ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
139/KH-UBND
|
Lạng
Sơn, ngày 19 tháng 8 năm 2020
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2021 -
2025 TỈNH LẠNG SƠN
Kính gửi: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Thực hiện Công
văn số 4476/BKHĐT-HTX ngày 14/7/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021-2025, UBND tỉnh Lạng
Sơn xây dựng kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021-2025
như sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
1. Tình hình chung
Trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, thành phần kinh tế tập thể (KTTT) với nòng cốt
là hợp tác xã có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội nhất
là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động của các tổ hợp tác (THT), hợp
tác xã (HTX), liên hiệp hợp tác xã (LHHTX) phát triển bền vững sẽ đóng góp cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, trong thời gian qua sự
đóng góp của khu vực KTTT đối với nền kinh tế chung của tỉnh chưa nhiều; doanh
thu, nộp ngân sách nhà nước của THT, HTX, LHHTX chưa đáng kể, chiếm tỷ lệ rất
nhỏ trong GRDP hằng năm của tỉnh (khoảng 0,5%); thu nhập của thành viên, người
lao động trong THT, HTX, LHHTX thấp hơn so với mức thu nhập chung của người lao
động trong các thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh (từ 4 - 5 triệu đồng/người/tháng
trở lên).
1.1. Về
tổ hợp tác (THT)
Số lượng THT ước
tính tại thời điểm 31/12/2020 là 1.880 THT, tăng 145 tổ so với thời điểm
31/12/2016 có 1.735 THT; trong đó hoạt động chủ yếu của các THT là lĩnh vực nông,
lâm nghiệp 1.650 THT, tăng 484 tổ so với thời điểm 31/12/2011 có 1.166 THT; tiểu
thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ 230 THT, tăng 46 tổ so với thời điểm
31/12/2016 có 184 THT ; năm 2017 có 02 THT nông nghiệp phát triển thành HTX.
Số thành viên
tham gia THT cũng chính là số lao động trong THT ước tính tại thời điểm
31/12/2020 là 21.510 thành viên, tăng 2.910 thành viên so với thời điểm
31/12/2016 có 18.600 thành viên tham gia; trong đó số thành viên mới tham gia
trong THT năm 2020 là 1.960 thành viên, tăng 1.585 thành viên so với thời điểm
31/12/2016 là 375 thành viên.
Doanh thu bình
quân 01 THT ước đạt tại thời điểm 31/12/2020 là 606 triệu đồng/năm, tăng 23,7%
so với thời điểm 31/12/2016 là 490 triệu đồng/năm, thu nhập bình quân người lao
động trong THT khoảng 30 triệu đồng/người/năm tăng 10 triệu đồng so với thời điểm
31/12/2016.
Các THT hình
thành một cách tự phát, nhỏ lẻ, mối quan hệ lỏng lẻo mang tính thời vụ không ổn
định, tự giải thể khi không còn nhu cầu hợp tác. Do quy mô nhỏ, hình thức tổ chức
quản lý giản đơn nên mô hình này phù hợp với trình độ tổ chức sản xuất khu vực
nông nghiệp, nông thôn, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh, cần tiếp tục có sự quan tâm hỗ trợ của các cấp, các ngành, các
tổ chức đoàn thể.
1.2. Về
hợp tác xã (HTX)
Số lượng HTX ước
tính tại thời điểm 31/12/2020 là 300 HTX (tăng 166 HTX so với thời điểm
31/12/2016 có 134 HTX); trong đó: có 49 HTX thành lập mới, 278 HTX đang hoạt động,
22 HTX ngừng hoạt động; 07 HTX giải thể; trong năm 2020 chưa có HTX chuyển đổi
sang hình thức hoạt động khác và thành lập doanh nghiệp trong HTX.
Tình hình chuyển
đổi, đăng ký lại HTX: tính đến hết năm 2016 đã có 60/61 HTX hoàn thành chuyển đổi,
tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã năm 2012, có 01 HTX chuyển đổi loại hình sang
hình thức hộ kinh doanh cá thể.
Số thành viên
HTX ước tính tại thời điểm 31/12/2020 là 4.315 thành viên, tăng 63,6% so với thời
điểm 31/12/2016 có 2.638 thành viên; số lượng thành viên mới tham gia vào HTX
giai đoạn 2016 - 2020 là 2.359 thành viên; số lao động làm việc trong HTX ước
tính tại thời điểm 31/12/2020 có 7.390 người, tăng 86,4% so với thời điểm
31/12/2016 là 3.965 người, số lao động thường xuyên mới ước tính tại thời điểm
31/12/2020 là 610 người.
Tổng số vốn điều
lệ ước tính tại thời điểm 31/12/2020 khoảng 390.000 triệu đồng, tăng 100,2% so
với thời điểm 31/12/2016 tổng số vốn điều lệ đăng ký là 194.771 triệu đồng.
Về số lượng
cán bộ quản lý các HTX có khoảng 764 người; trong đó số lượng cán bộ quản lý đạt
trình độ sơ, trung cấp: 525 người, số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng
trở lên: 90 người.
Doanh thu bình
quân của HTX đạt 1.000 triệu đồng/năm, tăng 17,6% so với thời điểm 31/12/2016
là 850 triệu đồng/năm; trong đó: doanh thu của HTX với thành viên là 55 triệu đồng/năm,
tăng 57,1% so với thời điểm 31/12/2016 là 35 triệu đồng/năm; lãi bình quân 01
HTX đạt 55 triệu đồng/năm, tăng 19,5% so với thời điểm 31/12/2016 là 46 triệu đồng/năm;
thu nhập bình quân của thành viên, người lao động thường xuyên trong HTX khoảng
55 triệu đồng/năm, tăng hơn 57% so với thời điểm 31/12/2016 là 35 triệu đồng/năm.
Hiện có trên
200 HTX hoạt động khá hiệu quả theo Luật Hợp tác xã năm 2012, các HTX đã chủ động
đầu tư, thay đổi phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với từng thời
kỳ, gắn với chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm... nên ngày càng có
nhiều mô hình HTX kiểu mới thực hiện liên kết và tiêu thụ với doanh nghiệp từ đầu
vào đến đầu ra theo hợp đồng dịch vụ, gắn với chuỗi giá trị hàng hóa chủ lực của
địa phương, góp phần khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, phù hợp yêu cầu sản
xuất nông nghiệp trong tình hình mới. Công tác phát triển thành viên, huy động
tăng vốn góp để tiếp tục đầu tư mở rộng kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh cũng được các HTX quan tâm vì thế đã nâng cao vai trò của HTX trong phát
triển kinh tế hộ thành viên, tạo việc làm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội tại
địa phương.
1.3. Về
liên hiệp HTX (LH HTX)
Trên địa bàn tỉnh
hiện nay có 02 LHHTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, tổng vốn điều lệ đăng
ký 2.800 triệu đồng (01 LHHTX thành lập năm 2015, vốn điều lệ đăng ký 800 triệu
đồng, với 04 HTX thành viên tham gia; 01 LHHTX thành lập năm 2017, vốn điều lệ
đăng ký 2.000 triệu đồng, với 09 HTX thành viên tham gia). Hoạt động của LHHTX
còn hạn chế, chủ yếu thực hiện việc quảng bá, tìm kiếm thị trường tiêu thụ rau,
củ, quả, thực phẩm an toàn cho các HTX thành viên. Hiện nay một LHHTX đã ngừng
hoạt động (LHHTX sản suất kinh doanh thực phẩm an toàn Lạng Sơn).
Tổng doanh thu
của LHHTX Đông Bắc năm 2020 ước đạt 1.200 triệu đồng, đạt 74% so với mục tiêu kế
hoạch năm 2020; tạo được việc làm cho 03 lao động thường xuyên và 42 lao động
thời vụ (giảm 50% so với thời điểm 31/12/2016 có 90 lao động), thu nhập bình
quân người lao động năm 2020 là 4,5 triệu đồng/người/tháng.
2. Tình hình phát triển KTTT theo ngành, lĩnh vực
2.1. Về
các THT và LHHTX
THT và LHHTX
chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Số THT nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
hiện nay chủ yếu là THT dùng nước, vốn hoạt động chủ yếu là dùng kinh phí hỗ trợ
thủy lợi phí theo quy định. Việc thành lập THT hầu hết mang tính thời vụ, thiếu
ổn định lâu dài, còn mang tính tự phát, hoạt động chủ yếu là học tập, trao đổi
kinh nghiệm sản xuất, chưa thực sự quan tâm đến việc tổ chức sản xuất kinh
doanh theo hợp đồng hợp tác, không theo các quy định của Nhà nước về thành lập
THT nên khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được tình hình hoạt động
của tổ hợp tác trên địa bàn; năng lực quản lý, điều hành của cán bộ quản lý THT
còn rất hạn chế, chưa thuyết phục được tổ viên góp vốn để tổ chức các hoạt động
kinh tế, tạo ra lợi nhuận cho THT, ngoài ra THT là tổ chức đơn giản không có
tính pháp nhân nên khó khăn trong thực hiện liên kết với các tổ chức, pháp nhân
khác trong tổ chức sản xuất.
