THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/2006/QĐ-TTG
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 01 năm 2006
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC PHÊ DUYỆT “CHIẾN LƯỢC ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VÌ MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH ĐẾN
NĂM 2020”
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Khoa học và Công nghệ ngày 09 tháng 6 năm 2000;
Căn cứ Luật Điện lực ngày 03 tháng 12 năm 2004
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ,
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt “Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử
vì mục đích hòa bình đến năm 2020” ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Tổ chức thực hiện chiến lược
Bộ Khoa học
và Công nghệ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử, an
toàn bức xạ và hạt nhân, chịu trách nhiệm quản lý và hướng dẫn thực hiện “Chiến
lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020”; chủ trì,
phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện các vấn đề có tính
liên ngành trong nội dung Chiến lược, định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính
phủ.
Các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ
và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được
giao trong Chiến lược, định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi
báo cáo cho Bộ Khoa học và Công nghệ để tổng hợp.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể
từ ngày đăng Công báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- Học viện hành chính quốc gia;
- VPCP: BTCN, TBNC, các PCN, BNC,
-Ban Điều hành 112,
-Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ;
-các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KG (5b). A.310
|
THỦ
TƯỚNG
Phan Văn Khải
|
CHIẾN LƯỢC
ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VÌ MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH ĐẾN
NĂM 2020”
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01/2006/QĐ-TTg ngày 03 tháng 01 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ)
LỜI
NÓI ĐẦU
Năng lượng nguyên tử
(NLNT) được tạo ra do các biến đổi trạng thái của nguyên tử và hạt nhân có hai
dạng là năng lượng bức xạ và năng lượng phân hạch, các dạng năng lượng này đã
được ứng dụng trong đời sống kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam,
năng lượng bức xạ đã được ứng dụng trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp, địa chất,
khoáng sản, khí tượng, thủy văn, giao thông, xây dựng, dầu khí,… Tuy nhiên, phạm
vi và hiệu quả ứng dụng còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân chính là do trình độ phát triển kinh tế
- xã hội của nước ta còn thấp và nhận thức của xã hội về vai trò của năng lượng
bức xạ còn chưa đầy đủ.
Hện nay, ở nước
ta năng lượng phân hạch chưa được ứng dụng để phát điện. Việc nghiên cứu phát
triển điện hạt nhân (ĐHN) đã được các cơ quan có liên quan thực hiện trong nhiều
năm, kết quả nghiên cứu đã khẳng định sự cần thiết và tính khả thi của việc xây
dựng nhà máy ĐHN ở Việt Nam.
Lịch sử phát
triển kinh tế thế giới hiện đại cho thấy, để thực hiện quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH), nhiều quốc gia đã sớm xác định việc ứng dụng
NLNT là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Chính vì vậy, họ sớm xây dựng và thực
hiện chiến lược nghiên cứu, ứng dụng và phát triển NLNT. Nhờ đó, NLNT đã phát
huy và có đóng góp hiệu quả, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ
(KH&CN) của quốc gia, góp phần tích cực vào việc giữ gìn, bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững.
Việt Nam đang
tiến hành công cuộc CNH - HĐH, việc phát triển các ngành công nghiệp cao, đặc
biệt là công nghiệp công nghệ hạt nhân, là cơ hội, điều kiện để thúc đẩy phát
triển công nghiệp công nghệ truyền thống, góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng GDP và hội nhập quốc tế. Việc phát
triển ĐHN sẽ góp phần đáp ứng về cơ bản nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng
tăng, bảo đảm an ninh năng lượng và dự trữ nguồn tài nguyên của đất nước.
Nhận thức được
tầm quan trọng của việc ứng dụng NLNT phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, Đảng và Chính phủ đã sớm quan tâm, chỉ đạo lĩnh vực này. Nghị
quyết Trung ương lần 2 khóa VIII đã yêu cầu: “Chuẩn bị tiền đề khoa học cho
việc sử dụng năng lượng nguyên tử sau năm 2000”. Văn kiện Đại hội Đảng khóa
IX đã đề ra nhiệm vụ: “Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử”.
Để cụ thể hóa chủ trương này, Chính phủ ban hành Chiến lược ứng dụng năng lượng
nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020.
Nội dung của
Chiến lược gồm 3 chương:
Chương
I: Tình hình và triển vọng ứng dụng NLNT.
ChươngII:
Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ ứng dụng NLNT ở Việt Nam.
Chương
III: Giải pháp thực hiện Chiến lược.
TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
I. TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ TRÊN THẾ GIỚI
1. Ứng dụng
năng lượng bức xạ
Từ lâu, năng
lượng bức xạ đã được ứng dụng rộng rãi, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Lợi nhuận thu được từ ứng dụng năng lượng bức xạ so với vốn đầu tư cho nó trung
bình gấp 7 lần, có những lĩnh vực gấp tới 40 lần. Cho nên tất cả các nước đều đầu
tư cho ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, tuy
nhiên phạm vi và hiệu quả ứng dụng giữa các nước rất khác nhau, tùy thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ hạt
nhân của từng nước.
Trong năm
1997, về góc độ kinh tế, việc ứng dụng năng lượng bức xạ trong các lĩnh vực
kinh tế - xã hội ở Hoa Kỳ đã đóng góp 1,5% GDP, ở Nhật Bản 1,7% GDP và ở Trung
Quốc 10% GDP.
Ở các nước
phát triển, trên 30% bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị bằng kỹ thuật bức xạ.
Đây là kỹ thuật hiện đại nhất hiện nay trong chẩn đoán và điều trị nhiều bệnh
nan y như ung thư, tim mạch,…
2. Điện hạt
nhân
Điện hạt nhân
đã chiếm một tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu điện năng ở nhiều quốc gia. Theo Cơ
quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), tính đến tháng 02 năm 2005, đã có 441
tổ máy ĐHN tại 32 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng dân số gần 4 tỷ người, tổng
công suất ĐHN đạt 367.197 MW và cung cấp 16,1% sản lượng điện năng toàn cầu. Tỷ
lệ này duy trì liên tục trong suốt 20 năm qua, có nghĩa là sản lượng ĐHN đã
tăng trưởng với cùng tốc độ tăng trưởng của tổng sản lượng điện năng toàn cầu.
Tính chung cho giai đoạn 33 năm từ 1970 đến 2003 thì tốc độ tăng trưởng của ĐHN
là 9,4%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng khá cao của một ngành công nghiệp trong
một thời gian dài. Hiện có 25 tổ máy ĐHN đang được xây dựng (trong đó 60% thuộc
các nước đang phát triển), khi hoàn thành sẽ nâng tổng công suất ĐHN thế giới
lên 387.399 MW.
Các dự báo
dài hạn đều khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của ĐHN trên phạm vi toàn cầu
trong thế kỷ 21. Theo kết quả nghiên cứu năm 2003 của Viện công nghệ
Massachusetts (Hoa Kỳ), đến năm 2050 công suất ĐHN sẽ tăng lên 1.000.000 MW và
cung cấp 19% tổng nhu cầu điện năng của thế giới.
Mặc dù ĐHN hiện
nay tập trung chủ yếu ở các nước công nghiệp tiên tiến (các nước OECD và Nga),
tuy nhiên, khi bắt đầu xây dựng và phát triển ĐHN, đa số các nước này cũng ở
trong điều kiện kinh tế phát triển chưa cao, có nước thu nhập GDP bình quân
trên đầu người còn thấp hơn Việt Nam hiện nay. Ở các nước này, chương trình
phát triển ĐHN chính là động lực quan trọng cho quá trình CNH - HĐH. Lúc đầu
chương trình ĐHN, GDP bình quân đầu người của Nhật Bản là 292 USD/năm (1956), của
Hàn Quốc là 60 USD/năm (1969) và của Trung Quốc thấp hơn 70 USD/năm (1970). Hiện
nay một số nước đang phát triển như Ấn Độ và Trung Quốc đang triển khai mạnh mẽ
chương trình phát triển ĐHN. Theo kế hoạch đến năm 2020 Trung Quốc sẽ có 40 tổ
máy ĐHN hoạt động. Ấn Độ có kế hoạch tăng 10 lần công suất điện hạt nhân vào
năm 2022 và 100 lần vào giữa thế kỷ so với mức hiện nay. Trong khu vực Đông Nam
Á, Indonesia đã quyết định bắt đầu xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên vào năm 2010 gồm
4 tổ máy với tổng công suất 4.000 MW và đưa vào vận hành vào năm 2016.
Về công nghệ
lò phản ứng, hiện nay trên thế giới có ba loại chủ yếu, đó là công nghệ lò nước
áp lực (PWR) chiếm 59,5%, công nghệ lò nước sôi (BWR) chiếm 20,8% và công nghệ
lò nước nặng (PHWR) chiếm 7,7%. Các lò đang vận hành trên thế giới chủ yếu thuộc
loại thế hệ thứ II. Một số nước đã xây dựng hoặc đang có kế hoạch thay thế các
lò hết hạn sử dụng bằng loại lò thế hệ thứ III (độ an toàn được nâng cao, thiết
kế gọn hơn, công nghệ xử lý tín hiệu số được đưa vào hệ điều khiển) và đang tập
trung nghiên cứu để cho ra đời loại lò thế hệ thứ IV với nhiều ưu việt (an toàn
hơn, lượng chất thải phóng xạ ít hơn, kinh tế hơn, giảm thiểu nguy cơ phổ biến
vũ khí hạt nhân).
