc sai lầm của thuyền trưởng đồng thời cũng là người được
bảo hiểm trong việc điều khiển, quản trị tầu và các tổn thất do lỗi của thuyền
bộ, hoa tiêu.
Điều 225.
Khi bảo hiểm tầu và tiền cước vận
chuyển, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh do:
a) Tầu không đủ khả năng an toàn
đi biển vào lúc bắt đầu chuyến đi, trừ khi tầu có khuyết tật ẩn hoặc khi xảy ra
các tình huống không thể tránh khỏi, mặc dù người được bảo hiểm đã có sự quan
tâm thích đáng;
b) Tuổi của tầu hoặc thời gian sử
dụng;
c) Bốc lên tầu những chất hoặc vật
liệu dễ nổ, dễ cháy hoặc những hàng hoá nguy hiểm khác, không phù hợp với những
quy định về việc vận chuyển loại hàng này, nếu người được bảo hiểm biết nhưng
người bảo hiểm lại không biết về việc đó.
Điều 226.
Khi bảo hiểm hàng hoá, người bảo
hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh do:
a) Tính chất tự nhiên của hàng
hoá;
b) Hàng bị rò chảy, hao hụt hoặc
hao mòn tự nhiên;
c) Bao bì không đúng quy cách hoặc
không thích hợp;
d) Chậm trễ trong việc cung ứng
hàng hoá.
Điều 227.
Trừ trường hợp có thoả thuận
khác trong hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những
tổn thất của đối tượng bảo hiểm xảy ra do chiến tranh hoặc những hoạt động quân
sự với bất kỳ tính chất nào và hậu quả của nó; bị cưỡng đoạt; gây rối, đình
công hoặc những tổn thất xảy ra do hành động tịch thu, trưng dụng, bắt giữ, phá
huỷ tầu hoặc hàng hoá theo mệnh lệnh quân sự hoặc lệnh của chính quyền dân sự.
Điều 228.
Trong trường hợp bồi thường tổn
thất liên quan đến các trách nhiệm trong tai nạn đâm va, thì ngoài trách nhiệm bồi
thường các tổn thất của đối tượng bảo hiểm, người bảo hiểm còn có trách nhiệm bồi
thường các tổn thất của người thứ ba, nếu người được bảo hiểm phải chịu trách
nhiệm về các tổn thất do tai nạn đâm va, mặc dù tổng số tiền bồi thường có thể
vượt quá số tiền bảo hiểm.
Điều 229.
Trong trường hợp xảy ra hiểm hoạ
thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm, thì người bảo hiểm có thể bồi thường
toàn bộ số tiền bảo hiểm để được miễn mọi trách nhiệm khác theo các điều kiện
đã thoả thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, người bảo hiểm phải thông báo ý định này
cho người được bảo hiểm biết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được
thông báo của người được bảo hiểm về hiểm hoạ đã xảy ra và hậu quả của nó.
Trong trường hợp này người bảo hiểm không được đòi quyền sở hữu đối với đối tượng
bảo hiểm, nếu số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị bảo hiểm.
Ngoài việc bồi thường toàn bộ số
tiền bảo hiểm, người bảo hiểm còn phải bồi hoàn những chi phí nhằm mục đích
ngăn ngừa, hạn chế tổn thất hoặc để sửa chữa, khôi phục đối tượng bảo hiểm mà
người được bảo hiểm đã chi trước khi nhận được thông báo của người bảo hiểm.
Điều 230.
1- Trừ trường hợp có thoả thuận
khác trong hợp đồng, người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm đối với các tổn thất
xảy ra kế tiếp nhau, mặc dù tổng số giá trị tổn thất có thể vượt quá số tiền bảo
hiểm.
2- Nếu đối tượng bảo hiểm bị tổn
thất bộ phận mà vẫn chưa được sửa chữa hoặc bồi thường và tiếp sau đó lại xảy
ra tổn thất toàn bộ, thì người được bảo hiểm chỉ được bồi thường tổn thất toàn
bộ.
3- Những quy định tại khoản 1 và
khoản 2, Điều này không loại trừ trách nhiệm của người bảo hiểm đối với việc bồi
hoàn chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ nói tại Điều
221 của Bộ luật này.
Mục G: THỰC
HIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI CÓ NGƯỜI THỨ BA PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ TỔN THẤT
Điều 231.
Khi đã trả tiền bồi thường cho
người được bảo hiểm, người bảo hiểm được quyền truy đòi người thứ ba về trách
nhiệm bồi thường tổn thất trong phạm vi số tiền đã trả. Người bảo hiểm thực hiện
quyền này theo đúng các thể thức quy định đối với người được bảo hiểm.
Điều 232.
1- Người được bảo hiểm có nghĩa
vụ cung cấp cho người bảo hiểm mọi tin tức, tài liệu, bằng chứng và đồng thời
phải áp dụng những biện pháp cần thiết để người bảo hiểm có thể thực hiện có hiệu
quả quyền truy đòi người thứ ba.
2- Nếu người được bảo hiểm không
thực hiện nghĩa vụ nói tại khoản 1, Điều này hoặc có lỗi làm cho quyền truy đòi
của người bảo hiểm không thể thực hiện được thì người bảo hiểm được miễn trả
toàn bộ tiền bồi thường hoặc được giảm ở mức độ thích đáng.
3- Nếu người được bảo hiểm đã nhận
tiền bồi thường tổn thất do người thứ ba trả, thì người bảo hiểm chỉ có nghĩa vụ
trả phần tiền chênh lệch giữa số tiền phải bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm và
số tiền mà người được bảo hiểm đã nhận từ người thứ ba.
Điều 233.
1- Theo yêu cầu của người được bảo
hiểm, người bảo hiểm phải cam kết thanh toán chi phí đóng góp vào tổn thất
chung trong phạm vi số tiền bảo hiểm.
