BỘ CÔNG AN
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 05/VBHN-BCA
|
Hà Nội, ngày
29 tháng 10 năm 2013
|
NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG
GIÁO DƯỠNG
Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm
2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng có hiệu lực kể từ ngày 12 tháng 12 năm 2003, được sửa đổi, bổ sung bởi:
1. Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01 tháng 8
năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15
tháng 9 năm 2009.
2. Nghị định số 118/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 12
năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định
về việc áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15
tháng 02 năm 2011.
Căn cứ Luật
Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002;
Theo đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Công an[1],
NGHỊ ĐỊNH:
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định về đối tượng, nguyên tắc, thủ tục đưa vào trường
giáo dưỡng, thành lập, tổ chức trường giáo dưỡng, chế độ quản lý người được đưa
vào trường giáo dưỡng và những quy định khác có liên quan đến việc áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng trên cơ sở các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính.
Điều 2. Đưa vào trường giáo
dưỡng[2]
1. Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý
hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện) quyết định đối với người chưa thành niên có
hành vi vi phạm pháp luật quy định tại khoản 2 Điều này để học văn hóa, giáo dục
hướng nghiệp, học nghề, lao động, cai nghiện ma túy, sinh hoạt dưới sự quản lý,
giáo dục của trường.
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng là từ sáu tháng đến hai năm.
2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng bao gồm:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại Bộ luật Hình sự;
b) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng
quy định tại Bộ luật Hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư
trú nhất định;
c) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần
thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công
cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định;
d) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện
ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi gây rối trật tự
công cộng; càn quấy, gây gổ đánh nhau; sử dụng vũ lực hành hung người khác hoặc
chống người thi hành công vụ; tổ chức đua xe trái phép từ hai lần trở lên trong
mười hai tháng;
đ) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đang chấp
hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh, trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi mà có
hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, sử dụng vũ lực chống người thi
hành công vụ, gây rối trật tự tại cơ sở chữa bệnh từ hai lần trở lên trong mười
hai tháng.
Căn cứ pháp lý để xác định độ tuổi là Giấy khai
sinh. Nếu không có Giấy khai sinh thì phải căn cứ vào Chứng minh nhân dân; sổ hộ
khẩu hoặc sổ hộ tịch. Trong trường hợp không có các giấy tờ nêu trên, thì căn cứ
vào lời khai và tài liệu có giá trị khác để xác định độ tuổi. Độ tuổi nêu tại
các điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều này là độ tuổi khi đối tượng thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật. Nếu vào thời điểm ký quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì không áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng mà xem xét, lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục nếu thuộc đối
tượng bị áp dụng biện pháp này.
3. Trường hợp người chưa thành niên thực hiện
các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng, vừa
thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Cơ quan đã thụ lý hồ sơ có trách nhiệm chuyển
toàn bộ hồ sơ về người đó cho Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh để
tiến hành các thủ tục tiếp theo theo quy định của pháp luật.
4. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng đối với người nước ngoài.
Điều 3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng[3]
1. Mọi hành
vi vi phạm được quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị định này
đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định
của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
2. Người
chưa thành niên chỉ bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng nếu thực hiện
một trong các hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại các điểm
a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 2 của Nghị định này.
3. Việc áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng phải bảo đảm đúng người, đúng thủ tục, thẩm
quyền quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002
(được sửa đổi, bổ sung năm 2008) và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh
nêu trên.
4. Khi quyết
định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân của người vi phạm và những tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hành chính để quyết định cho phù hợp.
5. Nghiêm cấm
mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người
bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Điều 4. Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng[4]
Thời hiệu áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được quy định như sau:
1. Một năm kể
từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều
2 của Nghị định này.
2. Sáu tháng
kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm b, d, đ hoặc kể từ
khi thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 2 Điều 2 của Nghị định này.
3. Nếu trong
thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người có hành vi vi phạm cố
tình trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hành chính, thì thời gian trốn tránh
không được tính và thời hiệu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tính
lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Điều 5. Thành lập và quản lý trường giáo dưỡng[5]
1. Bộ Công
an quyết định việc thành lập các trường giáo dưỡng theo khu vực; sáp nhập hoặc
giải thể các trường giáo dưỡng. Trong trường hợp địa phương có nhu cầu thì Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh) phải xây dựng đề án cụ thể và đề nghị Bộ Công an thành lập trường
giáo dưỡng tại địa phương mình.
Trường giáo
dưỡng được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công
an, bảo đảm phù hợp với đặc điểm yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục, học tập,
cai nghiện ma túy, chữa bệnh, dạy nghề, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí
cho học sinh và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi
trường.
2. Bộ Công
an thống nhất quản lý các trường giáo dưỡng trong phạm vi cả nước; phối hợp với
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và các cơ
quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức giáo dục, dạy nghề, cai nghiện ma
túy, phòng bệnh, chữa bệnh và khám sức khỏe định kỳ cho học sinh trường giáo dưỡng
phù hợp với lứa tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 15 tuổi và từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi.
Điều 6. Nhiệm vụ của trường giáo dưỡng[6]
1. Trường
giáo dưỡng là nơi chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng người chưa
thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại khoản
2 Điều 2 của Nghị định này.