Nhiên liệu
cho các nhà máy ĐHN hiện nay là urani, được cung cấp khá ổn định trên thị trường
thế giới. Công tác chuẩn bị cho sản xuất nhiên liệu hạt nhân kể từ bước thăm dò
tài nguyên cho đến khi sản xuất được nhiên liệu phải kéo dài 15 đến 20 năm. Chi
phí cho nhiên liệu, vận hành và bảo dưỡng nhà máy ĐHN chỉ chiếm 20 - 25% trong
cơ cấu giá điện. Cho nên nếu giá nhiên liệu tăng gấp đôi thì giá thành sản xuất
ĐHN chỉ tăng thêm 2 - 4%, trong khi giá nhiệt điện khí sẽ tăng đến 60 - 70%.
Về mặt an
toàn hạt nhân, hai sự cố nhà máy ĐHN tại Hoa Kỳ và Liên Xô (cũ) đã gây lo ngại
cho công chúng đối với phát triển ĐHN. Sau khi sự cố này, các nước đã có những
cải tiến đáng kể về công nghệ và quản lý, bảo đảm an toàn gần như tuyệt đối cho
các nhà máy ĐHN.
Ngoài mục
tiêu phát điện, các lò phản ứng hạt nhân còn được sử dụng để cung cấp nhiệt cho
các quá trình công nghiệp như sản xuất nước ngọt từ nước biển, sản xuất hydro từ
nước…
1. Ứng dụng
năng lượng bức xạ
Ở Việt Nam,
ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, việc ứng dụng năng lượng bức xạ đã được
triển khai trong lĩnh vực y tế, trong những năm gần đây, kỹ thuật bức xạ, hạt
nhân đã được triển khai nhanh và rộng trong nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau.
Cụ thể, ngành y tế có khoảng 2.000 máy X-quang, 14 máy xạ trị Cobalt-60, 4 máy
gia tốc, 524 nguồn xạ trị áp sát (phần lớn là nguồn Radium); ngành công nghiệp
có khoảng 300 nguồn được dùng trong kiểm tra mẫu không phá hủy và thăm dò dầu
khí, riêng số lượng thiết bị bức xạ dùng trong chiếu xạ thực phẩm tăng lên một
cách đáng kể, hiện đã có 5 thiết bị hoàn thành việc lắp đặt và đi vào hoạt động.
Tính đến hết năm 2004, cả nước có 1.465 cơ sở bức xạ đang hoạt động, trong đó
ngày y tế chiếm 88.8% (1301 cơ sở), ngành công nghiệp chiếm 5,9% và các ngành,
lĩnh vực khác như nghiên cứu đào tạo… chiếm 3,8%. Có 1.173 nguồn phóng xạ,
trong đó số nguồn được sử dụng trong y tế chiếm 46,9%, công nghiệp chiếm 36,2%
và trong các ngành ứng dụng khác chiếm 17%; có 1983 máy phát tia X, trong đó
máy X-quang y tế chẩn đoán bệnh chiếm 96,97% (1823 máy). Theo thống kê của Viện
Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, trong số 157 máy X-quang được kiểm tra chất lượng
trong thời gian vừa qua thì có 40% máy chưa đạt yêu cầu về chất lượng, 50% ở mức
trung bình, 10% đạt chất lượng tốt, nhiều máy được sản xuất từ những năm 60 -
70 của thế kỷ trước. Ngày nay, các cơ sở y tế từ cấp huyện đều sử dụng máy
X-quang trong chẩn đoán, tuy nhiên phần lớn là thiết bị cũ. Trong lĩnh vực y học
hạt nhân, mặc dù toàn quốc đã có trên 20 cơ sở, nhưng về thiết bị chẩn đoán chỉ
có 10 máy gamma camera hoạt động được. Sản xuất được chất phóng xạ trong nước mới
chỉ đáp ứng được khoảng 1/2 nhu cầu đối với các loại đồng vị tạo ra trên lò phản
ứng, còn lại phải nhập khẩu.
Kỹ thuật đột
biến phóng xạ tạo giống cây trồng đã được triển khai ở Việt Nam từ những năm
1970, tuy nhiên cho đến nay cả nước mới chỉ có được một số loại giống lúa, đậu
tương được tạo ra bằng kỹ thuật đột biến phóng xạ.
Kỹ thuật kiểm
tra không phá huỷ được ứng dụng phổ biến và đã trở thành yêu cầu bắt buộc trong
việc kiểm tra chất lượng một số loại công trình của ngành giao thông và xây dựng.
Gần đây ứng dụng kỹ thuật đánh dấu đồng vị phóng xạ trong lĩnh vực dầu khí để
nghiên cứu bài toán tối ưu trong khai thác nhằm tăng cường hiệu suất thu hồi dầu
đã được thực hiện. Kỹ thuật thủy văn đồng vị rất có ưu thế trong nghiên cứu nước
ngầm, nhưng chúng ta cũng chỉ mới triển khai ứng dụng bước đầu ở thành phố Hồ
Chí Minh và một số tỉnh xung quanh. Các loại sản phẩm và vật liệu phục vụ cho sản
xuất và đời sống được tạo ra bằng công nghệ bức xạ gần như chưa có gì, trong
khi đây là một ưu thế lớn của nhiều nước.
Nhìn chung,
việc ứng dụng năng lượng bức xạ ở Việt Nam còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm
năng và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, công nghệ còn ở trình độ thấp, chủ
yếu vẫn phụ thuộc vào việc nhập khẩu trang thiết bị kỹ thuật và đào tạo đội ngũ
cán bộ chưa được chú ý đúng mức. Việc ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội chưa có định hướng rõ ràng. Phần lớn người dân chưa được
hưởng lợi từ việc ứng dụng năng lượng bức xạ trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
2. Nghiên cứu
phát triển điện hạt nhân
a) Các kết quả
đạt được
Các vấn đề
quan trọng liên quan đến phát triển ĐHN như sự cần thiết, công nghệ, nhiên liệu,
an toàn, địa điểm, nhân lực, quản lý chất thải phóng xạ, kinh tế, đầu tư,… đã
được tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống trong nhiều năm. Thông qua hoạt động
nghiên cứu triển khai về NLNT trong gần 30 năm, Việt Nam đã có được những cán bộ
có khả năng đảm nhận một số nhiệm vụ trong chương trình phát triển ĐHN. Công
tác điều tra, thăm dò, khảo sát đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia có tài
nguyên urani với trữ lượng dự báo 218.000 tấn U3O8. Để
chuẩn bị cho phát triển ĐHN, Việt Nam đã thiết lập đượcmối quan hệ hợp tác quốc
tế rộng rãi với các nước và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là với Cơ quan năng
lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Để tạo sự ủng hộ của công chúng cho chủ trương
phát triển ĐHN, công tác thông tin tuyên truyền về ĐHN đã được tổ chức thường
xuyên và tương đối có hiệu quả.
b) Sự cần thiết
của điện hạt nhân ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện
nay, nguồn điện năng chính là nhiệt điện than, nhiệt điện khí và thủy điện.
Năng lượng mới và tái tạo như gió, mặt trời, thủy triều, địa nhiệt do giá thành
sản xuất điện cao, tính phân tán và không ổn định, chỉ có thể tạo ra những nguồn
năng lượng nhỏ, chưa thể chiếm tỷ trọng đáng kể trong cân bằng năng lượng. Các
nguồn tài nguyên năng lượng của nước ta đa dạng nhưng không phải dồi dào. Do
đó, việc khai thác và sử dụng có hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên năng lượng,
gìn giữ cho các thế hệ mai sau là một trong những phương hướng quan trọng của
chính sách năng lượng quốc gia trong thời gian tới.
Theo dự báo,
nhu cầu điện sản xuất theo phương án cơ sở (phương án giả thiết tốc độ tăng trưởng
GDP là 7,1 - 7,2%/năm cho giai đoạn 2001 - 2020) là 201 tỷ kWh vào năm 2020 và
327 tỷ kWh vào năm 2030. Trong khi đó, khả năng huy động tối đa các nguồn năng
lượng nội địa của nước ta tương ứng là 165 tỷ kWh vào năm 2020 và 208 tỷ kWh
vào năm 2030. Như vậy, đến năm 2020, theo phương án cơ sở, nước ta sẽ thiếu tới
36 tỷ kWh và đến năm 2030 thiếu gần 119 tỷ kWh. Xu huống gia tăng sự thiếu hụt
nguồn điện trong nước sẽ ngày càng gay gắt hơn và tiếp tục kéo dài trong
những giai đoạn sau.
Để giải quyết
cán cân cung cầu này, trong Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn
2004 - 2010, định hướng đến năm 2020, một trong các phương án cung ứng điện
năng mà Bộ Công nghiệp đã đề xuất là xây dựng nhà máy ĐHN. Với nhưng ưu điểm về
công nghệ cao, vận hành an toàn, ổn định, chi phí và khối lượng dự trữ nhiên liệu
nhỏ, ít phát thải ô nhiễm môi trường và giá thành cạnh tranh với các loại nhiệt
điện khác, ĐHN là một lựa chọn khả thi đã được xem xét trong cân đối nhu cầu điện
của nước ta vào năm 2020. Theo phương án đó, nhà máy ĐHN đầu tiên sẽ được xây dựng
với quy mô công suất từ 2.000 MW - 4.000 MW chiếm 5% - 9% tổng công suất phát
điện của quốc gia.
c) Thuận lợi
và khó khăn đối với phát triển điện hạt nhân
Thuận lợi cơ
bản là sự nhất quán về chủ trương nghiên cứu và phát triển ĐHN của Đảng và Nhà
nước, được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, trong Chiến lược
phát triển KH&CN đến năm 2010, Chiến lược phát triển ngành điện hết năm
2010 và trong các quyết định của Chính phủ.