2- Khi lập bản phân bổ tổn thất
chung, người được bảo hiểm có nghĩa vụ quan tâm thích đáng các quyền lợi của
người bảo hiểm.
Mục H: TỪ BỎ
ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM
Điều 234.
1- Người được bảo hiểm có quyền
tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm và chuyển cho người bảo hiểm quyền, nghĩa vụ của
mình liên quan đến đối tượng bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường tổn thất
toàn bộ, nếu việc đối tượng bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ là không thể tránh khỏi
hoặc việc ngăn ngừa tổn thất đó sẽ gây ra các chi phí quá cao so với giá trị của
đối tượng bảo hiểm.
2- Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm
có thể được áp dụng trong trường hợp tầu biển bị mất tích, bị cưỡng đoạt, bị hư
hỏng do tai nạn mà không thể sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa, phục hồi, chuộc
tầu là không có hiệu quả kinh tế.
3- Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm
nói tại khoản 2, Điều này cũng được áp dụng đối với hàng hoá, kể cả khi chi phí
sửa chữa, vận chuyển hàng hoá đến cảng đích là quá cao so với giá trị thị trường
của hàng hoá đó tại cảng đích.
Điều 235.
1- Tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo
hiểm phải làm bằng văn bản và phải ghi rõ căn cứ để áp dụng quyền từ bỏ đối tượng
bảo hiểm.
2- Tuyên bố từ bỏ phải được gửi
cho người bảo hiểm trong thời hạn hợp lý, nhưng không quá một trăm tám mươi
ngày, kể từ ngày người được bảo hiểm biết về các sự kiện làm căn cứ để áp dụng
quyền từ bỏ hoặc trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày hết hạn bảo hiểm
trong các trường hợp tầu hoặc hàng hoá bị cưỡng đoạt hoặc bị mất quyền chiếm hữu
vì những nguyên nhân khác. Sau các thời hạn nói trên, thì người được bảo hiểm bị
mất quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm, nhưng vẫn có quyền đòi bồi thường tổn thất.
3- Việc từ bỏ đối tượng bảo hiểm
không được kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Nếu việc từ bỏ đã được chấp nhận, thì
người bảo hiểm và người được bảo hiểm đều không được thay đổi quyết định của
mình.
Điều 236.
Khi tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo
hiểm, người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm những thông
tin liên quan đến quyền về tài sản đối với đối tượng bảo hiểm, các khoản bảo hiểm
và hạn chế khác mà người được bảo hiểm biết.
Điều 237.
1- Trong thời hạn ba mươi ngày,
kể từ ngày nhận được tuyên bố từ bỏ, người bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo cho
người được bảo hiểm biết là chấp nhận hoặc từ chối việc từ bỏ. Sau thời hạn này,
người bảo hiểm bị mất quyền từ chối.
2- Quyền và nghĩa vụ liên quan đến
đối tượng bảo hiểm được chuyển sang cho người bảo hiểm ngay sau khi người bảo
hiểm thông báo chấp nhận từ bỏ; người bảo hiểm có thể không đòi quyền và nghĩa
vụ này.
3- Nếu việc thông báo từ bỏ được
thực hiện đúng quy định mà người bảo hiểm không chấp nhận việc từ bỏ, thì người
được bảo hiểm vẫn có quyền đòi bồi thường.
Điều 238.
1- Trong trường hợp xảy ra tổn
thất toàn bộ thực tế do tầu bị mất tích cùng với hàng hoá trên tầu, người được
bảo hiểm có thể đòi người bảo hiểm bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm mà không
phải tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm theo quy định tại Điều
235 của Bộ luật này.
2- Trong trường hợp tầu bị mất
tích là tầu được bảo hiểm có thời hạn, người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi
thường, nếu đã nhận được tin cuối cùng về tầu trước khi kết thúc thời hạn bảo
hiểm. Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường, nếu chứng minh được tầu
bị mất tích sau khi thời hạn bảo hiểm kết thúc.
Điều 239.
Nếu người bảo hiểm đã trả tiền bồi
thường mà sau đó tầu lại thoát khỏi hiểm hoạ, thì người bảo hiểm có quyền yêu cầu
người được bảo hiểm tiếp tục sở hữu tầu đó và hoàn lại số tiền đã được bồi thường,
sau khi khấu trừ tiền bồi thường tổn thất bộ phận của tầu, với điều kiện tổn thất
bộ phận đó là hậu quả trực tiếp của hiểm hoạ được bảo hiểm.
Mục I:
THANH TOÁN TIỀN BỒI THƯỜNG
Điều 240.
Khi thanh toán tiền bồi thường tổn
thất của đối tượng bảo hiểm, người bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo hiểm
trình bày về sự kiện liên quan, xuất trình tài liệu, bằng chứng cần thiết cho việc
đánh giá sự kiện và mức độ tổn thất.
Chương
17:
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HÀNG HẢI
Điều 241.
1- Các bên liên quan có thể giải
quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng hoặc thoả thuận đưa tranh chấp ra
giải quyết trước trọng tài hoặc khởi kiện trước toà án.
2- Các tranh chấp hàng hải được
trọng tài hoặc toà án giải quyết theo thẩm quyền, thủ tục do pháp luật quy định.
Điều 242.
Nếu hợp đồng hàng hải có ít nhất
một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, thì các bên tham gia hợp đồng có thể
thoả thuận đưa tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài hoặc toà án ở nước
ngoài.
Chương
18:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 243.
Bộ luật hàng hải Việt Nam có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1991.
Điều 244.
Những quy định trước đây về hoạt
động hàng hải trái với Bộ luật này đều bãi bỏ.
Bộ luật đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30 tháng 6
năm 1990.