1. Các công trình của ngành Bưu
chính - Viễn thông phải được xem như là các công trình hạ tầng cơ sở trong các
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, các vùng kinh tế, là
ngành phải đi trước một bước và phát triển phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và nhiệm vụ an ninh, quốc phòng.
2. Nhà nước thống nhất quản lý mọi
hoạt động Bưu chính - Viễn thông trên toàn lãnh thổ; thực hiện độc quyền nhà nước
trong lĩnh vực khai thác Bưu chính - Viễn thông; được hợp đồng hợp tác kinh
doanh trong khai thác mạng lưới; được liên doanh trong sản xuất công nghiệp Bưu
chính - Viễn thông, xuất nhập khẩu thiết bị Bưu chính - Viễn thông, xây lắp
công trình Bưu chính - Viễn thông.
3. Nhà nước thống nhất quản lý mạng
đường trục quốc gia và đi quốc tế, mạng thông tin đặc biệt phục vụ cơ quan Đảng
và Chính phủ, phục vụ công tác an ninh, quốc phòng.
4. Mạng lưới thông tin Bưu chính
- Viễn thông đảm bảo hiện đại, được cập nhật thường xuyên về mặt kỹ thuật và
công nghệ, đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ trên toàn mạng đường trục quốc gia
và đi quốc tế; mạng viễn thông quốc gia phải được quản lý và điều hành thống nhất
thông qua các trung tâm quản lý và điều hành quốc gia.
5. Đảm bảo độ an toàn thông tin
quốc gia trong mọi tình huống.
6. Quản lý và khai thác có hiệu
quả tần số vô tuyến điện, nguồn tài nguyên quốc gia. Bảo vệ chủ quyền quốc gia
về sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh địa tĩnh.
7. Phát triển công nghiệp Bưu
chính - Viễn thông đáp ứng các nhu cầu phát triển chủ yếu trong nước và có sản
phẩm xuất khẩu.
8. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở
đào tạo, dạy nghề, mở rộng các hình thức đào tạo, thường xuyên bổ sung những tiến
bộ kỹ thuật và công nghệ mới cho chương trình giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của ngành đến năm 2000 và sau năm 2000.
9. Tăng cường các mối quan hệ
song phương; mở rộng hợp tác đa phương; ưu tiên phát triển các mối quan hệ với
khối ASEAN và các nước láng giềng; tham gia vào các chương trình phát triển
thông tin khu vực, tiểu khu vực và ASEAN; cho phép các doanh nghiệp của ngành
thực hiện đầu tư ra nước ngoài khi có cơ hội đầu tư.
10. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự
vay, tự trả nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để phát triển
ngành, với phương châm: nguồn lực trong nước là quan trọng, nguồn lực nước
ngoài là cần thiết.
1. Về viễn
thông:
Đến năm 2000 đạt mật độ điện thoại
5 đến 6 máy trên 100 dân. Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đạt 20 đến 25
máy trên 100 dân; hầu hết các xã đều có điện thoại; đảm bảo liên lạc thông suốt
với 100% xã trọng điểm đường biên.
- Tiếp tục nâng cấp và mở rộng mạng
đường trục quốc gia nhằm thoả mãn mọi nhu cầu thông tin liên lạc của toàn xã hội;
đảm bảo an toàn thông tin quốc gia trong mọi tình huống, có các tuyến vu hồi, dự
phòng theo các phương thức 1 + 1, hoặc 2 + 1.
- Mạng viễn thông phát triển
theo hướng cáp quang hoá đến mạng thuê bao; cung cấp các dịch vụ có chất lượng
cao, dịch vụ đa phương tiện. Trước mắt phục vụ cho giáo dục, y tế, đào tạo và
khám chữa bệnh từ xa. Đến năm 2000 đạt 90% đến 95% tỉnh, thành phố trên cả nước
có các tuyến truyền dẫn liên tỉnh bằng cáp quang.
- Mở rộng và phát triển các loại
hình dịch vụ trong nước và quốc tế (các dịch vụ cơ bản và dịch vụ gia tăng giá
trị) thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội. Chú trọng việc cung
cấp các dịch vụ thông tin hiện đại cho các khu chế xuất, khu công nghiệp tập
trung, khu đô thị mới phát triển.