Thuận lợi tiếp
theo là sự phát triển kinh tế - xã hội đặt ra nhu cầu cấp bách và khách quan khả
năng lựa chọn ĐHN làm một nguồn năng lượng quan trọng trong cơ cấu nguồn quốc
gia như đã đặt ra với nhiều quốc gia khác trong giai đoạn CNH - HĐH. Ngoài ra,
công nghệ ĐHN trên thế giới đã phát triển rất cao, nhiều công ty, tập đoàn lớn
trên thế giới hoạt động lĩnh vực này đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, đã và
đang trở thành các đối tác, bạn hàng lớn của các nước có nhu cầu phát triển
ĐHN. Với quan điểm hội nhập quốc tế rộng rãi, chúng ta có thể tranh thủ tối đa
sự hợp tác và giúp đỡ của các đối tác trong nghiên cứu lựa chọn công nghệ, đào
tạo nhân lực, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo đảm an toàn hạt nhân và xử lý chất
thải phóng xạ. Việc quyết định phát triển ĐHN ở nước ta hiện nay phù hợp với xu
thế phát triển ĐHN trên thế giới nói chung, đặc biệt là ở khu vực châu Á. Chúng
ta đã đào tạo được những cán bộ ban đầu có khả năng đảm nhận một số nhiệm vụ
trong chương trình phát triển ĐHN. Việc thực hiện thành công các dự án công
nghiệp và điện lực lớn ở Việt Nam trong những năm qua đã nâng cao năng lực của
các ngành công nghiệp trong nước, góp phần thực hiện hiệu quả các dự án ĐHN
trong tương lai.
Khó khăn
chung thế giới đối với phát triển ĐHN bao gồm: vốn đầu tư ban đầu lớn; tâm lý
lo ngại của công chúng về an toàn nhà máy ĐHN; xử lý chất thải phóng xạ hoạt độ
cao; nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân và việc đảm bảo an ninh cho các cơ sở hạt
nhân.
Nguồn nhân lực
có trình độ và kinh nghiệm, nhất là chuyên gia quản lý và kỹ thuật nhà máy ĐHN
là một trong những thách thức hàng đầu đối với chương trình phát triển ĐHN của
các nước đang phát triển nói chung, đặc biệt là những nước chuẩn bị xây dựng
nhà máy ĐHN đầu tiên như Việt Nam.
Ngoài ra, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống pháp luật phục vụ phát triển ĐHN còn ở mức sơ
khai; năng lực tài chính còn yếu; chưa có các cơ chế, chính sách dài hạn và ưu
đãi đầu tư cần thiết cho ứng dụng và phát triển NLNT, đặc biệt là ĐHN; chưa có
chính sách năng lượng quốc gia làm cơ sở cho phát triển ĐHN; nhận thức của xã hội
về vai trò của NLNT chưa đầy đủ; các vấn đề xã hội như ý thức chấp hành kỷ
cương, kỷ luật hành chính, văn hóa an toàn, văn minh công nghiệp còn thấp.
Tuy vậy so với
xuất phát điểm của Hàn Quốc khi phát triển điện hạt nhân có thu nhập bình quân
đầu người trên 60 đô la thì hiện nay thu nhập bình quân trên đầu người của
chúng ta là khoảng 400 đô la.
3. Thực trạng
về hạ tầng kỹ thuật, cơ sở pháp lý và nhân lực
a) Hạ tầng kỹ
thuật
Nhà nước đã đầu
tư một số thiết bị chủ yếu như lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, máy gia tốc nhỏ,
các thiết bị chiếu xạ, một số phòng thí nghiệm chuyên đề về hạt nhân, 2 phòng
thí nghiệm an toàn bức xạ, 1 phòng chuẩn liều bức xạ quốc gia, 3 trạm quan trắc
phóng xạ thuộc mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia và 1 cơ sở xử lý chất thải
phóng xạ của lò phản ứng.
b) Cơ sở pháp
lý
Pháp lệnh An
toàn và Kiểm soát bức xạ (1996) là công cụ pháp lý cao nhất điều chỉnh về an
toàn bức xạ. Hiện nay, Luật Năng lượng nguyên tử đang được soạn thảo và dự kiến
trình Quốc hội trong năm 2007.
Việt Nam đã
tham gia một số điều ước quốc tế liên quan đến NLNT như Hiệp ước cấm phổ biến
vũ khí hạt nhân (1982), Hiệp định thanh sát hạt nhân (1989), Hiệp ước khu vực
Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (1996) và Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện
(1996).
Việt Nam hiện
là thành viên của một số tổ chức quốc tế và khu vực về NLNT như Cơ quan Năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA), Tổ chức hợp tác vùng châu Á - Thái Bình Dương (RCA)
và Diễn đàn hợp tác hạt nhân châu Á (FNCA).
Việt Nam đã
ký 5 Hiệp định hợp tác sử dụng NLNT vì mục đích hòa bình với Nga, Trung Quốc, Ấn
Độ, Hàn Quốc và Ác-hen-ti-na, đã thiết lập quan hệ hợp tác với các tổ chức hạt
nhân của một số nước như Nhật Bản, Pháp, Canadan.
c) Nguồn nhân
lực
Cho đến nay,
đội ngũ cán bộ chuyên ngành hạt nhân đã bước đầu được hình thành và có những
đóng góp nhất định trong việc sử dụng năng lượng bức xạ phát triển kinh tế - xã
hội. Thông qua việc xây dựng, vận hành an toàn và khai thác hiệu quả lò phản ứng
hạt nhân Đà Lạt cũng như các hoạt động nghiên cứu và chuẩn bị cho chương trình
phát triển ĐHN trong những năm vừa qua, chúng ta đã có được một số cán bộ ban đầu
về các chuyên ngành liên quan đến ĐHN.
Nhìn chung,
cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn thấp kém, các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, ứng
dụng và giảng dạy còn rất nhiều thiếu thốn và lạc hậu. Hệ thống các quy định
pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ hạt nhân chưa đầy đủ và thiếu đồng
bộ. Đội ngũ cán bộ chuyên ngành hạt nhân bước đầu được hình thành nhưng tuổi
trung bình cao và chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng, trình độ và cơ cấu ngành
nghề. Mặt khác, do chưa có chiến lược và chính sách ứng dụng và phát triển NLNT
nên không thu hút được các sinh viên giỏi và các chuyên gia giỏi vào ngành hạt
nhân, thậm chí có nhiều chuyên gia giỏi đã và đang xin chuyển ra khỏi ngành, một
số cơ sở đào tạo đã không duy trì được việc đào tạo chuyên ngành hạt nhân.
4. Tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước và cơ chế chính sách
Để bảo đảm
tính độc lập của quản lý nhà nước về ứng dụng NLNT với quản lý nhà nước an toàn
bức xạ hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ đã thành lập Cục Kiểm soát và An toàn
bức xạ, hạt nhân là cơ quan giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an
toàn bức xạ, hạt nhân. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc thực hiện
chiến lược là hoàn thiện cơ chế, chính sách và cơ quan quản lý nước nước về
lĩnh vực này để đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển NLNT trong các ngành
kinh tế - xã hội.
III.
TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội và chăm sóc sức khoẻ con người.
Ứng dụng năng
lượng bức xạ là một lĩnh vực có nhiều ưu việt, đóng góp tích cực cho tăng trưởng
GDP thông qua việc nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm trong
các ngành kinh tế. Ứng dụng năng lượng bức xạ sẽ được triển khai rộng rãi trong
chẩn đoán và điều trị bệnh góp phần phục vụ tốt hơn công tác chăm sóc sức khoẻ
nhân dân.
2. Đáp ứng
nhu cầu điện năng và góp phần đảm bảo an ninh năng lượng
Với các ưu thế
về cạnh tranh kinh tế, khả năng cung cấp điện với số lượng lớn và ổn định, chi
phí nhiên liệu và chi phí vận hành bảo dưỡng thấp, lượng nhiên liệu cần ít, có
thể làm chủ được công nghệ, việc phát triển ĐHN sẽ đáp ứng nhu cầu điện năng,
đa dạng hóa nguồn cung cấp điện và góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho đất
nước. Trong giai đoạn đầu phát triển ĐHN, do lượng nhiên liệu tiêu thụ hàng năm
không lớn, nên chúng ta có thể nhập và dự trữ trong nhiều năm, trong khi các dạng
năng lượng khác thì không thể dự trữ dài hạn được. Trong tương lai xa hơn, Việt
Nam cần và có thể từng bước tiến tới làm chủ việc sản xuất nhiên liệu và sử dụng
nguồn tài nguyên urani trong nước. Các ngành công nghiệp trong nước sẽ được
phát triển, hiện đại hóa và từng bước tiến tới làm chủ công nghệ ĐHN như kinh
nghiệm của nhiều nước.
3. Góp phần
nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ và tiềm lực công nghiệp quốc gia
Phát triển
ĐHN và ứng dụng năng lượng bức xạ sẽ thúc đẩy phát triển nghiên cứu cơ bản về
NLNT và một số lĩnh vực khoa học có liên quan khác như khoa học sự sống, tế bào
học, sinh học, vật liệu học.
Phát triển
ĐHN sẽ tạo điều kiện phát triển các lĩnh vực công nghệ như quản lý dự án, thiết
bị điều khiển tự động, kiểm tra không phá huỷ, thiết kế chịu động đất, công nghệ
vật liệu, công nghệ thông tin hiện đại, phân tích an toàn quản lý chất lượng và
đảm bảo chất lượng.
Phát triển
ĐHN sẽ thúc đẩy các lĩnh vực công nghiệp khác như cơ khí, chế tạo máy, tự động
hóa, hóa chất, xây dựng, điện, điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông phát
triển và hiện đại hóa.
Việc phát triển
công nghiệp công nghệ hạt nhân sẽ góp phần nâng cao tiềm lực khoa học và công
nghệ và tiềm lực công nghiệp của quốc gia phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước như kinh nghiệm của một số nước trong phát triển ĐHN.