Toàn tỉnh có
02 LHHTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng chưa hiệu quả, chủ yếu thực
hiện việc quảng bá, tìm kiếm thị trường tiêu thụ rau, củ, quả, thực phẩm an
toàn cho các HTX thành viên. Năm 2016 Liên hiệp HTX sản suất kinh doanh thực phẩm
an toàn Lạng Sơn chưa có doanh thu, năm 2019 thì ngừng hoạt động do không hiệu
quả (chưa giải thể). Hiện nay hoạt động của Liên hiệp HTX Đông Bắc suy giảm,
doanh thu thấp, các mục tiêu kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh đề ra không
đạt do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19.
2.2. Về
các HTX
a) Lĩnh vực
nông, lâm nghiệp, thủy sản
Có 208 HTX,
tăng 124 HTX so với thời điểm 31/12/2016 có 84 HTX, số thành viên HTX ước tính
tại thời điểm 31/12/2020 là 3.300 thành viên, tăng 73% so với thời điểm
31/12/2016 có 1.907 thành viên; các HTX có thuận lợi về tiềm năng lợi thế phát
triển sản phẩm có tính đặc thù của địa phương. Tuy nhiên còn nhiều khó khăn hạn
chế, do ảnh hưởng bất lợi về thời tiết, dịch bệnh, khả năng quản lý điều hành của
cán bộ HTX, sự biến động về giá cả thị trường...
Có một số HTX
tiêu biểu như: HTX thủy sản Lê Hồng Phong - huyện Bắc Sơn với mô hình nuôi cá
trên hồ, đập; HTX Phượng Hoàng - huyện Chi Lăng với mô hình trồng cây ăn quả
theo hướng VietGap; HTX Trấn Ninh - huyện Văn Quan với mô hình trồng lúa
Japonica TBJ3 (Nhật Bản), khoai tây; HTX nông sản sạch Tràng Định với mô hình
liên kết sản xuất lúa bao thai hồng, nếp cái ong vàng... Các HTX này đều thực
hiện tốt các khâu dịch vụ cung ứng giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật chăm
sóc, nuôi trồng cho các thành viên; đã thu được kết quả khá tốt, đảm bảo việc
làm, thu nhập ổn định cho người lao động.
b) Lĩnh vực
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Có 23 HTX,
tăng 13 HTX so với thời điểm 31/12/2016 có 10 HTX, các HTX gặp khá nhiều khó khăn
do thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định. Tuy nhiên một số đơn vị duy trì
hoạt động ổn định, tạo thu nhập cho thành viên, người lao động từ 4 - 7 triệu đồng/người/tháng,
tiêu biểu như: HTX nông lâm số 1 - huyện Bình Gia; HTX chế biến lâm sản 1/5 -
huyện Tràng Định; HTX 27/7 - Bông Lau - huyện Cao Lộc.
c) Lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, vệ sinh môi trường
Có 38 HTX,
tăng 18 HTX so với thời điểm 31/12/2016 có 20 HTX, hoạt động với các ngành nghề
chủ yếu là: dịch vụ bốc xếp vận chuyển hàng hóa; dịch vụ vật tư nông nghiệp;
nhà trọ; dịch vụ bến bãi; vệ sinh môi trường, kinh doanh nhà hàng, quản lý chợ...
Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này duy trì hoạt động khá tốt, chất lượng dịch
vụ tiếp tục được quan tâm, tăng cường đầu tư mở rộng quy mô hoạt động sản xuất
kinh doanh dịch vụ, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho thành viên và người
lao động. Có các đơn vị hoạt động tiêu biểu như: HTX Thành Lộc - huyện Cao Lộc;
HTX Tiến Đạt - huyện Lộc Bình; HTX Xây dựng và Môi trường - huyện Hữu Lũng; các
HTX dịch vụ môi trường tiếp tục được thực hiện dịch vụ thông qua đấu thầu.
d) Lĩnh vực
vận tải
Có 21 HTX,
tăng 09 HTX so với thời điểm 31/12/2016 có 12 HTX, chủ yếu là vận tải hành
khách các tuyến cố định, vận tải hàng hóa, hợp đồng du lịch. Hội đồng Quản trị chủ
yếu thực hiện các dịch vụ cho thành viên về thủ tục giấy tờ xe; hợp đồng mở các
luồng tuyến trong và ngoài tỉnh; khai thác các hợp đồng vận tải; in vé... những
đơn vị hoạt động trong lĩnh vực vận tải chủ yếu gặp khó khăn trong việc cạnh
tranh hành khách với các doanh nghiệp và hộ kinh kinh doanh cá thể, giá cả
nhiên liệu, chất lượng dịch vụ và việc thực hiện các quy định của Bộ Giao thông
vận tải về điều kiện kinh doanh... Tuy nhiên, các đơn vị này vẫn duy trì hoạt động.
e) Lĩnh vực
xây dựng
Có 10 HTX, tăng
02 HTX so với thời điểm 31/12/2016 có 08 HTX, các HTX hoạt động ở lĩnh vực này
có quy mô nhỏ và vừa, chủ yếu thực hiện những công trình dân dụng; cầu cống
liên hợp, làm đường giao thông nông thôn; xây dựng mương máng… vốn đầu tư không
quá lớn.
Giai đoạn
năm 2016 - 2020 các HTX nông nghiệp phát triển nhanh từ 85 HTX lên 208 HTX
(tăng 123 HTX) đã làm thay đổi, cũng như chuyển dịch cơ cấu các lĩnh vực hoạt động
của HTX chủ yếu sang lĩnh vực nông nghiệp (208/300 HTX, chiếm tỷ lệ gần 70%
trong cơ cấu ngành, lĩnh vực), thành viên và người lao động tham gia trong lĩnh
vực nông nghiệp cũng chiếm tỷ lớn (với hơn 4.000 thành viên và người lao động
tham gia trong các HTX).
II. KHUNG KHỔ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI KHU VỰC KTTT, HTX
1. Khung khổ pháp lý
Trên cơ sở Luật
Hợp tác xã năm 2012, Nghị quyết của tỉnh, các chính sách hỗ trợ HTX của Trung
ương, UBND tỉnh đã chủ động rà soát, xây dựng và cụ thể hóa các chính sách cụ
thể để hỗ trợ phát triển KTTT trên địa bàn, như: Quyết định số 18/2013/QĐ-UBND
ngày 31/8/2013 về Quy định mức chi hỗ trợ các sáng lập viên HTX chuẩn bị thành
lập và các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của HTX trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; Quyết
định số 1497/QĐ-UBND ngày 24/8/2015 về phê duyệt Đề án đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả KTTT trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, định hướng đến năm 2025;
Quyết định số 1961/QĐ-UBND ngày 25/11/2014 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát
triển HTX, Quyết định số 02/2017/QĐ-UBND ngày 09/02/2017 về chính sách đặc thù
khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, giai
đoạn 2017 - 2020; hiện nay tỉnh đã rà soát xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù
khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP
ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn (thay thế chính sách quy định tại Nghị quyết số
21/2016/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh) và xây dựng chính sách hỗ trợ liên
kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (theo
Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến
khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp) tại Nghị quyết số 08/2019/NQ-HĐND ngày 10/12/2019 của Hội đồng nhân dân
tỉnh; để triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch
số 20/KH- UBND ngày 30/01/2020.
Thực hiện Quyết
định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số
340/2016/TT-BTC ngày 29/12/2016 của Bộ Tài chính, Kết luận số 104-KL/TU ngày
08/12/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số
128/KH-UBND ngày 13/7/2017 về xây dựng mô hình điểm HTX sản xuất nông nghiệp gắn
với chế biến và tiêu thụ sản phẩm có sự liên kết giữa doanh nghiệp với người sản
xuất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2017 - 2020, Kế hoạch số 57/KH-UBND
ngày 24/3/2018 của UBND tỉnh thực hiện thí điểm mô hình đưa trí thức trẻ tốt
nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở các Hợp tác xã nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2018 - 2020 và để triển khai thực hiện
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 819/QĐ-UBND ngày 03/5/2018 phê duyệt danh
sách HTX nông nghiệp thực hiện thí điểm tại Công văn số 425/UBND-NC ngày
14/5/2018 về việc đưa tri thức trẻ về làm việc có thời hạn tại các HTX năm
2018, Công văn số 360/UBND- KTN ngày 25/4/2019 về việc bổ sung tri thức trẻ về
làm việc có thời hạn tại các HTX năm 2019.
2. Tình hình triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTX
2.1.
Chính sách bồi dưỡng nguồn nhân lực
Công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã được tỉnh quan tâm thường xuyên; giai đoạn 2016 -
2020 có khoảng 3.070 lượt cán bộ, thành viên HTX được hỗ trợ tập huấn, bồi dưỡng
với tổng kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước khoảng 3.880 triệu đồng, trong
đó: nguồn vốn NSTW (vốn sự nghiệp Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới) là
1.630 triệu đồng; nguồn vốn khác NSĐP là 2.250 triệu đồng; số lượt người được
tham gia đào tạo và bồi dưỡng tăng dần qua các năm.
Nội dung đào tạo,
bồi dưỡng khá đa dạng, đáp ứng được một phần yêu cầu tổ chức, quản lý và hoạt động
sản xuất kinh doanh của HTX, được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế của
địa phương như: hướng dẫn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về HTX, các
Luật liên quan, các vấn đề về tài chính, kế toán, tổ chức quản lý HTX, hướng dẫn
xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh... Các giảng viên được mời từ
nhiều nguồn khác nhau tùy theo đối tượng và nội dung bồi dưỡng. Hình thức đào tạo,
bồi dưỡng tập trung vào tổ chức tập huấn, bồi dưỡng dài ngày cấp chứng chỉ, đến
các hội thảo, hội nghị, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, học tập kết hợp thăm quan
mô hình, điển hình thực tế… Phương pháp tập huấn linh hoạt, lý luận đi đôi với
thực tiễn, gắn thực hành, hướng dẫn trực quan, cầm tay chỉ việc để đem lại hiệu
quả cao nhất.
