VĂN PHÒNG QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 22/VBHN-VPQH
|
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2013
|
PHÁP LỆNH
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TÒA
ÁN NHÂN DÂN
Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân số 02/2002/PL-UBTVQH11 ngày 04 tháng
10 năm 2002 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 10
năm 2002, được sửa đổi, bổ sung bởi:
Pháp
lệnh số 14/2011/UBTVQH12 ngày 19 tháng 02 năm 2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
Căn
cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội
khóa X, kỳ họp thứ 10;
Căn
cứ vào Luật tổ chức Tòa án nhân dân;
Pháp
lệnh này quy định về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân[1].
Chương I
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
1.
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật
để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án.
2.
Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét
xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Điều 2[2]
1.
Thẩm phán Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam gồm có:
a)
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
b)
Thẩm phán trung cấp;
c)
Thẩm phán sơ cấp;
d)
Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương đồng thời
là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp.
2.
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương có Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là
Tòa án nhân dân cấp tỉnh), Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện), Tòa án quân sự quân khu và tương
đương, Tòa án quân sự khu vực có Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp.
Số
lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
3.
Hội thẩm Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
a)
Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp
huyện (gọi chung là Hội thẩm nhân dân);
b)
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân
Tòa án quân sự khu vực (gọi chung là Hội thẩm quân nhân).
Điều 3
Việc xét xử của Tòa án nhân dân địa phương có Hội thẩm nhân
dân tham gia; việc xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự khu
vực có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét
xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Điều 4
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
Điều 5
1.
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và
trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình
độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác
thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có
sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán.
2.
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức
pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức
khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội
thẩm.
Điều 6
Thẩm phán, Hội thẩm chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Điều 7
Thẩm phán, Hội thẩm phải giữ bí mật nhà nước và bí mật công
tác theo quy định của pháp luật.
Điều 8
Thẩm phán, Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó thực hiện nhiệm
vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại
có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật.
Điều 9
Thẩm phán, Hội thẩm được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử.
Chánh
án Tòa án các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ
chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm.
Điều 10
1.
Thẩm phán, Hội thẩm phải tôn trọng nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân.
Khi
phát hiện hành vi trái pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm thì cơ quan nhà nước, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức
xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân có quyền yêu cầu, kiến
nghị, khiếu nại; cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan có thẩm quyền để
xem xét trách nhiệm đối với Thẩm phán, Hội thẩm.
2.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán, Hội thẩm có quyền liên hệ
với cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan, tổ chức
và công dân có trách nhiệm tạo điều kiện để Thẩm phán, Hội thẩm làm nhiệm vụ.
Nghiêm
cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ.
Chương II
NHIỆM
VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI THẨM PHÁN ĐIỀU ĐỘNG, BIỆT PHÁI THẨM
PHÁN
Điều 11
Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án nơi
mình công tác hoặc Tòa án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn.
Nhiệm
vụ, quyền hạn cụ thể của Thẩm phán do pháp luật quy định.
Điều 12
Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi
hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc
khác theo quy định của pháp luật.
Điều 13
Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp,
pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng,
tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Điều 14
Thẩm phán có trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ Tòa án.
Điều 15
Thẩm phán không được làm những việc sau đây:
1.
Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm;
2.
Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc
giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật;
3.
Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của
mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án;
4.
Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì
nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền;
5.
Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà
mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
Điều 16
Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi
trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.
Điều 17
1.
Thẩm phán có thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp
trách nhiệm và các phụ cấp khác do pháp luật quy định.
2.
Thẩm phán khi đi làm nhiệm vụ được miễn phí cầu, phà, đường theo quy định của
pháp luật.
Điều 18
Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để
làm nhiệm vụ.
Mẫu
trang phục, chế độ cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
Điều 19[3]
1.
Để bảo đảm cho các Tòa án nhân dân thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
a)
Điều động Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm
nhiệm vụ tại Tòa án nhân dân khác không cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
b)
Biệt phái Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm
nhiệm vụ có thời hạn tại Tòa án nhân dân khác không cùng một tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.
2.
Để bảo đảm cho các Tòa án nhân dân địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh quyết định:
a)
Điều động Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm
nhiệm vụ tại Tòa án nhân dân khác trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
b)
Biệt phái Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án nhân dân này đến làm
nhiệm vụ có thời hạn tại Tòa án nhân dân khác trong cùng một tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
3.