4. Góp phần bảo
vệ môi trường
Chiến lược
phát triển năng lượng bền vững ở mỗi quốc gia luôn gắn chặt với chiến lược
bảo vệ môi trường. Cùng với các dạng năng lượng mới và tái tạo khác, ĐHN được
xem là một nguồn năng lượng sạch, không phát thải khí CO2 và các khí
gây hiệu ứng nhà kính, đóng vai trò quan trọng góp phần bảo vệ môi trường. Các
kỹ thuật bức xạ được sử dụng để khử trùng dụng cụ y tế, phòng trừ sâu bệnh, lưu
hóa cao su, xử lý chất thải, chế tạo các chế phẩm sinh học, chế tạo vật liệu mới,…
sẽ góp phần giải quyết vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Các chất thải phóng xạ của ĐHN nhỏ về thể tích và khối lượng và
hoàn toàn có thể kiểm soát được bằng các công nghệ và thiết bị hiện đại.
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN
TỬ Ở VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM
CHỈ ĐẠO
1. Ứng dụng
và phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình và phát triển
kinh tế - xã hội.
Đây là chính
sách nhất quán của Việt Nam về việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích
hòa bình và phát triển kinh tế - xã hội.
Về ứng dụng
năng lượng bức xạ: đẩy mạnh, mở rộng và nâng cao hiệu quả ứng dụng năng lượng bức
xạ phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH. Đây là lĩnh vực có phạm vi ứng dụng rất rộng và
có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển KH&CN cũng như kinh tế - xã hội. Do đó
cần phải thúc đẩy công tác nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trên
cơ sở huy động mọi nguồn lực của xã hội.
Về phát triển
ĐHN: nhập các công nghệ hiện đại đã được thương mại hóa trên thế giới đối với
việc xây dựng những nhà máy ĐHN đầu tiên để đảm bảo yêu cầu về an toàn và kinh
tế, đồng thời tập trung nghiên cứu lợi thế của các công nghệ điện hạt nhân thế
hệ mới để chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Cần huy động mọi nguồn lực
trong nước và thông qua hợp tác quốc tế để phát triển ĐHN. Nhà máy ĐHN đầu tiên
sẽ được xây dựng theo phương thức hợp đồng chìa khóa trao tay.
2. Ứng dụng
và phát triển năng lượng nguyên tử phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho con người
và môi trường và trên cơ sở đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ tri thức,
công nghệ và đầu tư.
Để bảo đảm an
toàn trong mọi hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển NLNT phải xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hoàn thiện luật pháp về an toàn bức xạ, hạt nhân, đào
tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng và phát triển văn hóa an toàn. Thực hiện
các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh, an toàn cho các lò phản ứng, nhà máy
ĐHN và các sở nghiên cứu, ứng dụng NLNT.
Năng lượng
nguyên tử, đặc biệt ĐHN không chỉ là một lĩnh vực công nghệ cao mà còn là lĩnh
vực rất nhạy cảm về chính trị quốc tế. Do đó, hợp tác quốc tế phải tạo được sự
tin cậy của cộng đồng quốc tế về chính sách phát triển NLNT của Việt Nam và là
một trong những điều kiện bảo đảm sự thành công trong chuyển giao tri thức,
công nghệ và đầu tư. Trong hợp tác quốc tế về ĐHN, hướng vào các đối tác có nhiều
kinh nghiệm, có công nghệ tiên tiến nhất.
3. Quyết tâm
của lãnh đạo các cấp, các ngành cùng với việc huy động được sức mạnh của toàn
xã hội là điều kiện quyết định sự thành công của chiến lược ứng dụng NLNT.
Ứng dụng
NLNT, đặc biệt là phát triển ĐHN, là lĩnh vực công nghệ cao, liên ngành, dài hạn,
cần đầu tư lớn và có tác động sâu rộng đến phát triển kinh tế - xã hội,
KH&CN và công nghiệp của đất nước. Do đó, việc xây dựng và thực hiện Chiến
lược đòi hỏi phải có ý chí, quyết tâm cao của lãnh đạo các cấp, các ngành từ
trung ương đến địa phương, sự chỉ đạo tập trung, đầu tư của Nhà nước và huy động
được sức mạnh của toàn xã hội.
1. Mục tiêu:
a) Mục tiêu
chung:
Từng bước xây
dựng và phát triển ngành công nghiệp công nghệ hạt nhân có đóng góp hiệu quả trực
tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường tiềm lực khoa học và công
nghệ của đất nước.
b) Mục tiêu cụ
thể
- Ứng dụng rộng
rãi, hiệu quả năng lượng bức xạ trong các ngành kinh tế - kỹ thuật có đóng góp
tích cực cho tăng trưởng kinh tế, phục vụ nhu cầu, xã hội như chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Từng bước chế tạo các
trang thiết bị sử dụng năng lượng bức xạ, tiến tới làm chủ một số công nghệ
năng lượng bức xạ hiện đại.
- Xây dựng và
đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành an toàn, khai thác hiệu quả. Đồng
thời, xây dựng hạ tầng cơ sở vững chắc cho chương trình dài hạn về phát triển
điện hạt nhân, từng bước nâng tỷ lệ điện hạt nhân đạt mức cân bằng trong tổng sản
lượng điện năng quốc gia (khoảng 11% vào năm 2005 và 25 - 30% vào năm 2040 -
2050)
- Bảo đảm an
toàn, an ninh cho cơ sở hạt nhân và sự ủng hộ của công chúng cho phát triển điện
hạt nhân. Thực hiện các biện pháp quản lý và các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo
an toàn trong xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân và lò phản ứng nghiên
cứu. Thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh cho các cơ sở hạt nhân. Kiện toàn
cơ quan quản lý nhà nước về kiểm soát an ninh toàn hạt nhân và an toàn bức xạ.
- Xây dựng và
thực hiện kế hoạch quốc gia ứng phó khẩn cấp khi có sự cố, tai nạn bức xạ và hạt
nhân. Xây dựng mạng lưới quan trắc phóng xạ môi trường quốc gia. Tăng cường
công tác thông tin, tuyên truyền về ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ kinh
tế - xã hội.
- Xây dựng hạ
tầng kỹ thuật cho công tác nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân, tập hợp,
liên kết các nhà khoa học, các ngành công nghiệp hoạt động theo định hướng cụ
thể nhằm phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ hạt nhân quốc gia đạt trình
độ các nước tiên tiến trong khu vực cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ
cán bộ. Xây dựng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thành trung tâm nghiên cứu
- triển khai công nghệ kỹ thuật cao ứng dụng năng lượng nguyên tử ngang tầm các
nước tiên tiến trong khu vực.
2. Một số chỉ
tiêu chủ yếu
a) Đến năm
2010
- Về điện hạt
nhân: hoàn thành việc phê duyệt báo cáo đầu tư dự án xây dựng nhà máy điện hạt
nhân đầu tiên; đào tạo đủ chuyên gia về điện hạt nhân cho công đoàn tiền dự án;
quy hoạch đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề để chuẩn bị cho việc thực
hiện dự án sau năm 2010.
- Về ứng dụng
năng lượng bức xạ: bảo đảm tự sản xuất để cung cấp 50% nhu cầu về đồng vị và dược
chất phóng xạ; 50% các tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ trị; quy hoạch và
xây dựng năng lực sản xuất, lắp ráp, chế tạo thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị
X-quang, thiết bị laser và máy gia tốc; đầu tư xây dựng một số trung tâm ứng dụng
bức xạ phục vụ y tế, nông nghiệp và các ngành công nghiệp.
- Về xây dựng
và phát triển tiềm lực: hoàn thành việc phê duyệt báo cáo đầu tư xây dựng lò phản
ứng hạt nhân mới phục vụ cho nghiên cứu; quy hoạch và từng bước hoàn thiện hệ
thống cơ sở nghiên cứu triển khai về khoa học và công nghệ hạt nhân; xây dựng
cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt
nhân; xây dựng mới từ 02 đến 03 trung tâm gia tốc sản xuất đồng vị và dược chất
phóng xạ; quy hoạch xây dựng Trung tâm quốc gia về y học hạt nhân và xạ trị
trên cơ sở Trung tâm máy gia tốc hạt nhân Cyclotron sử dụng trong y tế và các
ngành kỹ thuật đặt tại Quân y viện 108. Từng bước nâng cấp tiềm lực ứng dụng
khoa học và công nghệ hạt nhân của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
- Về quy phạm
pháp luật: hoàn thành cơ bản hệ thống pháp luật về ứng dụng năng lượng nguyên tử
và an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân; xây dựng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật
và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, quy định
kỹ thuật và an toàn về sử dụng bức xạ; từng bước kiện toàn về tổ chức, cơ sở vật
chất kỹ thuật và năng lực chuyên môn của các cơ quan quản lý nhà nước về năng
lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ hạt nhân.
b) Đến năm
2015
- Về điện hạt
nhân: triển khai xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên; đào tạo đủ chuyên gia
về điện hạt nhân và huy động đủ đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề
cho thực hiện dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên; huy động tối đa mọi
nguồn lực và khả năng tham gia của công nghiệp trong nước thực hiện dự án xây dựng
nhà máy điện hạt nhân.
- Về ứng dụng
năng lượng bức xạ: bảo đảm tự sản xuất để cung cấp 70% nhu cầu về đồng vị và dược
chất phóng xạ; 80% các tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ trị; có năng lực
lắp ráp, chế tạo một số chủng loại thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị X-quang,
thiết bị laser và máy gia tốc; có một số công nghệ và sản phẩm ứng dụng năng lượng
bức xạ mang lại hiệu quả tích cực trong các ngành kinh tế - xã hội.