Từ năm
2016-2020, số cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở
hợp tác xã là 23 người, với tổng kinh phí hỗ trợ là 682,36 triệu đồng. Tuy
nhiên, do kinh phí hỗ trợ thấp nên không thu hút được cán bộ trẻ về công tác tại
các HTX, do đó năm 2020 dự kiến tiếp nhận 10 người nhưng chỉ có 05 người tham
gia tại 05 HTX.
2.2.
Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Hằng năm hỗ trợ
cho 08 - 15 HTX tham gia các hội chợ trong nước, giới thiệu sản phẩm của HTX,
chủ yếu là kinh phí để thuê gian hàng, kinh phí xây dựng nhãn hiệu hàng hóa,
thương hiệu sản phẩm, tham dự chương trình “Thương hiệu vàng nông nghiệp Việt
Nam” sản phẩm chủ lực của tỉnh như: Hồng Vành khuyên Văn Lãng, Thạch đen Tràng
Định, Quýt vàng Bắc Sơn, Quả Na Chi Lăng, Bún ngô Đình Lập..... tham gia Hội chợ
về nông nghiệp giới thiệu sản phẩm nông lâm sản đặc sản của tỉnh góp phần nâng
cao thương hiệu, đưa sản phẩm của tỉnh gần hơn với người tiêu dùng trong cả nước
với kinh phí 465 triệu đồng. Đây cũng là cơ hội để các HTX giới thiệu sản phẩm,
giao lưu tìm hiểu thị trường, góp phần mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh.
2.3.
Chính sách hỗ trợ về ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Công tác hỗ trợ
xây dựng mô hình HTX liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm và xây dựng mô hình hợp
tác xã kiểu mới được triển khai hiệu quả góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, từng bước thay đổi tập quán sản xuất truyền thống góp phần nâng cao
hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường, gắn với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng nông thôn mới. Giai đoạn 2016 - 2020 xây dựng 30 mô hình gắn với liên kết
sản xuất, bao tiêu sản phẩm chủ lực tại 30 HTX và 02 THT; 01 trang trại trên địa
bàn tỉnh với hơn 8,8 tỷ đồng; xây dựng 01 dự án khuyến công, số tiền được hỗ trợ
120 triệu đồng.
2.4.
Chính sách tiếp cận vốn và Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã
Hằng năm tỉnh
đều bố trí ngân sách từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm (GQVL) để cho các HTX
vay vốn, đến nay đã có 50 lượt HTX được vay với số tiền trên 10.100 triệu đồng.
Đối với Quỹ hỗ
trợ phát triển HTX của tỉnh, tổng vốn điều lệ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX tỉnh từ
khi thành lập đến nay được ngân sách nhà nước cấp 7,5 tỷ đồng, đã hỗ trợ vốn
vay 6,3 tỷ đồng (đạt 84%).
2.5.
Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện tham gia các chương
trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Những năm qua,
tỉnh đã tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển. Quyết định
02/2017/QĐ-UBND ngày 09/02/2017 của UBND tỉnh về chính sách đặc thù khuyến
khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2017-2020 theo đó các doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh được hưởng ưu đãi đầu
tư. Các khu công nghiệp được đầu tư xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho các
HTX và doanh nghiệp có mặt bằng xây dựng nhà xưởng sản xuất, nhưng chưa có HTX
nào đầu tư vào các khu công nghiệp của tỉnh.
Về hỗ trợ đầu
tư cơ sở hạ tầng: có 01 đơn vị được hỗ trợ 300 triệu đồng để đầu tư cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Chính quyền địa
phương các cấp vẫn luôn ưu tiên và tạo điều kiện cho các HTX tham gia các
chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
để giúp các hộ nông dân và người lao động tại địa phương ổn định việc làm, nâng
cao thu nhập cho bản thân và gia đình.
2.6.
Chính sách đất đai
Sau khi Luật Đất
đai năm 2013, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành
được ban hành, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản, chính sách nhằm đẩy mạnh công
tác đo đạc, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức; đã thực
hiện công tác quản lý đất đai và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân được
giao đất, cho thuê đất, sử dụng đất hiệu quả hơn trong sản xuất kinh doanh, đồng
thời chỉ đạo các huyện, thành phố chú ý công tác quy hoạch, tạo quỹ đất để HTX
được giao đất, cho thuê đất xây dựng trụ sở, xưởng chế biến, nhà kho, sân phơi,
đất sản xuất, đất trồng rừng. Đặc biệt, Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung quy định
về điều kiện được giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án có sử dụng đất
trồng lúa, đất có rừng, dự án đầu tư tại khu vực biên giới, ven biển và hải đảo.
2.7. Về
chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định
của pháp luật về thuế
Để phát triển,
nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi thuế
đối với HTX, đặc biệt là đối với các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với
các lĩnh vực, địa bàn được ưu đãi thuế; tập trung ở các sắc thuế: thuế thu nhập
doanh nghiệp; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
thuế sử dụng đất nông nghiệp...
HTX, ngoài việc
giảm thuế suất phổ thông thuế thu nhập doanh nghiệp xuống mức 20% thì được hưởng
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (miễn thuế, giảm thuế, áp dụng thuế suất 10%,
15%). Đối với sản phẩm nông nghiệp của HTX khi xuất khẩu được áp dụng thuế suất
0%. Các sản phẩm trồng trọt chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ
qua sơ chế thông thường bán ra thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, ở khâu
kinh doanh thương mại áp dụng thuế suất GTGT 5% (mức thuế suất thông thường là
10%). HTX cũng được ưu đãi, miễn, giảm lệ phí trước bạ khi sử dụng đất nông
nghiệp, miễn lệ phí môn bài khi hoạt động dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản
xuất nông nghiệp hoặc khi HTX kinh doanh tại địa bàn miền núi… Ngoài ra, các
HTX cũng được hưởng ưu đãi về thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp và
phi nông nghiệp như doanh nghiệp.
3. Công tác quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX
Ủy ban nhân
dân tỉnh đã cụ thể hóa các Nghị quyết, Đề án của Trung ương và của Tỉnh ủy về
phát triển kinh tế tập thể thành quy hoạch, kế hoạch, chính sách để thực hiện
phát triển kinh tế tập thể như: chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đầu tư
xây dựng các công trình giao thông thủy lợi; quy hoạch các khu, cụm công nghiệp;
ban hành các chính sách hút đầu tư phát triển công nghiệp, khuyến khích phát
triển nông nghiệp, tín dụng, thương mại, thu hút lao động có tay nghề, trình độ,
cán bộ có năng lực vào làm việc trong các tổ chức kinh tế tập thể.
Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các Nghị quyết, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể bằng nhiều hình thức; tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã tham gia các chương trình xây dựng nông
thôn mới và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Tỉnh Lạng Sơn
đã kiện toàn Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể tại Quyết định số 2420/QĐ-UBND ngày 28/11/2018, bao gồm 18
thành viên. trong đó: Trưởng Ban chỉ đạo là một Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Giám đốc
Sở Kế hoạch và Đầu tư là Phó Trưởng Ban thường trực, Giám đốc các Sở Tài chính,
Nông nghiệp và PTNT, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh là Phó Trưởng ban, 15 sở,
ban, ngành, đoàn thể khác là thanh viên. Ban chỉ đạo hoạt động theo Quyết định
số 05/QĐ-BCĐ ngày 10/01/2020 của Ban chỉ đạo.
Hằng năm, Ban
Đổi mới và phát triển KTTT của tỉnh đã xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra ở
cấp huyện và cơ sở nhằm đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành và kết quả củng cố,
phát triển KTTT ở các địa phương. Đồng thời, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị
có liên quan thường xuyên tổng hợp, theo dõi kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh;
đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển KTTT có hiệu quả như: chính sách
hỗ trợ về đất đai, khuyến công, khuyến nông, xây dựng nông thôn mới, nguồn vốn
cho các HTX sản xuất kinh doanh,… Thực hiện các mô hình thí điểm và nhân rộng
các mô hình HTX phát triển có hiệu quả.
Các sở, ngành,
Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch,
chương trình, chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với hợp tác xã, củng cố, kiện toàn
bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể; thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật của hợp tác xã, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo
quy định của pháp luật. Thực hiện giải quyết kịp thời những vướng mắc trong việc
thực hiện các chính sách về hoạt động và đầu tư của các hợp tác xã. Thực hiện
phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên Mặt trận tổ chức thi
hành pháp luật về hợp tác xã, tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng
và phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; phối hợp trong việc triển khai
các chương trình, dự án phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tham gia
xây dựng chính sách và giám sát thi hành pháp luật về hợp tác xã.
Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai thực hiện, vẫn còn bộc lộ một số tồn tại trong công
tác quản lý nhà nước về KTTT như: một số cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự
quan tâm đến HTX, không thường xuyên kiểm tra, uốn nắn việc tổ chức thực hiện
các chương trình, kế hoạch đã ban hành; chậm xử lý những tồn tại, vướng mắc của
HTX chuyển đổi; những khó khăn, vi phạm đến lợi ích hợp pháp của HTX chậm được
khắc phục, còn có tư tưởng ỷ lại vào cơ quan quản lý cấp trên.
4. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Liên minh Hợp tác xã và các tổ chức
chính trị - xã hội đối với phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
Thời gian qua,
tỉnh luôn tạo điều kiện để Liên minh Hợp tác xã tỉnh hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ quy định tại Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh
Hợp tác xã tỉnh. Từng bước nâng cao vai trò, trách nhiệm của đơn vị trong phát
triển KTTT tỉnh. Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh với tư cách là Phó Ban Chỉ đạo
phát triển KTTT tỉnh đã tích cực, chủ động tham mưu cho Ban Chỉ đạo về công tác
lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển KTTT của tỉnh.
Phối hợp các ngành, các huyện, thành phố tham mưu với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh
ban hành, triển khai nhiều cơ chế, chính sách góp phần hỗ trợ KTTT của tỉnh
phát triển; tiếp nhận, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của HTX trong quá
trình hoạt động cũng như sản xuất, kinh doanh nhằm giúp các HTX hoạt động đúng
quy định của Luật Hợp tác xã, đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX;
phát huy tốt chức năng nhiệm vụ là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho các thành viên, HTX. Các hoạt động tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ phát
triển HTX được quan tâm, thực hiện hiệu quả.
Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc tỉnh và các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh đã tích cực vận động
đoàn viên, hội viên tham gia phát triển KTTT, tạo điều kiện cho đoàn viên, hội
viên tham gia phát triển KTTT trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn, tham gia
vào nhiều hoạt động hỗ trợ, cung cấp dịch vụ, tư vấn cho KTTT phát triển, giới
thiệu những mô hình KTTT hiệu quả, điển hình, lồng ghép các chương trình để
tuyên truyền các chính sách về HTX. Hằng năm phối hợp các sở, ban, ngành, Liên
minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho đoàn viên, hội
viên.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KTTT, HTX
1. Thành tựu, vị trí, vai trò của KTTT trong phát triển kinh tế - xã
hội
Kinh tế tập thể
tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước ổn định và phát triển nhanh về
số lượng với nhiều hình thức, trình độ, quy mô khác nhau đóng góp quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh, đảm bảo an ninh lương thực,
an ninh trật tự, giải quyết việc làm cho lao động, tăng thu nhập cho thành
viên, tổ viên và người lao động góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh. Các HTX nông nghiệp đã phát huy
được vai trò tập hợp, vận động, thay đổi cách nghĩ, cách làm cho bà con nông
dân, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất; đầu tư
trang thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh; đồng thời tham gia các
hoạt động xã hội trên địa bàn dân cư, xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, giải
quyết nhu cầu, lợi ích chính đáng, nâng cao đời sống của thành viên và người
lao động, số lượng HTX hoạt động hiệu quả tăng dần qua từng năm. Bên cạnh đó,
có không ít HTX nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường, tạo sự liên kết,
hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, sự liên kết sản xuất
giữa HTX - doanh nghiệp, HTX - THT, HTX - người dân từ các khâu sản xuất, thu
hoạch, chế biến, bảo quản đến tiêu thụ sản phẩm do đó chuyển biến dần từ sản xuất
kinh doanh nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa theo nhu cầu thị trường cho thành
viên, góp phần làm thay đổi căn bản đời sống của người dân và mang lại hiệu quả
kinh tế, bộ mặt nông thôn trong xây dựng nông thôn mới.
2. Tồn tại, hạn chế
Sự lãnh đạo,
chỉ đạo của một số cấp, ngành đối với KTTT còn thực hiện chiếu lệ, hình thức,
chưa quan tâm đúng mức tới phong trào KTTT. Năng lực nội tại của các tổ chức
KTTT còn yếu, điều kiện triển khai các hoạt động, đặc biệt là về mặt bằng, vốn,
cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các HTX yếu; số HTX làm ăn có hiệu quả
còn ít, nhiều THT, HTX còn lúng túng, thiếu định hướng hoạt động rõ ràng, lợi
ích đem lại cho thành viên chưa nhiều, chưa đáp ứng được các nhu cầu của xã
viên, thành viên, nên một bộ phận xã viên thiếu gắn bó với HTX; đội ngũ cán bộ
quản lý HTX còn nhiều yếu kém, thiếu kỹ năng quản lý và kinh doanh, chưa biết
khai thác các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước, còn ỷ lại vào xã viên,
nên hiệu quả hoạt động của một số HTX không cao.
Việc huy động
được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để đẩy mạnh phát triển khu vực
KTTT, HTX còn hạn chế, nguồn vốn ngân sách của cả Trung ương và tỉnh không nhiều,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng,
các doanh nghiệp và người dân gặp khó khăn, do mô hình phát triển HTX chưa thực
sự hấp dẫn, chưa khẳng định được lợi ích khi bỏ vốn đầu tư.
Việc cụ thể
hóa, ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển về HTX còn
chậm, thiếu đồng bộ; thủ tục hỗ trợ rườm rà và thiếu nguồn lực để thực hiện
(nguồn vốn hỗ trợ HTX không được bố trí thành dòng vốn riêng mà chủ yếu kết hợp
từ các chương trình khác, thiếu vốn để thực hiện các mục tiêu).
Bộ máy và năng
lực cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước ở một số nơi còn thiếu và yếu, chưa
đáp ứng yêu cầu, còn lúng túng, thiếu định hướng. Việc tổ chức chỉ đạo, thi
hành Luật HTX và một số chính sách đã ban hành chưa kịp thời. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu; việc nâng cao trình độ khoa
học và công nghệ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho HTX,... có nơi, có lúc còn
buông lỏng.
Các sở, ban,
ngành tỉnh mặc dù đã có nhiều hoạt động tích cực chỉ đạo và hướng dẫn các huyện,
thành phố thực hiện tốt các mặt công tác như cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho HTX, xây dựng kế hoạch phát triển KTTT theo hướng dẫn của Trung ương
và của tỉnh nhưng chưa được thường xuyên, liên tục. Một số ngành chưa thể hiện
rõ vai trò quản lý nhà nước đối với KTTT; đầu mối quản lý nhà nước đối với KTTT
ở một số huyện còn hạn chế, việc quản lý hồ sơ đăng ký kinh doanh chưa tốt, gây
khó khăn trong công tác chỉ đạo và kiểm tra.
3. Nguyên nhân
- Công tác
tham mưu ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển về HTX
của tỉnh chưa kịp thời, thiếu tính đồng bộ. Thủ tục để tiếp cận các chính sách
còn rườm rà, thiếu nguồn lực về tài chính và con người để hỗ trợ hợp tác xã.
Kinh phí đầu tư cho công tác tuyên truyền, công tác chuyên môn còn hạn chế, chủ
yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước, chưa khai thác được các nguồn kinh phí
khác.
- Các cấp, các
ngành của tỉnh triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã chưa hiệu quả, quyết liệt.
Việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ đến các HTX chưa kịp thời, một
số địa phương chưa chú trọng phát triển HTX ở những giai đoạn đầu thực hiện Luật
Hợp tác xã năm 2012. Nhiều cấp uỷ, chính quyền chưa đề cao ý thức trách nhiệm,
chưa xác định phát triển kinh tế tập thể là một nhiệm vụ trọng tâm và thường
xuyên, vì thế trong chỉ đạo chưa quan tâm đến HTX. Nhiều cấp uỷ đã có chương
trình hành động, nhưng thiếu kiểm tra đôn đốc thường xuyên, hằng năm chưa đưa nội
dung phát triển kinh tế tập thể vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác quản
lý kinh tế tập thể ở các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện vẫn chưa có bộ phận quản
lý trực tiếp, mới chỉ dừng lại ở mức kiêm nhiệm. Do vậy tình hình phát triển
kinh tế tập thể không được theo dõi, tổng kết đánh giá thường xuyên. Sự phối hợp
giữa các cơ quan, tổ chức liên quan còn thiếu tính đồng bộ và chưa thật sự chặt
chẽ. Các thành viên Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể tỉnh là
lãnh đạo của các sở, ban, ngành, địa phương kiêm nhiệm, nên thời gian dành cho
công tác quản lý lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX chưa được đầu tư, quan tâm đúng
mức, chưa phát huy được hết vai trò, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của từng
thành viên Ban chỉ đạo và cán bộ phụ trách.
- Khả năng quản
trị, chất lượng lực lượng lao động của các hợp tác xã còn yếu. Điều này, đã gây
ra lực cản đối với sự phát triển của hợp tác xã trong việc tìm kiếm thị trường
đầu ra, đầu vào và làm giảm khả năng cạnh tranh của hợp tác xã; tâm lý ỷ lại, dựa
dẫm, hoặc trông chờ hỗ trợ của nhà nước của các thành viên hợp tác xã vẫn còn
phổ biến.