2. Trường
giáo dưỡng có nhiệm vụ tiếp nhận người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
và quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, hướng nghiệp, tổ chức cai nghiện ma
túy, tuyên truyền, chăm sóc, tư vấn, điều trị cho học sinh bị nghiễm HIV/AIDS,
chữa bệnh, dạy văn hóa, dạy nghề, tổ chức lao động, sinh hoạt phù hợp với lứa
tuổi của họ nhằm giúp đỡ họ sửa chữa những vi phạm của mình, học tập, rèn luyện
tiến bộ, phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ để trở thành công
dân lương thiện, có ích cho xã hội.
3. Tổ chức
và hoạt động của trường giáo dưỡng phải tuân theo các quy định của Nghị định
này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Điều 7. Trách nhiệm của người được đưa vào trường giáo dưỡng[7]
Người được
đưa vào trường giáo dưỡng phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội
quy của trường giáo dưỡng, chịu sự quản lý, giáo dục của trường giáo dưỡng, phải
cai nghiện ma túy (đối với người nghiện ma túy), học tập, rèn luyện, lao động,
sinh hoạt dưới sự quản lý, hướng dẫn của cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng.
Điều 8. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào trường giáo dưỡng[8]
1. Kinh phí
bảo đảm cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện,
tổ chức hoạt động của trường giáo dưỡng; kinh phí lập hồ sơ, quản lý đối tượng
trong thời gian lập hồ sơ, tổ chức đưa người vào trường giáo dưỡng; truy tìm đối
tượng bỏ trốn; tổ chức cai nghiện ma túy; điều trị cho học sinh bị nhiễm
HIV/AIDS; kinh phí bảo đảm ăn, mặc, ở, học tập, học nghề, hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục, thể thao, phòng bệnh, khám, chữa bệnh của học sinh; kinh phí
tổ chức đưa học sinh dưới 16 tuổi, học sinh bị ốm khi chấp hành xong quyết định
ra trường về địa phương không có thân nhân đến đón do ngân sách trung ương bảo
đảm và từ nguồn hỗ trợ của địa phương, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân ở trong và ngoài nước; từ kết quả lao động của trường giáo dưỡng. Phần
ngân sách trung ương bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào trường giáo dưỡng được bố trí vào dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công
an.
2. Trường
giáo dưỡng được trực tiếp nhận sự giúp đỡ về vật chất của Ủy ban nhân dân địa
phương; các cơ quan nhà nước; các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước để sử
dụng vào việc dạy văn hóa, hướng nghiệp, dạy nghề, mua sắm trang thiết bị,
phương tiện, đồ dùng phục vụ học tập, sinh hoạt, khám, chữa bệnh và tổ chức cai
nghiện ma túy cho người đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
THỦ
TỤC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng[9]
1. Đối với
người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 2 của Nghị định này cần đưa vào
trường giáo dưỡng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã) nơi người đó cư trú lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện.
Hồ sơ đề nghị
đưa vào trường giáo dưỡng gồm có:
a) Bản tóm tắt
lý lịch;
b) Biên bản,
tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó;
c) Kết quả
xét nghiệm chất ma túy (đối với người nghiện ma túy);
d) Bản trích
lục tiền án, tiền sự (nếu có);
đ) Văn bản về
các biện pháp giáo dục đã áp dụng;
e) Nhận xét
của cơ quan Công an, ý kiến của nhà trường nơi người chưa thành niên học tập, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Ban Lao động - Thương binh
và Xã hội ở cấp xã, cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó;
g) Báo cáo của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng.
2. Đối với
người chưa thành niên không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong trường
hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp tỉnh, cấp huyện trực tiếp phát hiện, điều
tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc người vi phạm chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà thuộc
đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác
minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xét
duyệt đưa vào trường giáo dưỡng.
Đối với những
đối tượng cần đưa vào trường giáo dưỡng thuộc các trường hợp nêu tại khoản 2 Điều
này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an
cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng này trong thời gian lập hồ sơ
đưa họ vào trường giáo dưỡng. Trường hợp đối tượng không có nơi cư trú nhất định
có dấu hiệu bỏ trốn, gây khó khăn cho việc lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng
thì Trưởng Công an cấp huyện ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp huyện
trong thời hạn không quá 15 ngày để lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng. Thời
gian quản lý đối tượng để lập hồ sơ tại cơ quan Công an cấp huyện được tính vào
thời hạn chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng.
Chế độ ăn, ở
của người có quyết định quản lý tại Công an cấp huyện được hưởng như chế độ ăn,
ở của học sinh trong trường giáo dưỡng.
Cơ quan Công
an cấp huyện phải bố trí nơi dành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định
nêu trên trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp huyện.
Bộ Công an
hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng và việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường
giáo dưỡng trong trường hợp nêu trên.