- Về xây dựng
và phát triển tiềm lực: hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt động lò phản ứng hạt
nhân nghiên cứu mới phục vụ công tác nghiên cứu triển khai về khoa học và công
nghệ hạt nhân; nâng cao năng lực cho các cơ sở hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác
quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân; tiếp tục xây dựng thêm
một số trung tâm gia tốc sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ; củng cố và từng
bước hoàn thiện việc xây dựng Trung tâm quốc gia về y học hạt nhân và xạ trị
trên cơ sở trung tâm máy gia tốc hạt nhân Cyclotron đặt tại Quân y viện 108; tiếp
tục việc củng cố và nâng cấp tiềm lực của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam để
có đủ khả năng làm công tác nghiên cứu - triển khai công nghệ kỹ thuật cao ứng
dụng năng lượng nguyên tử phục vụ nhu cầu phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật
và nhu cầu xã hội.
- Về xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiện toàn hệ thống thực thi pháp luật:
hoàn thiện hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt
nhân; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân;
kiện toàn về cơ sở vật chất, năng lực chuyên môn và đội ngũ cán bộ của cơ quan
quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, an toàn hạt
nhân.
c) Đến năm
2020
- Về điện hạt
nhân: đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành an toàn và khai thác hiệu
quả; đào tạo đủ chuyên gia về điện hạt nhân và huy động đủ đội ngũ kỹ thuật
viên và công nhân lành nghề cho việc thực hiện dự án xây dựng các nhà máy điện
hạt nhân tiếp theo; xây dựng năng lực về thiết kế, chế tạo thiết bị và sản xuất
vật liệu nhằm tăng cường khả năng tham gia của các ngành công nghiệp trong nước
vào việc thực hiện dự án xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tiếp theo.
- Về ứng dụng
năng lượng bức xạ: bảo đảm tự sản xuất để cung cấp 100% nhu cầu về đồng vị và
dược chất phóng xạ; 100% các tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ trị; có một
số chủng loại thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị X-quang, thiết bị laser và máy
gia tốc mang thương hiệu Việt Nam; có một số công nghệ và sản phẩm của kỹ thuật
bức xạ được ứng dụng rộng rãi và hiệu quả trong các ngành kinh tế - xã hội.
- Về xây dựng
và phát tiển tiềm lực: hoàn thành cơ bản việc xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ thuật
nghiên cứu triển khai hiện đại tầm cỡ khu vực về khoa học và công nghệ hạt
nhân; có cơ sở hỗ trợ kỹ thuật đồng bộ, hiện đại phục vụ công tác quản lý nhà
nước về năng lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân; tiếp tục
xây dựng thêm một số trung tâm gia tốc sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ;
hoàn thành cơ bản việc xây dựng Trung tâm quốc gia về y học hạt nhân và xạ trị
hoàn thiện việc nâng cấp tiềm lực nghiên cứu triển khai ứng dụng năng lượng
nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Viện Năng lượng nguyên tử Việt
Nam.
- Về quy phạm
pháp luật: hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật và hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước về năng lực nguyên tử và về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.
1. Ứng dụng
năng lượng bức xạ
a) Trong y tế
Xây dựng và
thực hiện kế hoạch phát triển các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bệnh sử dụng
năng lượng bức xạ nhằm đáp ứng nhu cầu của nước ta với dân số khoảng 100 triệu
dân vào năm 2020. Đầu tư phát triển kỹ thuật chụp hình bức xạ đến bệnh viện tỉnh,
mỗi bệnh viện tỉnh có ít nhất 01 máy chụp hình cắp lớp đơn quang tử (SPECT), cả
nước có một số máy chụp hình cắt lớp sử dụng đồng vị phát positon (PET). Tăng
cường đầu tư thiết bị điều trị bệnh ung thư bằng kỹ thuật chiếu xạ dùng nguồn
phóng xạ và bằng máy gia tốc, đạt tỷ lệ ít nhất 01 thiết bị chiếu xạ trên 1 triệu
dân. Lập và triển khai kế hoạch xây dựng tại mỗi tỉnh có ít nhất một cơ sở y học
hạt nhân và xạ trị. Xây dựng năng lực quốc gia về bảo dưỡng, sửa chữa và chế tạo
một số chủng loại thuết bị sử dụng năng lượng bức xạ trong y tế có nhu cầu cao
(thiết bị đo đếm bức xạ, đo liều phóng xạ, X-quang chẩn đoán, cộng hưởng từ,
máy xạ trị dùng nguồn phóng xạ và dùng chùm hạt gia tốc). Lập kế hoạch từng bước
bảo đảm sản xuất các loại đồng vị và dược chất phóng xạ trong nước đủ phục vụ
cho chẩn đoán và điều trị. Đẩy mạnh sử dụng công nghệ khử trùng các dụng cụ y tế,
mô ghép, huyết thanh bằng chiếu xạ, thay thế cho các công nghệ có hại cho sức
khỏe và môi trường. Đánh giá sức khoẻ và dinh dưỡng cộng đồng và sàng lọc một số
dị tật bẩm sinh bằng kỹ thuật đồng vị phóng xạ.
Xây dựng một
trung tâm quốc gia về y học hạt nhân, xạ trị và điều trị các bệnh về
phóng xạ.
b) Trong công
nghiệp và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác
Sử dụng và
phát triển công nghệ bức xạ trực tiếp phục vụ nhu cầu sản xuất công nghiệp và
các ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng như dầu khí, hóa chất, giao thông, xây
dựng, thăm dò và khai thác khoáng sản, năng lượng, xử lý chất thải trên cơ sở
các kỹ thuật truyền thống như: kỹ thuật kiểm tra không phá huỷ, xử lý bức xạ,
đánh dấu đồng vị phóng xạ và nguồn kín, hệ điều khiển hạt nhân tự động và các kỹ
thuật phân tích hạt nhân. Xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong lĩnh vực
kiểm tra không phá huỷ, hệ điều khiển hạt nhân tự động, đánh dấu đồng vị phóng
xạ và nguồn kín, xử lý bức xạ và phân tích hạt nhân làm đầu mối chuyển giao
công nghệ cho các ngành kinh tế - kỹ thuật và công nghiệp. Đẩy mạnh nghiên cứu
và ứng dụng NLNT trong khoa học vật liệu, đặc biệt là vật liệu nano.
c) Trong khí
tượng - thủy văn và địa chất - khoáng sản
Sử dụng và phát triển
công nghệ ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ cho công tác điều trị, đánh giá,
thăm dò tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, quản lý nguồn nước ngầm, nghiên
cứu sa bồi cửa sông, bến cảng, lòng hồ và đánh giá an toàn đê, đập, dự báo và
phòng ngừa thiên tai.
d) Trong nông
nghiệp và công nghệ sinh học
Đẩy mạnh hướng
nghiên cứu về đột biến phóng xạ để tạo giống cầy trồng, ứng dụng đồng vị đánh dấu
để nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng, thổ nhưỡng và vật nuôi. Sản xuất các chế phẩm
phục vụ nông nghiệp bằng công nghệ bức xạ. Bảo vệ rau quả, bảo vệ sức khỏe và
sinh sản động vật sử dụng công nghệ tiệt sinh sâu bệnh, côn trùng bằng bức xạ
(SIT). Mở rộng ứng dụng công nghệ chiếu xạ và các kỹ thuật phân tích hạt nhân để
đảm bảo chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm. Xây dựng một số trung tâm nông
nghiệp hạt nhân theo vùng. Nghiên cứu và ứng dụng năng lượng bức xạ trong sinh
học phân tử, công nghệ gen, tế bào học và khoa học sự sống.
đ) Trong bảo
vệ môi trường
Sử dụng các kỹ
thuật phân tích hạt nhân và liên quan trong nghiên cứu đánh giá ô nhiễm
môi trường (biển, đất, nước, không khí). Xử lý các loại chất thải bằng công nghệ
chiếu xạ gamma và công nghệ chùm điện tử gia tốc. Dò phá bom, mìn bằng kỹ thuật
hạt nhân.
e) Một số
công nghệ và sản phẩm cần tập trung nội địa hóa
- Các công
nghệ và sản phẩm dựa trên các kỹ thuật hạt nhân truyền thống trong các ngành
kinh tế - kỹ thuật và công nghiệp: kiểm tra không phá huỷ, đánh dấu phóng xạ và
nguồn kín, hệ điều khiển hạt nhân tự động, các kỹ thuật phân tích hạt nhân và kỹ
thuật xử lý bức xạ.
- Sản xuất và
sử dụng các thiết bị ghi đo hạt nhân phục vụ sản xuất, đời sống, nghiên cứu
khoa học và an ninh quốc phòng: các thiết bị đo dộ dày, mật độ, độ ẩm, đo mức,
ghi nhận rò rỉ, theo dõi ăn mòn, đo dòng chảy, phân tích đa thành phần, dò phá
bom, mìn,…
- Công nghệ
máy gia tốc phục vụ nghiên cứu khoa học, y tế và công nghiệp: các thiết bị
X-quang chẩn đoán, máy gia tốc LINAC điều trị ung thư, máy gia tốc chùm điện tử
có biến đổi sang tia X, các loại máy gia tốc khác.
- Chế tạo các
thiết bị cộng hường từ hạt nhân dùng trong y tế, nghiên cứu cấu trúc protein và
đánh giá chất lượng sản phẩm trong công nghiệp dược liệu.
- Công nghệ
laser: phát triển các công nghệ laser rắn, hoàn thiện và mở rộng việc chế tạo
và ứng dụng các sản phẩm laser đặc chủng, chiếm lĩnh thị trường trong nước và sớm
mở thị trường sang các nước trong khu vực và quốc tế.
- Các sản phẩm
đồng vị và dược chất phóng xạ được sản xuất trên lò phản ứng và máy gia tốc đủ
đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và một số nước trong khu vực.
- Các giống
cây trồng có giá trị kinh tế cao, các chế phẩm từ công nghệ bức xạ phục vụ nông
nghiệp và y tế, các công nghệ trồng trọt và chăn nuôi.