4. Bài học kinh nghiệm
Kinh tế hợp
tác, hợp tác xã chỉ phát triển sản xuất kinh doanh khi có nhu cầu, người lao động
tự nguyện; tham gia hợp tác, hợp tác xã phải góp vốn, góp sức để giải quyết những
vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh mà bản thân mỗi người không làm được hoặc có
làm được nhưng hiệu quả không cao, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và quản
lý dân chủ. Chỉ ở đâu và khi nào quần chúng nhận thức được sự cần thiết phải hợp
tác lại với nhau tạo thêm sức mạnh để phát triển sản xuất kinh doanh và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình thì nơi ấy và khi đó sẽ nảy sinh nhu cầu hợp tác
và tự giác hình thành kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
Phát triển HTX
cần có sự tham gia đồng bộ từ các cấp chính quyền, đoàn thể, sự ủng hộ, đồng
thuận của người dân. Đội ngũ thực hiện nhiệm vụ về phát triển HTX là người hiểu
rõ về bản chất, mô hình HTX, hiểu rõ đặc điểm, thế mạnh, hạn chế của HTX để có
những tham mưu, đề xuất các chính sách phù hợp. Công tác tuyên truyền về HTX cần
đa dạng về hình thức, phương pháp tuyên truyền vận động, phù hợp với đặc điểm,
nhu cầu và trình độ, nhận thức của người được tuyên truyền, vận động. Quá trình
ổn định và phát triển của HTX luôn cần sự đồng hành, hỗ trợ của các cấp chính
quyền, sự tham gia của các chính sách Nhà nước
Bản thân hợp
tác xã phải vươn lên từ nội lực của chính mình, phải không ngừng đổi mới, phát huy
tốt sức mạnh của mỗi thành viên với sức mạnh của tập thể để vượt qua những khó
khăn, thách thức của nền kinh tế thị trường. Nâng cao chất lượng và năng lực cạnh
tranh của các HTX để tăng tiềm lực tài chính, qui mô hoạt động và uy tín của
HTX. Việc xây dựng mô hình HTX phát triển đủ mạnh, có tiềm lực và năng lực cạnh
tranh chính là cơ sở nâng cao vai trò, vị trí của HTX, là một hình thức tuyên
truyền hiệu quả nhất về mô hình HTX cho nhân dân, thu hút các doanh nghiệp tham
gia, hợp tác với HTX
Vai trò lãnh đạo
của Đảng, sự hỗ trợ của chính quyền địa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng để
thúc đẩy kinh tế hợp tác, hợp tác xã ngày càng phát triển trong điều kiện nền
kinh tế thị trường. Thực tế trong những năm qua cho thấy bản thân hợp tác xã
phát triển theo quy luật khách quan của nó, nhưng ở nơi nào cấp uỷ, chính quyền
địa phương có nhận thức đầy đủ, quan tâm chỉ đạo sâu sát thì nơi đó phong trào
kinh tế hợp tác và hợp tác xã được củng cố và phát triển mạnh hơn, góp phần
quan trọng vào giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
I. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
1. Tình hình quốc tế
Xu thế và nhu
cầu sản phẩm hàng hóa an toàn, chất lượng ngày càng cao, đặc biệt là các hàng
nông sản, sản phẩm phụ trợ, là những yếu tố tích cực để hình thành các hợp tác
xã kiểu mới, hợp tác xã nông nghiệp.
Trong bối cảnh
Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu, rộng vào tiến trình toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, đang mở ra nhiều cơ hội lớn nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức (sự cạnh tranh gay gắt, chất lượng nguồn nhân lực,…) đối với
việc phát triển hợp tác xã.
Hiện nay, cuộc
cánh mạng công nghệ 4.0, thương mại điện tử được xem như một trong những giải
pháp hiệu quả, bền vững để các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng
thị trường cũng như tham gia sâu vào các hoạt động kinh tế thế giới.
2. Tình hình đất nước
Trong thời
gian tới, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển ổn định và bền vững; mức sống
của người dân ngày một nâng cao, nhu cầu sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng,
an ninh lương thực ngày càng phát triển... là điều kiện thuận lợi để kinh tế tập
thể phát triển.
Phát triển
kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã đang là chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước, nên cả hệ thống chính trị rất quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện để
thực hiện thành công chủ trương này.
Chính phủ quan
tâm chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn để phát triển kinh tế tập thể, trong đó ban
hành nhiều chính sách và nguồn lực để hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Nhận thức của
xã hội về hợp tác xã kiểu mới bước đầu có sự thay đổi, do đó những năm gần đây
số hợp tác xã được thành lập mới, số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả ngày càng
tăng.
3. Cơ hội và thách thức đối với khu vực KTTT, HTX
3.1. Cơ
hội
Tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến với bước đi khá vững chắc và đạt
được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, mở rộng mối quan hệ với hàng loạt quốc
gia và khu vực về kinh tế, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương
mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế, kinh tế tập thể
của nước ta hội nhập với quốc tế nhanh và hiệu quả hơn về các sản phẩm chủ lực
của hợp tác xã tiếp cận vào thị trường thế giới.
Các hợp tác xã
có nhiều cơ hội để tham gia các chương trình, dự án hợp tác quốc tế, đẩy mạnh
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa theo tiêu chuẩn VietGAP, Global GAP…. đủ
điều kiện tiêu chuẩn xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm bên cạnh
nhu cầu sử dụng các sản phẩm sạch.
3.2.
Thách thức
Bên cạnh cơ hội,
thì thách thức chính là sản phẩm hàng hóa an toàn, chất lượng đòi hỏi càng cao
trong đó có sản phẩm nông nghiệp.
Biến đổi khí hậu
ngày càng rõ nét, phức tạp và khó lường gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của hợp tác xã. Giá cả nguyên vật liệu đầu vào biến động, thị trường
không ổn định do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 toàn cầu; Những yếu kém vốn có
của kinh tế tập thể chưa được khắc phục như quy mô nhỏ bé, manh mún, khó tiếp cận
với các nguồn vốn tín dụng, thiếu vốn hoạt động, hiệu quả kinh doanh thấp;
trình độ năng lực của đa số cán bộ quản lý HTX chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa
được đào tạo về cơ bản, thiếu tính nhạy bén và năng động trong tổ chức điều
hành sản xuất kinh doanh. Các HTX trên địa bàn tỉnh hầu hết chưa có trụ sở làm
việc, công cụ sản xuất thô sơ; thu nhập còn thấp so với thu nhập của lao động ở
các thành phần kinh tế khác nên việc thu hút cán bộ có năng lực về làm việc tại
khu vực này rất khó khăn.
Bên cạnh hội
nhập quốc tế thì các sản phẩm của các nước cũng sẽ có nhiều lợi thế để vào thị
trường trong nước, mức độ cạnh tranh ngày càng cao, đảm bảo về vệ sinh an toàn
thực phẩm đây là thách thức rất lớn đối với các tổ chức sản xuất các sản phẩm
nông nghiệp đặc biệt là các hợp tác xã nông nghiệp.
4. Dự báo xu hướng phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025
Trong bối cảnh
cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, khu vực KTTT, HTX có nhiều
cơ hội phát triển, song cũng đối diện với nhiều thách thức đòi hỏi Nhà nước,
cũng như cộng đồng HTX phải có một tư duy mới, cách nhìn mới và có các giải
pháp nhằm phát triển HTX một cách bền vững.
Trong những
năm tới, yêu cầu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chất lượng, an toàn, đặc biệt là
nông sản, thực phẩm là một xu hướng tất yếu, đòi hỏi các HTX phải hợp tác, liên
kết sản xuất, làm tốt công tác xúc tiến thương mại, nắm tốt thông tin để phát
triển thị trường, đẩy mạnh thực hiện liên kết ngang giữa những người sản xuất với
hợp tác xã và liên kết dọc với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị sản phẩm, đặc biệt
là sản phẩm xuất khẩu. Trong liên kết phải lựa chọn các HTX có tính tương đồng
trong tổ chức sản xuất cùng một loại sản phẩm hoặc HTX cung ứng những sản phẩm,
dịch vụ nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất của thành viên. Xu hướng liên kết
sản xuất theo chuỗi chính là xu hướng mới trong tổ chức sản xuất quy mô lớn, hiện
đại mà cả nước và thế giới đang thực hiện.
Việc lựa chọn
mô hình hợp tác, liên kết trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo
chuỗi giá trị, nhất là các mô hình hợp tác xã kiểu mới, tiên tiến đang là xu thế
phát triển hợp tác xã trong thời gian tới.
Sản phẩm hàng
hóa chưa phong phú, chất lượng chưa được nâng cao, sức cạnh tranh trên thị trường
thấp sẽ không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường khoa học công nghệ phát
triển như vũ bão. Do đó, trong giai đoạn 2021-2025 bên cạnh việc phát triển mở
rộng các hình thức tổ chức KTTT, việc mở rộng quy mô và tăng cường liên kết với
các thành phần, tổ chức kinh tế khác của các tổ chức KTTT là rất quan trọng, cần
được tập trung thực hiện để tổ chức KTTT không chỉ là cơ sở để hỗ trợ thành
viên của mình mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế- xã hội của địa phương,
khu vực.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1. Xác định vai
trò của KTTT, HTX là xu hướng tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội địa
phương, đặc biệt là đối với cư dân nông nghiệp, nông thôn; là phương thức để
thúc đẩy sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm hàng hóa quy mô lớn đảm bảo chất
lượng, an toàn dịch bệnh và môi trường, góp phần thực hiện thành công tái cơ cấu
ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn của tỉnh.
2. Tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tăng cường
đầu tư của nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến cho kinh tế tập thể, trong đó hợp tác xã nông nghiệp là nòng cốt.
3. Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với phát triển KTTT, HTX; thống
nhất quan điểm phát triển HTX là nhiệm vụ chính trị quan trọng trước mắt cũng
như lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trên địa bàn của tỉnh; tập
trung huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước tham gia thúc đẩy phát triển
KTTT, HTX.
III. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu
tổng quát
Phát triển
kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã nhanh và bền vững, góp phần xây dựng
xã hội hợp tác, đoàn kết, cùng chia sẻ sự thịnh vượng và quản lý một cách dân
chủ, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc
biệt là đối với nông nghiệp và nông thôn.
Xây dựng và
phát triển kinh tế tập thể phải gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới và
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phấn đấu đưa
kinh tế tập thể thực sự là một trong các thành phần kinh tế quan trọng của nền
kinh tế quốc dân, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở và đóng góp
vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
2. Mục tiêu
cụ thể đến năm 2025
- Hằng năm,
đóng góp vào GRDP của các hợp tác xã và tổ hợp tác ước đạt 1% -2% GRDP toàn tỉnh.
- Số lượng HTX
thành lập mới bình quân hằng năm từ 40- 45 HTX và 80-100 THT.
- Tốc độ tăng
doanh thu bình quân hằng năm đạt 10% -15%; phấn đấu đến năm 2025 doanh thu bình
quân HTX 1.000 - 1.500 triệu đồng/HTX/năm, bình quân 1 tổ hợp tác đạt 500 triệu
đồng/năm.
- Thu nhập
bình quân của người lao động thường xuyên trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã, tổ hợp tác: 50-70 triệu đồng/năm.
- Có ít nhất
60% đội ngũ cán bộ chủ chốt các HTX được đào tạo về chuyên môn, 100% cán bộ chủ
chốt HTX được bồi dưỡng bổ sung các kiến thức về HTX, quản trị kinh doanh và
pháp luật có liên quan.
IV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KTTT GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
1. Định hướng chung
- Phát triển
kinh tế tập thể phải gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quy hoạch
vùng sản xuất và gắn với công nghiệp chế biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo
vệ tài nguyên, môi trường và an sinh xã hội của địa phương phù hợp với tiến
trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực, xây dựng nông thôn mới.
- Phát triển
kinh tế tập thể phải đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi;
phù hợp với điều kiện, tập quán cụ thể từng vùng, từng địa phương.
- Tạo mọi điều
kiện để hợp tác xã tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn lực của địa phương để
phát triển hợp tác xã, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn; chú trọng
quy hoạch vùng để phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, các sản phẩm chế
biến công nghệ cao, chế biến sâu, là sản phẩm chủ lực, OCOP, VietGAP,
GlobalGAP, .... của tỉnh, sản xuất theo chuỗi giá trị.
- Phát triển
kinh tế tập thể không chỉ chú trọng hiệu quả về mặt kinh tế mà phải chú trọng
hiệu quả về mặt chính trị, đạo đức xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh; nâng
cao hiệu quả đóng góp của khu vực kinh tế tập thể vào tăng trưởng kinh tế, xóa
đói giảm nghèo một cách bền vững.
2. Định hướng phát triển kinh tế tập thể theo ngành, lĩnh vực chủ yếu
2.1. Trong
lĩnh vực nông nghiệp
Tập trung nguồn
lực đầu tư phát triển các hình thức kinh tế tập thể, HTX theo hướng sản xuất
chuỗi giá trị; đẩy mạnh việc thành lập mới các HTX tại các vùng sản xuất trọng
điểm, các ngành hàng chủ lực tại vùng sản xuất hàng hóa, các xã nông thôn mới
và các địa phương có sản phẩm OCOP; xây dựng mô hình HTX hoạt động hiệu quả,
liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nhằm mục tiêu tạo việc
làm và nâng cao thu nhập cho các thành viên HTX của các địa phương.
Thu hút doanh
nghiệp đầu tư, liên kết với các HTX; trong đó ưu tiên phát triển đầu tư khoa học
công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực chế biến, bảo quản nông, lâm thuỷ sản.
Ban hành các cơ
chế, chính sách đặc thù hỗ trợ cho các doanh nghiệp, HTX; ưu tiên các mối liên
kết theo chuỗi giá trị; xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu gắn với chuỗi
liên kết sản xuất và xây dựng chỉ dẫn địa lý, nhãn mác, thương hiệu sản phẩm.
Nâng cao năng
lực quản lý nhà nước đối với cán bộ làm công tác KTTT, HTX các cấp; đồng thời tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các HTX, đào tạo nghề nông nghiệp
cho các thành viên HTX và nông dân tham gia liên kết sản xuất.
Xây dựng và
nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới, mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu
thụ sản phẩm trong nông nghiệp, nông thôn.
2.2. Trong
lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Tiếp tục củng
cố, nâng cao hiệu quả và mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động của các HTX hiện có,
phát triển các HTX mới cung cấp dịch vụ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp.
Gắn kết HTX với
các chương trình khuyến công, hiện đại hóa công nghiệp nông thôn, làm hạt nhân
phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, tạo tiền đề cho phát triển công
nghiệp tại địa phương. Khuyến khích, hỗ trợ các HTX áp dụng khoa học, kỹ thuật
tiên tiến phục vụ cho quá trình sản xuất.
Phát triển các
HTX làm đầu mối cung cấp đầu vào, dịch vụ, sản phẩm cho các doanh nghiệp công
nghiệp quy mô lớn và phân phối các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp này. Khuyến
khích các HTX hình thành liên kết tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
2.3. Trong
lĩnh vực xây dựng
Vận động phát
triển HTX xây dựng và kinh doanh tổng hợp, vừa xây dựng, vừa khai thác, sản xuất
kinh doanh vật liệu xây dựng, có năng lực đảm nhận các công trình xây dựng quy
mô vừa và nhỏ, tham gia các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng của địa
phương. Khuyến khích các HTX đẩy mạnh liên kết giữa các HTX và các doanh nghiệp
trong ngành xây dựng có năng lực hoạt động cao, đủ sức cạnh tranh để có thể thực
hiện các dự án có quy mô lớn và chất lượng cao.
Hỗ trợ các HTX
nâng cao năng lực cho cán bộ kỹ thuật; đầu tư trang thiết bị để đáp ứng điều kiện
quy định của pháp luật khi tham gia xây dựng các công trình lớn.
2.4. Trong
lĩnh vực vận tải
Củng cố và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX, cung cấp các dịch vụ cần thiết cho các
thành viên hoạt động kinh doanh vận tải. Phát triển các HTX cung cấp dịch vụ
giao thông, vận tải đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, cư dân địa phương.
Phát triển các HTX cung cấp dịch vụ bến bãi, bến xe, liên kết với các HTX,
doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn.
2.5. Trong
lĩnh vực thương mại- dịch vụ
Củng cố phát
triển các HTX thương mại, dịch vụ ở thành phố, nông thôn phục vụ nhu cầu đời sống
đa dạng của thành viên và người dân địa phương. Phát triển các hình thức tổ chức
liên kết kinh tế thích hợp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ của các HTX có thế
mạnh tại địa phương và giữa các HTX với các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần
kinh tế khác nhau.
Tích cực triển
khai chuyển đổi mô hình quản lý chợ sang hợp tác xã quản lý, khai thác chợ;
phát triển các HTX kinh doanh chợ ở những nơi có điều kiện; phát triển các HTX
siêu thị và mạng lưới siêu thị HTX với phương thức hoạt động văn minh, tiên tiến,
mang lại lợi ích cho thành viên và cộng đồng địa phương.
Tập trung củng
cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX hiện có, phát triển mạnh HTX hoạt động
trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ ở địa bàn nông thôn, vùng sâu vùng xa theo
hướng đa chức năng, đa ngành nghề (tập trung chính ở những địa bàn có sản xuất
hàng hóa nông sản tập trung).
Tăng cường lồng
ghép triển khai Chương trình xúc tiến thương mại các nội dung hỗ trợ cho các
THT, HTX; tổ chức liên kết giữa các HTX thương mại, dịch vụ với HTX nông nghiệp
theo hướng sản xuất nông nghiệp phục vụ cho tiêu dùng và cho ngành du lịch, dịch
vụ và ngược lại, các HTX thương mại đóng vai trò chủ chốt trong liên kết tiêu
thụ sản phẩm cho nông dân
2.6. Trong
lĩnh vực khác
Tiếp tục củng
cố và phát triển HTX trong các ngành, lĩnh vực nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
cộng đồng dân cư. Chú trọng từng bước phát triển mới các HTX trong các ngành và
lĩnh vực như HTX vệ sinh môi trường, HTX dịch vụ đời sống, HTX y tế, HTX trường
học, HTX dịch vụ nhà ở,...
V. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHỦ YẾU
1. Về tuyên truyền nâng cao nhận thức về KTTT, HTX
Đẩy mạnh công
tác quán triệt, tuyên truyền các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTT trong toàn hệ thống chính
trị, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân
dân nhằm nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của KTTT trong nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế; tăng cường việc tổng kết, nhân rộng các mô hình KTTT
làm ăn có hiệu quả; phổ biến các mô hình HTX kiểu mới.
Đổi mới công
tác tuyên truyền, thông qua việc mời các chuyên gia có kinh nghiệm, các cán bộ
HTX hoạt động có hiệu quả để trao đổi kinh nghiệm quản lý, điều hành và tổ chức
sản xuất cho các HTX học tập; đồng thời kết hợp với các hình thức tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua hội nghị, hội thảo…
2. Về hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách
Hoàn thiện hệ
thống chính sách hỗ trợ KTTT, HTX theo hướng rà soát chính sách hiện đang được
ban hành phân tán tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, còn thiếu tính khả thi
để sửa đổi, bổ sung, đồng bộ hóa và cụ thể hóa trong Luật Hợp tác xã, nhằm cải
thiện hiệu lực của Luật và các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT khi sửa đổi, bổ
sung Luật Hợp tác xã năm 2012, Luật đất đai đảm bảo phù hợp với yêu cầu phát
triển KTTT, HTX trong thời gian tới.