Để bảo đảm cho các Tòa án quân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng quyết định:
a)
Điều động Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án quân sự này đến làm
nhiệm vụ tại Tòa án quân sự khác sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao;
b)
Biệt phái Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ Tòa án quân sự này đến làm
nhiệm vụ có thời hạn tại Tòa án quân sự khác.
Chương III
TIÊU
CHUẨN THẨM PHÁN. THỦ TỤC TUYỂN CHỌN, BỔ NHIỆM, MIỄN NHIỆM, CÁCH CHỨC THẨM PHÁN
Điều 20[4]
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp
lệnh này, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại
ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
quân sự.
Điều 21[5]
1.
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của
Pháp lệnh này và đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử
những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy
định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm
phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ
thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án
quân sự.
2.
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có đủ tiêu
chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã có
thời gian làm công tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực xét xử những
vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của
pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp
thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự.
Điều 22[6]
1.
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của
Pháp lệnh này và đã là Thẩm phán trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét
xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ
thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.
2.
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có đủ tiêu
chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã có
thời gian làm công tác pháp luật từ mười lăm năm trở lên, có năng lực xét xử những
vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án quân sự trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có
thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.
Điều 23[7]
Trong trường hợp cần thiết, người công tác trong ngành Tòa
án nhân dân hoặc người do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác
tại ngành Tòa án nhân dân tuy chưa có đủ thời gian làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm
phán trung cấp hoặc chưa có đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ
các tiêu chuẩn khác quy định tại các điều 20, 21 hoặc Điều 22 của Pháp lệnh này,
thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm phán
trung cấp thuộc Tòa án nhân dân hoặc Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người
đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm
phán sơ cấp hoặc Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự hoặc Thẩm phán Tòa án
quân sự trung ương.
Điều 24
Nhiệm kỳ của Thẩm phán là năm năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 25[8]
1.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân gồm có:
a)
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự
trung ương;
b)
Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân
dân;
c)
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án quân sự.
2.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể. Quyết định của Hội
đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán
thành.
Điều 26
1.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương gồm có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm
Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là ủy viên.
Danh
sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán
Tòa án quân sự trung ương do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự
trung ương có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a)
Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán
Tòa án quân sự trung ương theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và
trình Chủ tịch nước bổ nhiệm;
b)
Xem xét những trường hợp Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án
quân sự trung ương có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 29 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước miễn nhiệm;
c)
Xem xét những trường hợp Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án
quân sự trung ương có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 30 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước cách chức.
Điều 27[9]
1.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
thuộc Tòa án nhân dân gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
làm Chủ tịch, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Sở Nội vụ, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia cấp tỉnh là ủy viên.
Danh
sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc
Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của
Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
2.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân
có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a)
Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc
Tòa án nhân dân theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và đề nghị
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm;
b)
Xem xét những trường hợp Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
nhân dân có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán quy định tại khoản
2 Điều 29 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh
và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao miễn nhiệm;
c)
Xem xét những trường hợp Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
nhân dân có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán quy định tại khoản
2 Điều 30 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh
và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cách chức.
Điều 28[10]
1.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
thuộc Tòa án quân sự gồm có Chánh án Tòa án quân sự trung ương làm Chủ tịch, đại
diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là ủy viên.
Danh
sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc
Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của
Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
2.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án quân sự
có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a)
Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc
Tòa án quân sự theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự trung ương và đề nghị Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm;
b)
Xem xét những trường hợp Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
quân sự có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán quy định tại khoản
2 Điều 29 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự trung
ương và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao miễn nhiệm;
c)
Xem xét những trường hợp Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
quân sự có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán quy định tại khoản
2 Điều 30 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự trung
ương và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cách chức.
Điều 29
1.
Thẩm phán đương nhiên được miễn nhiệm chức danh Thẩm
phán khi nghỉ hưu.
2.
Thẩm phán có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán do sức khỏe, do hoàn cảnh
gia đình hoặc vì lý do khác mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Điều 30
1.
Thẩm phán đương nhiên bị mất chức danh Thẩm phán khi bị
kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Thẩm phán có thể bị cách chức chức danh Thẩm
phán khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a)
Vi phạm trong công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của Tòa
án;
b)
Vi phạm quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh này;
c)
Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý đang đảm nhiệm theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức;
d)
Vi phạm về phẩm chất đạo đức;
đ)
Có hành vi vi phạm pháp luật khác.
Điều 31
1.
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh
án Tòa án quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2.
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng
nhân dân địa phương cùng cấp.