- Tập trung đầu tư xây dựng các
công trình trọng điểm quốc gia:
+ Thời kỳ 1996 - 1998: hoàn thiện,
đưa tuyến cáp quang T-V-H (Thái Lan - Việt Nam - Hồng Kông) vào hoạt động, xây
dựng các đường rẽ nhánh cho tuyến cáp quang trên đường dây 500 KV; xây dựng mạng
thông tin vệ tinh nội địa (VSAT); xây dựng và quản lý thống nhất mạng dịch vụ
Internet; nâng cấp và mở rộng các trạm thông tin vệ tinh mặt đất; tham gia xây
dựng tuyến cáp quang liên lục địa 6 nước (Trung Quốc - Việt Nam - Lào - Thái
Lan - Malaysia - Singapore), tuyến cáp quang SEA-ME-WE 3; xây dựng các trung
tâm quản lý và điều hành quốc gia (TMN); xây dựng các tuyến thông tin vu hồi
cho các vùng Bắc - Trung - Nam, đảm bảo an toàn thông tin trong mọi trường hợp.
+ Thời kỳ 1998 - 2000: chuẩn bị
phóng vệ tinh viễn thông riêng của Việt Nam; nghiên cứu xây dựng tuyến cáp
quang biển Việt Nam dọc bờ biển.
2. Về bưu
chính:
- Phát triển theo hướng cơ giới
hoá, tự động hoá (tốc độ, tiêu chuẩn hoá và tin học hoá); đến năm 2000 đạt 100%
tỉnh lỵ và 90% huyện lỵ có báo đến trong ngày; một bưu cục phục vụ bình quân
22.900 dân, bán kính phục vụ bình quân là 5,4 km.
- Phát triển nhanh và mở rộng
các dịch vụ trong nước và quốc tế.
3. Về các mạng
thông tin chuyên dùng:
- Nâng cấp và hiện đại hoá mạng
lưới thông tin an ninh, quốc phòng và các mạng thông tin chuyên dùng khác cho
phù hợp với mạng thông tin quốc gia, đảm bảo an toàn và bí mật thông tin.
- Cung cấp thoả mãn mọi dịch vụ
cũng như các đường dây trung kế vào mạng quốc gia cho các mạng chuyên dùng của
các ngành; hướng dẫn và phối hợp với các Bộ, các ngành xây dựng phát triển và
khai thác các mạng thông tin chuyên dùng có hiệu quả.
4. Về công nghiệp
bưu chính - viễn thông:
- Phát triển công nghiệp bưu
chính - viễn thông theo hướng hiện đại hoá theo cả chiều rộng và chiều sâu, tạo
được các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng đầu tư sang cả lĩnh vực điện
tử và tin học. Phát triển thành ngành công nghiệp mũi nhọn phục vụ nhu cầu xã hội.
- Khuyến khích các hình thức huy
động vốn, kể cả các hình thức liên doanh trong nước đối với xí nghiệp sản xuất
công nghiệp bưu chính - viễn thông; hình thành các chính sách bảo hộ sản xuất
công nghiệp bưu chính - viễn thông trong nước trên cơ sở phù hợp với các chính
sách chung.
- Thực hiện cơ chế mở, khuyến
khích hợp tác liên doanh với nước ngoài trong sản xuất công nghiệp bưu chính -
viễn thông (có chuyển giao công nghệ), phù hợp với chính sách và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên liên kết, liên doanh sản xuất với các nhà sản
xuất quốc tế có uy tín và công nghệ cao nhằm từng bước thay thế nhập khẩu, tiến
tới xuất khẩu.
- Làm chủ cả phần cứng và phần mềm
đối với các tổng đài chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn có dung lượng nhỏ, từng
bước tiến tới làm chủ đối với các tổng đài chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn có
dung lượng lớn; đẩy mạnh sản xuất thiết bị đầu cuối, giảm bớt sự phụ thuộc nhập
khẩu; đến năm 2000, sản xuất của công nghiệp bưu chính - viễn thông trong nước
phải đáp ứng được từ 40 đến 50% nhu cầu của mạng lưới bưu chính - viễn thông cả
nước.
5. Về quản lý
tiêu chuẩn và chất lượng:
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (ITU). Tổng cục Bưu điện thống nhất
ban hành các hệ thống tiêu chuẩn và chất lượng của 3 lĩnh vực: thiết bị, mạng
lưới và chất lượng dịch vụ trong ngành quốc.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tiêu
chuẩn và chất lượng; đơn giản hoá các khâu cấp giấy phép, giấy chứng nhận cho
hoạt động tiêu chuẩn chất lượng trong ngành Bưu chính - Viễn thông.
6. Về quản lý tần
số:
- Trong năm 1997, xây dựng và
hoàn chỉnh quy hoạch phân bổ và sử dụng tần số vô tuyến điện.
- Trình Chính phủ Pháp lệnh Vô
tuyến điện, các quy định nhằm đảm bảo quản lý tần số thống nhất, có hệ thống.