Tích cực triển
khai có hiệu quả các cơ, chế chính sách của Trung ương, của tỉnh cho phát triển
KTTT, trong đó trọng tâm là Nghị quyết số 08/2019/NQ- HĐND ngày 10/12/2019 của
HĐND tỉnh về chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2020-2025; các Chương trình mục tiêu quốc gia, xây dựng nông thôn mới,
hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực,...
3. Về nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hợp tác
xã, gắn liền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp
trong phát triển HTX
Kiện toàn quản
lý Nhà nước đối với HTX gắn với quá trình thực hiện chuyển đổi và thành lập
HTX; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển
doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả KTTT trên địa bàn tỉnh; từng bước kiện toàn
và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận trực tiếp tham mưu về HTX tại các
sở, ban, ngành của tỉnh.
Tăng cường sự
phối hợp trong việc quản lý nhà nước về phát triển HTX giữa các cơ quan, đơn vị
có liên quan. Đặc biệt là sự phối hợp giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư với Liên minh
Hợp tác xã tỉnh, Hội Nông dân và các sở, ngành liên quan để lãnh đạo, chỉ đạo
sát sao công tác phát triển HTX, LHHTX trên cơ sở đánh giá kỹ, đầy đủ, sâu sắc
các mô hình HTX để có các giải pháp phù hợp trong định hướng phát triển bảo đảm
hiệu quả, bền vững.
Các sở, ngành
liên quan thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động của các
HTX để kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là về cơ
chế, chính sách, nguồn vốn... Đối với các huyện, thành phố, cần nâng cao năng lực
và trình độ cán bộ tại phòng Tài chính - Kế hoạch có trách nhiệm theo dõi, đề
xuất những nội dung liên quan đối với KTTT trên địa bàn.
4. Về nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, xây dựng mô
hình hợp tác xã hiệu quả và tổng kết mô hình
4.1. Nâng
cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã
Các cấp, ngành
chỉ đạo đưa nhiệm vụ phát triển HTX vào chỉ tiêu kế hoạch hằng năm của huyện,
thành phố để nâng cao trách nhiệm của các địa phương trong thực hiện Quyết định
số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát
triển 15.000 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020.
Đẩy mạnh thực
hiện triển khai Đề án "Đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả
KTTT trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, định hướng đến năm 2025"; Đề án
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2019-2020, định
hướng đến năm 2030; Đề án rà soát, điều chỉnh ranh giới 3 loại rừng tỉnh Lạng
Sơn đến năm 2030,...
Các huyện,
thành phố tạo điều kiện cho các sáng lập viên có nhu cầu về thành lập HTX; đồng
thời khuyến khích các THT, trang trại hoạt động có hiệu quả có nhu cầu thành lập
các HTX.
Củng cố, kiện
toàn đội ngũ cán bộ HTX; tổ chức đại hội, hội nghị để lựa chọn và bầu những
thành viên có tâm huyết, trình độ vào đội ngũ quản lý; bổ sung nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn thông qua thu hút sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học,
cao đẳng, cán bộ trẻ có năng lực, trình độ về làm việc tại các hình thức tổ chức
sản xuất.
Xử lý dứt điểm
các HTX chưa đăng ký, tổ chức lại; xử lý giải thể HTX không hoạt động, chờ giải
thể; rà soát, giải quyết những vấn đề tồn đọng, củng cố hoặc giải thể những
HTX, THT hoạt động không hiệu quả hoặc ngừng hoạt động chuyển sang hình thức
kinh tế khác cho phù hợp; hướng dẫn, tư vấn giúp các HTX xây dựng kế hoạch,
phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Tăng cường
năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho các HTX, các hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, đầu tư kết cấu hạ tầng
phục vụ sản xuất, chế biến sản phẩm; từng bước mở rộng quy mô hoạt động của các
HTX. Khuyến khích các cán bộ trẻ có trình độ về làm việc trong HTX...
4.2. Xây dựng
mô hình hợp tác xã hiệu quả và tổng kết mô hình
Triển khai có
hiệu quả Kế hoạch số 128/KH-UBND ngày 13/7/2017 của UBND tỉnh về xây dựng mô
hình điểm HTX sản xuất nông nghiệp gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm có sự
liên kết giữa doanh nghiệp với người sản xuất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai
đoạn 2017 - 2020. Xây dựng các mô hình HTX gắn với chuỗi giá trị sản phẩm hàng
hóa chủ lực về nông nghiệp; gắn với nội dung và lộ trình xây dựng nông thôn mới;
phấn đấu hằng năm xây dựng 5 - 10 mô hình liên kết các chuỗi sản xuất chế biến
tiêu thụ hàng hóa nông sản; xây dựng một số mô hình HTX dịch vụ tổng hợp tại
các xã; trong đó ưu tiên chính sách về việc giao HTX sử dụng nguồn lực tại địa
phương như: giao khoán quản lý, sử dụng và khai thác diện tích đất, ao, hồ, chợ,
hệ thống kênh mương, nước sạch và các nguồn lực khác... nhằm tạo điều kiện hỗ
trợ cho HTX có thêm nguồn kinh phí hoạt động, thu nhập cho các thành viên; hỗ
trợ về mặt tài chính khi các sản phẩm, dịch vụ của HTX gặp biến động, khó khăn
trong tiêu thụ, thiên tai, dịch bệnh .... Hằng năm bố trí nguồn vốn từ ngân
sách cho việc xây dựng mô hình HTX kiểu mới.
Tăng cường
phát triển các hình thức tổ chức liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ và chế biến
sản phẩm, khuyến khích phát triển kinh tế HTX. Hằng năm, lựa chọn xây dựng điểm
mô hình HTX để hỗ trợ đầu tư sản xuất; tổ chức cho các HTX tham gia giới thiệu
sản phẩm tại các Hội chợ, Triển lãm nông nghiệp tạo điều kiện cho sản phẩm của
HTX nông nghiệp có cơ hội tiếp cận, mở rộng thị trường tiêu thụ. Tổ chức hội
nghị khách hàng cho các HTX gặp gỡ và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các
doanh nghiệp.
Tăng cường
công tác phát hiện, lựa chọn những HTX điển hình theo từng lĩnh vực chuyên
ngành làm mô hình điểm để xây dựng và nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt
động hiệu quả; chỉ đạo những mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ theo chuỗi
giá trị trong các ngành hàng nông sản chủ lực có thương hiệu trên thị trường quốc
tế.
Bố trí kinh
phí và nêu cao trách nhiệm được phân công của các ngành, địa phương trong việc
xây dựng thành công mô hình HTX kiểu mới gắn với hoàn thành tiêu chí số 13
trong Bộ tiêu chí Quốc gia về xã Nông thôn mới.
Nghiên cứu đề
xuất mô hình; chú trọng những lĩnh vực, ngành có tiềm năng nhưng còn ít tổ hợp
tác, hợp tác xã. Xây các chuỗi giá trị sản phẩm nông sản phù hợp với điều kiện
địa phương và nhu cầu của thị trường.
5. Về huy động nguồn lực xã hội để phát triển KTTT, HTX
Huy động mọi
nguồn lực cho phát triển HTX; khuyến khích, tạo điều kiện để các HTX và các
thành phần kinh tế khác đầu tư vào HTX đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất, ứng
dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và sức cạnh tranh.
Lồng ghép, kết
hợp các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn tỉnh, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển các hình thức tổ
chức kinh tế hợp tác, liên kết.
Hỗ trợ HTX
tham gia giới thiệu sản phẩm tại các Hội chợ trong và ngoài nước; tham gia các
cơ hội giao thương, phiên chợ hàng Việt, chương trình kết nối cung cầu giữa các
nhà sản xuất, các cơ sở sản xuất hàng nông sản trên địa bàn với các doanh nghiệp,
trung tâm thương mại siêu thị nhằm giới thiệu, hỗ trợ, giúp các cơ sở sản xuất
tiêu thụ sản phẩm.
Tăng khả năng
tiếp cận vốn tín dụng của các hộ nông dân khi tham gia HTX, THT và các hình thức
tổ chức liên kết hợp tác sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị các sản phẩm
nông nghiệp. Đẩy mạnh sự liên kết trong khu vực HTX và giữa HTX với các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn lực tập trung cho
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
6. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội,
hiệp hội trong phát triển kinh tế tập thể
Nâng cao vai
trò của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các tổ chức chính trị - xã hội của tỉnh
trong việc vận động đoàn viên, hội viên tham gia phát triển KTTT, tạo điều kiện
cho đoàn viên, hội viên tham gia phát triển KTTT trong mọi ngành nghề, lĩnh vực,
địa bàn, tham gia vào nhiều hoạt động hỗ trợ, cung cấp dịch vụ, tư vấn cho KTTT
phát triển, giới thiệu những mô hình KTTT hiệu quả, điển hình, lồng ghép các
chương trình để tuyên truyền các chính sách về HTX. Hằng năm phối hợp các sở,
ban, ngành, Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho
đoàn viên, hội viên.