- Các vật liệu
mới phục vụ cho ngành công nghiệp và tiêu dùng được tạo ra bằng công nghệ bức xạ
trên chùm gamma, nơtron và chùm hạt gia tốc.
2. Phát triển
điện hạt nhân
a) Thực hiện
chương trình dài hạn về phát triển điện hạt nhân
Để phát huy
hiệu quả kinh tế cao của ĐHN và phát triển ngành công nghiệp công nghệ hạt nhân
cần phải xây dựng Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN. Đây là một nội dung
quan trọng để thực hiện chính sách năng lượng quốc gia. Chương trình dài hạn về
phát triển ĐHN bao gồm các nội dung sau đây:
- Quy hoạch
và kế hoạch phát triển các nhà máy ĐHN
Quy hoạch
phát triển nguồn điện, trong đó có việc lập kế hoạch xây dựng các nhà máy ĐHN đảm
bảo đến 2025 ĐHN chiếm tỷ lệ 11% và đến 2040 - 2050 ĐHN chiếm tỷ lệ 25 - 30% tổng
sản lượng điện quốc gia; quy hoạch và lựa chọn địa điểm xây dựng các nhà máy
ĐHN và cơ sở quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.
- Phát triển
nguồn nhân lực
Thành lập Ban
Chỉ đạo quốc gia về đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ĐHN. Trong nhiệm vụ
đào tạo phát triển nguồn nhân lực cần làm rõ kế hoạch, chỉ tiêu, phương thức
đào tạo để đảm bảo nhu cầu cán bộ cho các cơ quan khác nhau tham gia trong
Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN (cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức
nghiên cứu và triển khai, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo, cơ sở công nghiệp và cơ
quan chủ quản nhà máy ĐHN). Tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo cán bộ về
ĐHN.
- Nghiên cứu
và triển khai về công nghệ và nhiên liệu cho nhà máy ĐHN
Về công nghệ,
cần tập trung nghiên cứu các loại công nghệ ĐHN hiện đại đã được thương mại hóa
và xu thế phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực này, lựa chọn công nghệ
cho chương trình ĐHN của nước ta và xây dựng chính sách phát triển công nghệ.
Việc lựa chọn công nghệ cần hướng vào các đối tác có bản quyền và có nhiều kinh
nghiệm trong việc xây dựng, vận hành nhà máy ĐHN với công nghệ tiên tiến nhất.
Xây dựng năng
lực nghiên cứu và làm chủ việc thiết kế kỹ thuật nhà máy ĐHN là nhiệm vụ quan
trọng nhất trong nghiên cứu về công nghệ. Nhiệm vụ này sẽ được thực hiện qua 3
giai đoạn sau đây: giai đoạn học tập, tích luỹ công nghệ, giai đoạn chuyển giao
công nghệ và giai đoạn phát triển công nghệ.
Giai đoạn
tích lũy công nghệ sẽ được hoàn thành trước khi khởi công xây dựng nhà máy ĐHN
đầu tiên (vào khoảng năm 2015). T rong giai đoạn này, ưu tiên cao nhất dành cho
việc xây dựng đội ngũ chuyên gia thông qua các khóa huấn luyện riêng với sự trợ
giúp quốc tế và đào tạo thông qua các dự án công nghiệp lớn của quốc gia. Do
đó, một mặt cần khai thác triệt để các dự án công nghiệp lớn đang triển khai
như các dự án nhiệt điện, thủy điện, dầu khí, giao thông, xây dựng để đào tạo
các chuyên gia công nghệ có liên quan, mặt khác phải sớm xác định đối tác về ĐHN
để có các kế hoạch hợp tác trong đào tạo chuyên gia về ĐHN.
Giai đoạn
chuyển giao công nghệ được bắt đầu từ khi khởi công xây dựng nhà máy ĐHN đầu
tiên và kéo dài trong một số dự án tiếp theo.
Giai đoạn
phát triển công nghệ được bắt đầu khoảng 10 năm sau khi vận hành máy ĐHN đầu
tiên.
Về nhiên liệu,
tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ: chuẩn bị chương trình nội địa hóa sản xuất
thanh nhiên liệu từ urani nhập khẩu và nghiên cứu sử dụng thương mại tài nguyên
urani trong nước.
Việc tiến
hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai về công nghệ sản xuất nhiên liêu từ
urani nhập khẩu bao gồm thiết kế hạt nhân, tính toán thủy nhiệt, thiết kế bó
nhiên liệu, phân tích an toàn, công nghệ gốm nhiên liệu, công nghệ vỏ thanh
nhiên liệu, thử nghiệm thanh nhiên liện làm cơ sở cho việc thực hiện dự án chuyển
giao công nghệ chế tạo thanh nhiên liệu cho nhà máy ĐHN và lò phản ứng nghiên cứu
ở trong nước.
Để sử dụng
thương mại tài nguyên urani của Việt Nam, cần tiếp tục tổ chức các nghiên cứu
thăm dò và đánh giá trữ lượng tài nguyên urnai. Xây dựng hệ thống phòng thí
nghiệm về xử lý quặng, chế tạo các sản phẩm urani có độ sạch hạt nhân, chế tạo
viên gốm nhiên liệu, chế tạo các sản phẩm zirconi tinh khiết, sản xuất thử nghiệm
urani kỹ thuật cho khu vực tài nguyên cấp C. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả kinh
tế - xã hội của việc khai thác và chế biến tài nguyên urani, xây dựng chính
sách sử dụng tài nguyên urani trong nước cho chương trình dài hạn về phát triển
ĐHN.
- Đảm bảo an
toàn hạt nhân
Tăng cường
năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân.
Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ, hạt nhân bao
gồm Luật Năng lượng nguyên tử và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ban hành đầy đủ
các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn phục vụ cho việc xây dựng, vận
hành nhà máy ĐHN và quản lý an toàn bức xạ, hạt nhân.
Hình thành và
phát triển tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ kỹ thuật về an toàn bức xạ, hạt nhân có
đủ năng lực về cán bộ và phương tiện kỹ thuật để thực hiện phân tích, đánh giá
và thanh tra chuyên ngành về an toàn hạt nhân.
Xây dựng hệ
thống ứng phó khẩn cấp quốc gia để giải quyết các sự cố tai nạn bức xạ và hạt
nhân.
- Nâng cao
năng lực của các ngành công nghiệp trong nước vào việc tham gia thực hiện hiệu
quả dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Để đạt được sự
tham gia tối đa của các ngành công nghiệp trong nước vào việc thực hiện Dự án
xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên, phải xây dựng chương trình nâng cao năng lực của
các ngành công nghiệp trong nước.
- Quy hoạch về
kế hoạch phát triển các nhà máy ĐHN
Quy hoạch
phát triển nguồn điện, trong đó có việc lập kế hoạch xây dựng các nhà máy ĐHN đảm
bảo đến 2025 ĐHN chiếm tỷ lệ 11% và đến 2040 - 2050 ĐHN chiếm tỷ lệ 25 - 30% tổng
sản lượng điện quốc gia; quy hoạch và lựa chọn địa điểm xây dựng các nhà máy
ĐHN và cơ sở quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.
- Phát triển
nguồn nhân lực
Thành lập Ban
Chỉ đạo quốc gia về đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ĐHN. Trong nhiệm vụ
đào tạo phát triển nguồn nhân lực cần làm rõ kế hoạch, chỉ tiêu, phương thức
đào tạo để đảm bảo nhu cầu cán bộ cho cán cơ quan khác nhau tham gia chương
trình dài hạn về phát triển ĐHN (cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức nghiên cứu
và triển khai, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo, cơ sở công nghiệp và cơ quan chủ quản
nhà máy ĐHN). Tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo cán bộ về ĐHN.
- Nghiên cứu
và triển khai về công nghệ và nhiên liệu cho máy ĐHN.
Về công nghệ,
cần tập trung nghiên cứu các loại công nghệ ĐHN hiện đại đã được thương mại hóa
và xu thế phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực này, lựa chọn công nghệ
cho chương trình ĐHN của nước ta và xây dựng chính sách phát triển công nghệ.
Việc lựa chọn công nghệ cần hướng vào các đối tác có bản quyền và có nhiều kinh
nghiệm trong việc xây dựng, vận hành nhà máy ĐHN với công nghệ tiên tiến nhất.
Xây dựng năng
lực nghiên cứu và làm chủ việc thiết kế kỹ thuật nhà máy ĐHN là nhiệm vụ quan
trọng nhất trong nghiên cứu về công nghệ. Nhiệm vụ này sẽ được thực hiện qua 3
giai đoạn sâu đây: giai đoạn học tập, tích lũy công nghệ, giai đoạn chuyển giao
và giai đoạn phát triển công nghệ.
Giai đoạn
tích lũy công nghệ sẽ được hoàn thành trước khi khởi công xây dựng nhà máy ĐHN
đầu tiên (vào khoảng năm 2015). Trong giai đoạn này, ưu tiên cao nhất dành cho
việc xây dựng đội ngũ chuyên gia thông qua các khóa huấn luyện riêng với sự trợ
giúp quốc tế và đào tạo thông qua các dự án công nghiệp lớn của quốc gia. Do
đó, một mặt cần khai thác triệt để các dự án công nghiệp lớn đang triển khai
như các dự án nhiệt điện, thủy điện, dầu khí, giao thông, xây dựng để đào tạo
các chuyên gia công nghệ có liên quan, mặt khác phải sớm xác định đối với về
ĐHN để có các kế hoạch hợp tác trong đào tạo chuyên gia về ĐHN.
Giai đoạn
chuyển giao công nghệ được bắt đầu từ khi khởi động xây dựng nhà máy ĐHN đầu
tiên và kéo dài trong công một số dự án tiếp theo.
Giai đoạn
phát triển công nghệ được bắt đầu khoảng 10 năm sau khi vận hành nhà máy ĐHN đầu
tiên.