3.
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống
nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
4.
Trước khi đề nghị Chủ tịch nước, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cách chức các
chức vụ Chánh án, Phó Chánh án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3
của Điều này, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp có thể bị cách chức
chức danh Thẩm phán thì phải có ý kiến của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có thẩm
quyền tuyển chọn Thẩm phán đó.
5.
Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Tòa
án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự là năm năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Chương IV
NHIỆM
VỤ, QUYỀN HẠN CỦA HỘI THẨM. CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI HỘI THẨM. TIÊU CHUẨN HỘI THẨM. THỦ TỤC
BẦU, CỬ, MIỄN NHIỆM, BÃI NHIỆM HỘI THẨM
Điều 32
1.
Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa
án nơi mình được bầu hoặc cử làm Hội thẩm.
2.
Chánh án Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự
khu vực có trách nhiệm quản lý Hội thẩm theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của
Hội thẩm.
Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối
hợp ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.
Điều 33
1.
Hội thẩm được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị
tổng kết công tác xét xử của Tòa án.
Kinh
phí bồi dưỡng về nghiệp vụ cho Hội thẩm được dự toán trong kinh phí hoạt động của
Tòa án nhân dân, có sự hỗ trợ của ngân sách địa phương.
2.
Hội thẩm là cán bộ, công chức, quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phòng thì thời
gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc ở cơ quan, đơn vị.
Điều 34
1.
Hội thẩm được cấp trang phục, Giấy chứng minh Hội thẩm để
làm nhiệm vụ xét xử.
Mẫu
trang phục, chế độ cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng minh Hội thẩm do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
2.
Khi làm nhiệm vụ xét xử Hội thẩm được hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật.
Điều 35
Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi
trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.
Điều 36
Khi được Chánh án Tòa án phân công làm nhiệm vụ xét xử thì
Hội thẩm có nghĩa vụ tham gia mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do
chính đáng.
Trong
một năm mà Hội thẩm không được Chánh án Tòa án phân công làm nhiệm vụ xét xử
thì có quyền yêu cầu Chánh án Tòa án cho biết lý do.
Điều 37
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều 5 của Pháp
lệnh này thì có thể được bầu làm Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương;
nếu người đó là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng đang phục vụ
trong quân đội thì có thể được cử làm Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự cấp
quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
Điều 38
1.
Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp.
2.
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự cấp quân khu do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân
khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng
cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của
Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu sau khi thống nhất với cơ quan chính trị
quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.
3.
Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân
đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ
quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu,
quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm theo
đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất với cơ quan
chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
Điều 39
1.
Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng
nhân dân cùng cấp.
Khi
Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Hội thẩm nhân dân tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến
khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu được Hội thẩm nhân dân mới.
2.
Nhiệm kỳ của Hội thẩm quân nhân là năm năm, kể từ ngày được cử.
Điều 40
1.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có người được
bầu hoặc cử làm Hội thẩm có trách nhiệm tạo điều kiện để Hội thẩm làm nhiệm vụ.
2.
Trong thời gian Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa án thì
cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có Hội thẩm đó không được điều động,
phân công Hội thẩm làm việc khác, trừ trường hợp đặc biệt.
Điều 41
1.
Hội thẩm có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc
lý do khác.
2.
Hội thẩm bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm
pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm.
Chương V
ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH[11]
Điều 42
Pháp lệnh này thay thế Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân ngày 14 tháng 5 năm 1993.
Những
quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 43
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm
hướng dẫn, phối hợp hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này./.
|
XÁC THỰC VĂN BẢN HỢP NHẤT
CHỦ NHIỆM
Nguyễn Hạnh Phúc
|
[1] Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân có căn cứ ban hành như sau:
“Căn
cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi,
bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn
cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10;
Căn
cứ Nghị quyết số 27/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011);
Ủy ban thường vụ Quốc
hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm Tòa án nhân dân số 02/2002/PL-UBTVQH11 .”
[2] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[3] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[4] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
[5] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[6] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[7] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[8] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 7 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[9] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[10] Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 9 Điều
1 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
[11]
Điều 1 của Nghị quyết số 131/2002/NQ-UBTVQH11 ngày 04
tháng 10 năm 2002 quy định một số điểm về việc thi hành Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quy định
như sau:
“Điều
1
Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 04 tháng 10 năm
2002, có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2002.”
Điều
2 của Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011 quy định như sau:
“Điều
2
1.
Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
2. Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.”