7. Về tăng cường vai trò, trách nhiệm và nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
Tăng cường hoạt
động của Liên minh Hợp tác xã tỉnh theo đúng chức năng, nhiệm vụ quy định tại
Điều lệ Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Từng bước nâng cao vai trò, trách nhiệm
của đơn vị trong phát triển KTTT tỉnh; tích cực, chủ động tham mưu cho Ban Chỉ
đạo về công tác lãnh, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển KTTT
của tỉnh. Phối hợp các ngành, các huyện, thành phố tham mưu với Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh ban hành, triển khai các cơ chế, chính sách góp phần hỗ trợ KTTT của
tỉnh phát triển; chủ động tiếp nhận, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của
HTX trong quá trình hoạt động cũng như sản xuất, kinh doanh nhằm giúp các HTX
hoạt động đúng quy định của Luật Hợp tác xã; phát huy tốt chức năng nhiệm vụ là
tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các thành viên, HTX.
8. Về tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển kinh tế tập thể, HTX
Tích cực thực
hiện Chiến lược hội nhập quốc tế ngành nông nghiệp, nông thôn được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1684/QĐ-TTg ngày 30/9/2015; triển khai
tích cực hiệu quả Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh hội nhập quốc
tế trên địa bàn tỉnh.
Tăng cường thu
thập thông tin, nghiên cứu về chính sách đối ngoại, kinh tế, xu thế hợp tác, đầu
tư nước ngoài, viện trợ và thị trường xuất khẩu liên quan đến phát triển nông
nghiệp và nông thôn; tổ chức các chương trình trao đổi, tham quan, học tập mô
hình HTX kiểu mới, tiên tiến, xây dựng nông thôn mới của các nước có thế mạnh về
phát triển HTX trong khu vực và trên thế giới; trao đổi chuyên gia đến làm việc,
chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển HTX cho tỉnh.
9. Về xây dựng chương trình, dự án mang tính đột phá
Xây dựng, phổ
biến, nhân rộng các mô hình KTTT điển hình, tiên tiến sản xuất gắn với chuỗi
giá trị hàng hóa theo cơ chế thị trường và phù hợp với điều kiện đô thị hóa;
các mô hình được tổ chức và hoạt động theo đúng các quy định của Luật Hợp tác
xã, đảm bảo đúng bản chất và nguyên tắc, giá trị của HTX, hoạt động có hiệu quả
cả về kinh tế, xã hội. Các huyện, thành phố xây dựng các mô hình HTX điển hình,
tiên tiến, tổng kết và nhân rộng các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả.
Phát triển các
mô hình HTX, LHHTX nông nghiệp kiểu mới theo hướng mở rộng sản xuất, kinh
doanh, gắn với kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai; giảm
thiểu tác động bất lợi về môi trường do việc khai thác các nguồn lực cho sản xuất
nông lâm thủy sản; tăng hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên (đất,
nước, nguồn lợi rừng); quản lý và sử dụng có hiệu quả, an toàn các loại hóa chất,
thuốc trừ sâu, chất thải từ chăn nuôi, trồng trọt, công nghiệp chế biến.
Khuyến khích áp
dụng các tiêu chuẩn môi trường kèm cơ chế giám sát chặt chẽ để thúc đẩy phát
triển chuỗi cung ứng nông nghiệp xanh. Tăng cường quản lý kiểm soát nguy cơ ô
nhiễm đất và nước thải từ chất thải chăn nuôi và phát triển nguồn năng lượng
tái tạo từ các phụ phẩm của ngành chăn nuôi; quản lý vùng nuôi an toàn về môi
trường.
10. Các giải pháp khác
Đẩy mạnh ứng dụng
khoa học công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, tiết kiệm nguyên liệu, đồng
bộ về công nghệ và quy trình tổ chức sản xuất. Tăng cường công tác quản lý các
qui trình sản xuất và chất lượng sản phẩm theo qui định để sản xuất bảo đảm các
tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và dịch bệnh.
Tăng cường hỗ
trợ HTX về ứng dụng tiến bộ về khoa học - công nghệ, qua đó giúp HTX xây dựng
được phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả làm cơ sở vay vốn ngân hàng.
Đẩy mạnh hỗ trợ
xúc tiến thương mại, mở rộng thị thường tiêu thụ thông qua hỗ trợ thiết kế
logo, bao bì và các ấn phẩm quảng bá khác; hỗ trợ, tạo điều kiện cho các THT,
HTX, LHHTX tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ, triển lãm để
quảng bá sản phẩm, thương hiệu và đưa sản phẩm đến nhiều đối tượng tiêu dùng.
Phát huy ưu thế
cộng đồng của KTTT, HTX để tổ chức sản xuất, hạn chế thấp nhất thiệt hại do
thiên tai, bão lụt; đồng thời thông qua việc phát triển mô hình sản xuất hữu
cơ, sản xuất sạch… theo các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, có kiểm soát để bảo
vệ tài nguyên đất, nước, không khí.
(Phụ lục chi tiết kèm theo)
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Kế hoạch
và Đầu tư: chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên
quan xây dựng Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2021-2025 của
tỉnh (sau khi có văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương), tổ chức lồng
ghép các chương trình, dự án để hỗ trợ hợp tác xã phát triển.
Hằng năm, xây dựng
kế hoạch kiểm tra, giám sát hoạt động của Ban đổi mới cấp huyện, xã và tổ chức
kiểm tra, giám sát nhằm tạo điều kiện cho KTTT phát triển đúng hướng, vững mạnh,
phù hợp
2. Sở Tài
chính: chủ trì, cân đối, bố trí vốn để tăng vốn điều
lệ cho Quỹ hỗ trợ phát triển HTX; hằng năm cân đối, bố trí kinh phí từ ngân
sách tỉnh để thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển HTX.
3. Sở Tài
nguyên và môi trường: chủ trì, tham mưu cho UBND tỉnh
ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể để tạo bước đột phá trong tích tụ ruộng
đất trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện cho các hợp tác xã sản xuất với quy mô lớn.
Tiếp tục chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên
minh Hợp tác xã tỉnh đôn đốc các huyện, thành phố rà soát, xây dựng phương án
giao đất công ích cho các HTX sử dụng; tiến hành giao đất xây trụ sở và cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các HTX.
4. Liên
minh Hợp tác xã tỉnh: hướng dẫn HTX trong việc rà
soát lại điều lệ, tổ chức đại hội thành viên để củng cố lại hoạt động của HTX,
bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Hợp tác xã và các văn bản hướng dẫn. Đẩy
mạnh hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tạo điều kiện cho các HTX vay
được vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ kịp thời việc thực hiện các dự án phát triển
kinh doanh. Nhân rộng các mô hình hợp tác xã làm ăn hiệu quả, tích cực tuyên
truyền Luật Hợp tác xã năm 2012.
5. Sở Công
Thương: tập trung rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động
của các hợp tác xã điện năng, các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tuyên
truyền, vận động các hợp tác xã điện năng làm ăn kém hiệu quả chuyển đổi, giải
thể, bàn giao cho ngành điện quản lý; chịu trách nhiệm chính định hướng thị trường
đầu ra cho các HTX, THT đặc biệt cho các HTX, THT hoạt động trong lĩnh vực
nông- lâm- ngư nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Chủ trì, phối
hợp với các Liên minh Hợp tác xã trong triển khai chương trình khuyến nông,
khuyến công và công tác xúc tiến thương mại cho các HTX, THT sản xuất, chế biến
sản phẩm.
6. Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn: tập trung củng cố,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng
và mở rộng các loại dịch vụ cho các hộ nông dân có nhu cầu; chú trọng phát triển
các HTX chuyên ngành, các HTX dịch vụ tổng hợp có đầu tư khoa học công nghệ để
phát triển như HTX chuyên trồng rau sạch, HTX chăn nuôi theo quy trình công nghệ
cao, HTX trồng cây ăn quả, HTX chế biến nông sản thực phẩm.
7. Ngân
hàng Nhà nước tỉnh: chỉ đạo các ngân hàng thương mại,
ngân hàng chính sách tỉnh ưu tiên cho các hợp tác xã làm ăn tốt tiếp cận được
nguồn vốn vay, đặc biệt là các nguồn vốn vay ưu đãi.
8. UBND các
huyện, thành phố: tập trung rà soát tình hình hoạt
động của các hợp tác xã; cân đối ngân sách của huyện, xã để hỗ trợ cho các hợp
tác xã. Thường xuyên theo dõi, bám sát kế hoạch đề ra, tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, chỉ đạo tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc ở cơ sở nhằm tạo điều
kiện cho KTTT phát triển. Tăng cường phối hợp kiểm tra, đôn đốc, nắm tình hình
sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho HTX, THT với Liên minh Hợp tác xã tỉnh.
UBND tỉnh Lạng
Sơn trân trọng báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét./.
Nơi nhận:
- Như trên:
- Thường trực Tỉnh ủy (để b/c);
- Lãnh đạo HĐND tỉnh (để b/c);
- Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (để p/h);
- UBMTTQ Việt Nam tỉnh;
- Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh;
- Các sở, ban, ngành trực thuộc;
- Liên minh Hợp tác xã tỉnh;
- UBND các huyện, thành phố;
- C, PVP UBND tỉnh,
các Phòng CM, Trung tâm TH-CB;
- Lưu: VT, KT (VTD).
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Long Hải
|