Về nhiên liệu,
tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ: chuẩn bị chương trình nội địa hóa sản xuất thanh
nhiên liệu từ urani nhập khẩu và nghiên cứu sử dụng thương mại tài nguyên urani
trong nước.
Việc tiến
hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai về công nghệ sản xuất nhiên liệu từ
urani nhập khẩu bao gồm thiết kế hạt nhân, tính toán thủy nhiệt, thiết kế bó
nhiên liệu, phân tích an toàn, công nghệ gốm nhiên liệu, công nghệ vỏ thanh
nhiên liệu, thử nghiệm thanh nhiên liệu làm cơ sở cho việc thực hiện dự án chuyển
giao công nghệ chế tạo thanh nhiên liệu cho nhà máy ĐHN và lò phản ứng nghiên cứu
ở trong nước.
Để sử dụng
thương mại tài nguyên urani của Việt Nam, cần tiếp tục tổ chức các nghiên cứu
thăm dò và đánh giá trữ lượng tài nguyên urani. Xây dựng hệ thống phòng thí
nghiệm về xử lý quặng, chế tạo sản phẩm urani có độ sạch hạt nhân, chế tạo viên
gốm nhiên liệu, chế tạo các sản phẩm zirconi tinh khiết, sản xuất thử nghiệm
urani kỹ thuật cho khu vực tài nguyên cấp C1. Trên cơ sở đánh giá hiệu
quả kinh tế - xã hội của việc khai thác và chế biến tài nguyên urani, xây dựng
chính sách sử dụng tài nguyên urani trong nước cho chương trình dài hạn về phát
triển ĐHN.
- Đảm bảo an
toàn hạt nhân
Tăng cường
năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân.
Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ, hạt nhân bao
gồm Luật Năng lượng nguyên tử và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ban hành đầy đủ
các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn phục vụ cho việc xây dựng, vận
hành nhà máy ĐHN và quản lý an toàn bức xạ, hạt nhân.
Hình thành và
phát triển tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ kỹ thuật về an toàn bức xạ, hạt nhân có
đủ năng lượng về cán bộ và phương tiện kỹ thuật để thực hiện phân tích, đánh
giá và thanh tra chuyên ngành về an toàn hạt nhân.
Xây dựng hệ
thống ứng phó khẩn cấp quốc gia để giải quyết các sự cố tai nạn bức xạ và hạt
nhân.
- Nâng cao
năng lực của các ngành công nghiệp trong nước vào việc tham gia thực hiện hiệu
quả dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Để đạt được sự
tham gia tối đa của các ngành công nghiệp trong nước vào việc thực hiện Dự án
xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên, phải xây dựng chương trình nâng cao năng lực của
các ngành công nghiệp trong nước.
Từ nay đến
năm 2015 Chương trình tập trung vào việc xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy sự
tham gia của các ngành công nghiệp trong nước và nâng cao năng lực thiết kế, chế
tạo thiết bị, vật tư và sản xuất vật liệu xây dựng. Trên cơ sở đó, huy động các
ngành công nghiệp trong nước tham gia cung cấp thép xây dựng, thép cấu trúc,
các vật liệu xây dựng, hệ thiết bị trao đổi nhiệt, các bình chứa, đường ống,
cáp điện, hệ thống chiếu sáng cho Dự án xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên. Đồng thời,
tham gia các hoạt động quản lý dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật, bảo đảm và
kiểm tra chất lượng, vận chuyển các thiết bị siêu trường siêu trọng, xây lắp,
kiểm tra thiết bị,…
- Hợp tác quốc
tế
Nhiệm vụ của
công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực NLNT trước hết là phải làm cho cộng đồng
quốc tế tin tưởng vào chính sách nhất quán của Chính phủ Việt Nam về ứng dụng
và phát triển NLNT vì mục đích hòa bình để tạo điều kiện cho việc chuyển giao
tri thức, công nghệ và đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức thực hiện đầy đủ các Công ước
và Điều ước quốc tế khác có liên quan đến NLNT. Hợp tác chặt chẽ và toàn diện với
Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Đẩy mạnh các hợp tác đa phương và
song phương với các nước và các tổ chức quốc tế, tạo môi trường thuận lợi nhất
để khai thác tối đa kinh nghiệm và sự trợ giúp của các nước tiên tiến.
b) Thực hiện
dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên
- Lập và phê
duyệt Báo cáo đầu tư xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên bao gồm những nội dung chính
là quy mô, địa điểm, công nghệ, an toàn, quản lý chất thải phóng xạ, đánh giá
tác động môi trường, đảm bảo nguồn nhân lực, phương án tài chính và lộ trình
xây dựng nhà máy.
- Xây dựng hồ
sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu và ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ và xây dựng
nhà máy.
- Đào tạo cán
bộ vận hành nhà máy theo hợp đồng với nhà thầu.
- Thực hiện đầy
đủ các quy trình, thủ tục xây dựng theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng, vận
hành thử và vận hành thương mại bảo đảm chất lượng, tiến độ, an toàn và hiệu quả.
3. Xây dựng
và phát triển tiềm lực
a) Cơ sở vật
chất - kỹ thuật
Phát triển đồng
bộ các cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác bảo đảm an toàn bức xạ,
hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ, nghiên cứu - triển khai, đào tạo nhân lực
là một trong các nhiệm vụ và đồng thời cũng là giải pháp quan trọng để thực hiện
thành công Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình, cụ thể là:
- Tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân trong các hoạt động
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng NLNT và cho công tác đảm bảo an ninh các lò
phản ứng. Quy hoạch và xây dựng mạng lưới quan trắc phóng xạ môi trường quốc
gia. Xây dựng năng lực kỹ thuật để thực hiện Kế hoạch quốc gia về ứng phó khẩn
cấp sự cố bức xạ và hạt nhân. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ cho tổ chức
hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân.
- Tăng cường
năng lực cơ sở hạ tầng kỹ thuật về quản lý chất thải phóng xạ trong phạm vi
toàn quốc bao gồm các tổ chức nghiên cứu và triển khai, xử lý và lưu giữ chất
thải phóng xạ và lập phương án xử lý lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sau khi kết
thúc hoạt động.
- Tăng cường
năng lực các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ hạt nhân và các lĩnh vực có liên quan với việc trang bị các thiết bị tiên
tiến như lò phản ứng nghiên cứu công suất lớn đa mục tiêu, máy gia tốc, thiết bị
cộng hưởng từ, thiết bị laser, thiết bị nghiên cứu về nhiên vật liệu hạt nhân
và các thiết bị nghiên cứu khác.
- Tăng cường
đầu tư trang thiết bị và hiện đại hóa phương tiện, chương trình đào tạo cho các
cơ sở đào tạo về khoa học và công nghệ hạt nhân.
b) Phát triển
nguồn nhân lực
Phát triển
nguồn nhân lực phải được quan tâm đi trước một bước. Cùng với chương trình đào
tạo phát triển nguồn nhân lực cho ĐHN như đã nêu ở trên, phải xây dựng kế hoạch
đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ứn dụng năng lượng bức xạ trong các ngành
kinh tế - xã hội. Ngoài việc đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ, cần chú trọng
đào tạo cán bộ quản lý, hoạch định chính sách và luật pháp trong lĩnh vực ứng dụng
NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
1. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý
Hoàn thiện hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt
nhân theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập giữa các cơ quan này trong quá trình
thực thi nhiệm vụ của mình. Quy hoạch và xây dựng các tổ chức nghiên cứu - triển
khai, hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước, sản xuất và dịch vụ trong lĩnh
vực ứng dụng năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt nhân.
2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính
sách
Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử bao gồm ban hành Luật
Năng lượng nguyên tử, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành, các quy định,
quy chế, tiêu chuẩn kỹ thuật và các cơ chế, chính sách phù hợp với tính chất đặc
thù có yêu cầu cao về tính an toàn, kỷ luật hành chính, sự phức tạp về kỹ thuật
và nhạy cảm về chính trị.
3. Phát triển nguồn nhân lực
Tạo bước chuyển
mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là xây dựng các cơ sở giáo dục và
đào tạo, các tổ chức nghiên cứu triển khai về khoa học và công nghệ hạt nhân.
Xây dựng kế hoạch quốc gia về phát triển nguồn nhân lực bao gồm đội ngũ chuyên
gia, kỹ thuật viên và công nhân lành nghề đáp ứng yêu cầu ứng dụng năng lượng
nguyên tử, đặc biệt là phát triển điện hạt nhân. Tập trung đào tạo, nâng cao
trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề
trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Củng cố, từng bước đổi mới trang thiết bị
và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ giảng dạy bộ môn vật lý hạt
nhân để đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ hạt nhân tại các trường đại học,
có chính sách thu hút học sinh giỏi, phát huy tài năng của các chuyên gia trong
nước và thu hút các chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong
lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
4. Xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia:
Chương trình
mục tiêu quốc gia nhằm từng bước hình thành và phát triển ngành công nghiệp
công nghệ hạt nhân. Nội dung chủ yếu của chương trình bao gồm các nội dung sau:
- Triển khai
một cách rộng rãi và hiệu quả việc ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ các lĩnh
vực kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, từng bước sản xuất và phát triển
các sản phẩm và công nghệ ứng dụng năng lượng bức xạ mang thương hiệu Việt Nam.
- Triển khai
thực hiện Dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên và huy động tối đa năng
lực của các ngành công nghiệp trong nước tham gia thực hiện dự án.
- Xây dựng và
thực hiện Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ về năng lượng nguyên tử,
cụ thể là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các tổ chức nghiên cứu và triển
khai công nghệ kỹ thuật cao ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, các cơ sở đào tạo chuyên gia khoa học - công nghệ hạt
nhân, các cơ sở dịch vụ và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về
năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và an toàn bức xạ, hạt nhân. Xây dựng lò
phản ứng hạt nhân nghiên cứu mới công suất lớn đa mục tiêu, trang bị các máy
gia tốc và các thiết bị nghiên cứu hiện đại khác.