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
vô tuyến điện Việt Nam, nhằm đưa vào mạng lưới khai thác được đồng bộ, tránh
gây can nhiễu, sử dụng tiết kiệm phổ tần số vô tuyến điện.
- Xây dựng hệ thống đăng ký và
phối hợp tần số quốc tế nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia về sử dụng tấn số vô tuyến
điện, quỹ đạo vệ tinh địa tĩnh.
- Hiện đại hoá trang thiết bị kiểm
tra, kiểm soát tần số. Đến năm 2000 kiểm soát thường xuyên được 100% các vùng
trọng điểm và ít nhất là trên 50% diện tích lãnh thổ.
7. Về phát triển
công nghệ:
- Thực hiện quản lý tiêu chuẩn
công nghệ quốc gia theo hướng thống nhất, đồng bộ, phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế.
- Khuyến khích nghiên cứu, phát
triển, ứng dụng công nghệ mới tại các doanh nghiệp, thông qua quỹ khoa học công
nghệ tập trung. Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ chế tài chính khuyến
khích công tác nghiên cứu phát triển.
- Nghiên cứu ứng dụng các công
nghệ mới: công nghệ đồng bộ số (SDH); đa truy nhập theo mã (CDMA); tín hiệu số
7; mạng đa dịch vụ (ISDN); mạng thông minh (IN); phương thức chuyển giao không
đồng bộ (ATM); mạch vòng vô tuyến; dịch vụ Internet; dịch vụ giá trị gia tăng;
mở rộng mạng cáp quang đến mạng thuê bao, tạo tiền đề thực hiện cáp quang hoá mạng
lưới sau năm 2000; tự động hoá các khâu hoạt động bưu chính v.v...
- Đầu tư xây dựng các trung tâm
nghiên cứu phát triển và công nghệ cao; đầu tư xây dựng các trung tâm quản lý
và điều hành mạng viễn thông quốc gia.
- Tham gia thực hiện chương
trình công nghệ thông tin quốc gia đến năm 2000.
8. Về phát triển
nguồn nhân lực:
- Tăng cường cho các cơ sở đào tạo,
dạy nghề đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao, đổi mới cơ sở vật chất,
chương trình giảng dạy; tổ chức nhiều loại hình đào tạo, chú trọng đào tạo trên
đại học và chuyên gia đầu ngành, chú ý phát triển lực lượng kỹ sư phần mềm
trong các lĩnh vực nhằm phục vụ nhu cầu phát triển trong nước và xuất khẩu.
- Nghiên cứu trình Chính phủ dự
án xây dựng tổ chức vừa đào tạo và nghiên cứu khoa học về công nghệ bưu chính -
viễn thông.
- Khuyến khích nghiên cứu và ứng
dụng, tiếp thu những công nghệ mới;
- Xây dựng cơ chế, chính sách quản
lý nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển tài năng và sáng tạo; thu hút tiềm lực
chất xám từ bên ngoài.
9. Về huy động
vốn đầu tư:
Giai đoạn 1996 - 2000, dự kiến
huy động khoảng 40.000 tỷ đồng, trong đó: huy động từ nước ngoài khoảng 60%;
trong nước 40%.
- Huy động khoảng 120 đến 150
triệu đô la Mỹ từ nguồn ODA (vay lãi nhẹ) để phát triển thông tin bưu chính -
viễn thông cho các vùng nông thôn, miền núi, biên giới và hải đảo.
- Thu hút khoảng 1,2 đến 1,5 tỷ
đô la Mỹ theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh; đồng thời khuyến khích
liên đoanh trong sản xuất công nghiệp bưu chính - viễn thông.
- Đối với các công trình, dự án
bưu chính - viễn thông phục vụ công ích được ưu tiên cấp vốn từ ngân sách, hoặc
từ nguồn ODA thích hợp, các dự án sản xuất kinh doanh do các doanh nghiệp tự cấn
đối và huy động vốn theo quy định hiện hành của Nhà nước.
10. Về quản
lý:
- Thực hiện độc quyền Nhà nước
trong lĩnh vực khai thác các dịch vụ Bưu chính - viễn thông.
- Nhà nước thống nhất quản lý
khung giá cước các dịch vụ chuẩn, chủ yếu; từng bước giảm dần giá cước viễn
thông quốc tế cho phù hợp với mặt bằng giá chung trong khu vực.
- Trong năm 1997, trình Nhà nước
phê duyệt Luật Bưu chính - Viễn thông; triển khai xây dựng các văn bản dưới luật
nhằm tạo môi trường pháp lý rõ ràng cho các doanh nghiệp hoạt động;
- Trình Chính phủ phê duyệt cơ
chế quản lý và khai thác mạng Internet trên cơ sở tập trung và thống nhất trong
cả nước.