- Quy hoạch địa
điểm cho các nhà máy điện hạt nhân và cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ. Điều tra
tài nguyên xạ hiếm.
5. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh cho cơ sở hạt
nhân và sự ủng hộ của công chúng cho phát triển điện hạt nhân.
Thực hiện các
biện pháp quản lý và các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo an toàn, an ninh trong
xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng nghiên cứu. Xây dựng
các đơn vị có khả năng ứng phó khẩn cấp khi có sự cố, tai nạn bức xạ và hạt
nhân. Xây dựng và bảo đảm việc hoạt động của mạng lưới quan trắc phóng xạ môi
trường quốc gia. Thường xuyên cập nhật các thông tin về ứng dụng năng lượng
nguyên tử phục vụ kinh tế - xã hội.
6. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh hợp
tác và hội nhập quốc tế phục vụ cho việc đào tạo, chuyển giao công nghệ về ứng
dụng năng lượng bức xạ và phát triển điện hạt nhân, gắn hợp tác quốc tế về năng
lượng nguyên tử với hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ và hợp tác quốc tế
về kinh tế, tạo sự tin cậy và hợp tác của cộng đồng quốc tế đối với chương
trình phát triển hạt nhân của Việt Nam, hướng vào các đối tác có công nghệ tiên
tiến và nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát triển điện hạt nhân.
7. Đầu tư, tài chính và huy động vốn
Cần đa dạng
hóa các nguồn vốn đầu tư cho ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ cho các ngành
kinh tế - xã hội. Để bảo đảm ngân sách cho thực hiện Chiến lược, cần huy động
và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các nguồn vốn hợp tác
song phương và đa phương của các tổ chức quốc tế, vốn đầu tư nước ngoài, vốn của
các doanh nghiệp trong nước và của cộng đồng. Nguồn vốn ngân sách nhà nước tập
trung cho nhu cầu nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng và phát
triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và luật pháp, nâng cao năng lực cho cơ quan quản
lý nhà nước và các cơ quan hỗ trợ kỹ thuật cho quản lý nhà nước. Nhà nước bảo đảm
việc huy động vốn từ nguồn vay nước ngoài và nguồn năng lực của xã hội để phát
triển điện hạt nhân.
8. Tổ chức thực hiện
a) Bộ Khoa học
và Công nghệ
- Thực hiện
quản lý nhà nước về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ, hạt nhân.
- Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban hành hoặc ban
hành theo thẩm quyền hệ thống tổ chức quản lý nhà nước, các văn bản quy phạm
pháp luật và các cơ chế, chính sách về ứng dụng năng lượng nguyên tử và an toàn
bức xạ, hạt nhân.
- Xây dựng và
phối hợp tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch nghiên cứu và triển khai
trong lĩnh vực NLNT, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu -
triển khai về khoa học và công nghệ hạt nhân và hỗ trợ kỹ thuật về an toàn bức
xạ, hạt nhân.
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên quan tổ chức nghiên cứu về công
nghệ và nhiên liệu cho nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai ứng dụng
công nghệ năng lượng bức xạ phục vụ các lĩnh vực kinh tế - xã hội và an ninh quốc
phòng, hình thành và phát triển các sản phẩm và công nghệ mang thương hiệu Việt
Nam.
- Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá, cấp phép an toàn bức xạ, hạt nhân.
- Thẩm định
và xác nhận đăng ký các hợp đồng chuyển giao công nghệ, dự án xây dựng nhà máy
ĐHN.
b) Bộ Công
nghiệp
- Lập quy hoạch
và kế hoạch phát triển các nhà máy ĐHN, lựa chọn địa điểm, tổ chức xây dựng, quản
lý và vận hành các nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện
kế hoạch tổng thể về nâng cao năng lực các ngành công nghiệp trong nước nhằm
tham gia hiệu quả vào việc thực hiện các dự án xây dựng nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ, ngành liên quan đào tạo cán bộ quản lý dự án, cán bộ và công nhân kỹ
thuật, cán bộ vận hành cho các dự án ĐHN.
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai ứng dụng kỹ thuật bức xạ trong các
ngành công nghiệp và đảm bảo an toàn trong các hoạt động này.
c) Bộ Kế hoạch
và Đầu tư
- Chủ trì, phối
hợp với các cơ quan liên quan xây dựng các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ;
các nguồn vốn (trong đó có nguồn vốn ngân sách) để thực hiện Chiến lược ứng dụng
NLNT vì mục đích hòa bình, xây dựng nhà máy ĐHN trình Chính phủ phê duyệt.
- Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan thẩm định xét duyệt thầu xây dựng các hạng mục
và toàn bộ nhà máy ĐHN.
- Phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên quan xây dựng kế
hoạch ứng dụng năng lượng bức xạ trong các ngành kinh tế - xã hội, kế hoạch xây
dựng các nhà máy ĐHN, xây dựng cơ chế, chính ưu đãi về đầu tư, đa dạng hóa
phương thức đầu tư, danh mục các dự án đầu tư khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia trình Chính phủ phê duyệt.
d) Bộ Tài
chính
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch cân đối
các nguồn vốn để tập trung ngân sách hàng năm cho ứng dụng NLNT và đảm bảo an
toàn bức xạ, hạt nhân.
- Bố trí vốn
tín dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển, vốn ODA và các nguồn vay song phương
của các nước cho các dự án xây dựng nhà máy ĐHN, ứng dụng năng lượng bức xạ và
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngành NLNT. Huy động thị trường tài chính trong
và ngoài nước để thu hút các nguồn cho phát triển ngành NLNT.
đ) Bộ Y tế
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây dựng quy hoạch,
kế hoạch triển khai nghiên cứu, ứng dụng năng lượng bức xạ trong việc chăm sóc
sức khỏe nhân dân phù hợp với Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình.
- Tổ chức
nghiên cứu y học phóng xạ và hạt nhân, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn
bức xạ trong y tế.
- Cấp phép sản
xuất và lưu hành các dược chất phóng xạ dùng trong y tế; cấp phép cho các sản
phẩm thực phẩm đã qua chiếu xạ theo quy định của pháp luật.
e) Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây dựng quy hoạch,
kế hoạch triển khai nghiên cứu, ứng dụng năng lượng bức xạ trong tạo giống cây
trồng, quản lý và cải tạo đất, quản lý nước tưới, sản xuất phân bón và các chế
phẩm bức xạ phục vụ nông nghiệp, kiểm soát sâu bệnh, sức khoẻ sinh sản động vật,
bảo quản lương thực, thực phẩm phù hợp với Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích
hòa bình.
- Thực hiện
các biện pháp đảm bảo an toàn bức xạ trong các hoạt động ứng dụng NLNT trong
ngành nông nghiệp.
g) Bộ Giáo dục
và Đào tạo
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch
quốc gia về đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho chương trình NLNT, xây dựng
chương trình đào tạo, mạng lưới các cơ sở đào tạo đại học, trên đại học và tổ
chức công tác đào tạo để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho chương trình phát triển
ĐHN và ứng dụng năng lượng bức xạ.
- Tiến hành
các nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực KH&CN hạt nhân.
h) Bộ Tài
nguyên và Môi trường
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành, địa phương
liên quan tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên khoáng sản urani, thori phục vụ
cho chương trình phát triển ĐHN của Việt Nam.
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành và địa phương liên quan triển
khai ứng dụng năng lượng bức xạ trong địa chất, khoáng sản, khí tượng, thủy
văn, đặc biệt trong đánh giá và quản lý tài nguyên nước, dự báo thời tiết và
thiên tai.
- Thẩm định
và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường các dự án hạt nhân.
i) Bộ Xây dựng
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan triển
khai lập quy hoạch và đầu tư cho các Tổng công ty xây dựng lớn về năng lực xây
lắp, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề để có thể tham gia thực hiện
dự án xây dựng nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên quan triển
khai soạn thảo và trình ban hành tiêu chuẩn Việt Nam về xây dựng các nhà máy
ĐHN và cơ sở quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.
k) Bộ Ngoại
giao
Phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên quan trong hợp
tác quốc tế về NLNT, bao gồm cả việc tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế
về NLNT.
l) Bộ Quốc
phòng
Chủ trì, phối
hợp với các cơ quan liên quan đảm bảo an toàn, an ninh cho các cơ sở hạt nhân.
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch quốc gia ứng phó khẩn cấp các sự cố bức
xạ và hạt nhân.
m) Bộ Công an
Chủ trì, phối
hợp với các cơ quan liên quan quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai các biện
pháp đảm bảo an ninh trong lĩnh vực NLNT. Tham gia giám sát và ứng phó khẩn cấp
các sự cố bức xạ và hạt nhân.
n) Bộ Tư pháp
Phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng và trình ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ, hạt nhân.
o) Bộ Văn hóa
– Thông tin
Tổ chức tuyên
truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân về vai trò của NLNT đối với phát triển
kinh tế - xã hội; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ứng dụng NLNT
và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.
p) Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam
Tham gia thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng và phát triển ngành công nghiệp
công nghệ hạt nhân. Thực hiện các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng NLNT
và tham gia đào tạo chuyên gia về KH&CN hạt nhân.
q) Các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Theo chức
năng và nhiệm vụ của mình, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành
liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng NLNT và đảm bảo an toàn bức
xạ, hạt nhân trên phạm vi toàn quốc.
r) Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Theo chức
năng, nhiệm vụ của mình, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành
liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng NLNT, đảm bảo an toàn bức
xạ, hạt nhân, đảm bảo an ninh và tham gia ứng phó các sự cố bức xạ và hạt
nhân tại địa phương./.