Hồ sơ đề nghị
đưa vào trường giáo dưỡng thuộc các trường hợp nêu tại khoản 2 Điều này gồm có:
a) Bản tóm tắt
lý lịch;
b) Biên bản,
tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó;
c) Kết quả
xét nghiệm chất ma túy (đối với người nghiện ma túy);
d) Bản trích
lục tiền án, tiền sự (nếu có);
đ) Văn bản về
biện pháp giáo dục đã áp dụng (nếu có);
e) Báo cáo của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên có hành vi vi phạm
pháp luật đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
3. Cơ quan
Công an có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập
tài liệu và lập hồ sơ đề nghị đưa người vào trường giáo dưỡng.
4. Trường hợp
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa
bệnh, trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi mà có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ,
đánh bạc nhỏ, sử dụng vũ lực chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự tại
cơ sở chữa bệnh từ hai lần trở lên trong mười hai tháng, thì Giám đốc cơ sở chữa
bệnh có trách nhiệm lập hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã
ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh để xem xét, quyết định
việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng theo thủ tục chung quy định tại
khoản 5 Điều 9 và các Điều 10, 13, 14 Nghị định này.
Hồ sơ trình
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc trường hợp nêu tại khoản 4 Điều này, gồm
có:
a) Toàn bộ hồ
sơ khi đưa vào cơ sở chữa bệnh;
b) Tài liệu
về các vi phạm pháp luật của người đó trong thời gian chấp hành quyết định tại
cơ sở chữa bệnh (các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến hành vi vi phạm của đối
tượng, biên bản về hành vi vi phạm trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi);
c) Văn bản về
các biện pháp giáo dục đã áp dụng (nếu có);
d) Giấy khám
sức khỏe của người đó;
đ) Báo cáo của
cơ sở chữa bệnh đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;
e) Các tài
liệu khác liên quan đến việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
đối với người đó (nếu có).
Trong thời
gian xét duyệt hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đối
tượng vẫn phải chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh.
5. Trong thời
hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hoặc biên bản quy định tại các khoản 1,
2 và khoản 4 Điều này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giao cho Trưởng Công
an cùng cấp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan
Công an cấp huyện có trách nhiệm thẩm tra, thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ
và gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng tư vấn. Hồ sơ cũng được gửi cho thường
trực Hội đồng nhân dân cấp huyện.
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào trường giáo dưỡng[10]
1. Hội đồng
tư vấn về việc đưa vào trường giáo dưỡng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
quyết định thành lập để giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xét duyệt hồ sơ
đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng. Hội đồng tư vấn gồm Trưởng Công an, Trưởng
phòng Tư pháp, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện; Trưởng
Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thành viên của Hội đồng tư vấn làm việc
theo chế độ kiêm nhiệm. Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cấp kinh phí
cho Hội đồng tư vấn hoạt động.
2. Trong thời
hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem
xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ.
3. Thường trực
Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp
của Hội đồng tư vấn. Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, họp, xét duyệt
và biểu quyết từng đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng. Căn cứ vào các ý kiến
và số phiếu biểu quyết của các thành viên trong cuộc họp Hội đồng tư vấn, thường
trực Hội đồng tư vấn kết luận theo đa số phiếu về từng đối tượng. Cuộc họp của
Hội đồng tư vấn phải được ghi biên bản. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào
biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo do thường trực Hội đồng tư vấn trình Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định.
4. Đại diện
thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện được mời tham dự phiên họp của Hội đồng
tư vấn. Ý kiến phát biểu của đại diện thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện
được ghi vào biên bản cuộc họp nêu tại khoản 3 Điều này, báo cáo Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
Điều 11. Chuyển hồ
sơ của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có dấu hiệu tội
phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Khi xem
xét hồ sơ của đối tượng để quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,
nếu xét thấy các hành vi vi phạm của người đó có dấu hiệu tội phạm, thì người
có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có
thẩm quyền.
Trong trường
hợp cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền đình chỉ điều tra hoặc đình
chỉ vụ án vì hành vi vi phạm của người đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự, thì người có thẩm quyền đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án phải
chuyển quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ của đối
tượng đó cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện để xem xét, quyết định áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
2. Đối với
trường hợp đã ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, nếu
sau đó phát hiện hành vi vi phạm của người bị áp dụng biện pháp này có dấu hiệu
tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì giải quyết như
sau:
a) Trường hợp
chưa chấp hành quyết định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện huỷ quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày huỷ quyết định
phải chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
quyền.
Nếu sau đó,
hành vi này của đối tượng có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc
được Toà án tuyên không phạm tội, thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển
lại hồ sơ cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện để xem xét, ra quyết định đưa
vào trường giáo dưỡng đối với người đó.
b) Trường hợp
người đó đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng thì theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng đối với người đó, đồng thời chuyển hồ sơ và đối tượng cho cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự.
Nếu sau đó,
đối tượng bị Toà án xử phạt tù thì thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Hai ngày chấp hành biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng được tính bằng một ngày chấp hành hình phạt tù.
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải ra quyết định hủy quyết định tạm đình chỉ áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng do mình ban hành và thông báo cho Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa họ vào trường giáo dưỡng
biết để huỷ quyết định đó.
Trường hợp
hành vi này có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc được Toà án
tuyên không phạm tội, thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải đưa đối tượng
trở lại trường giáo dưỡng để họ tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng. Khi tiếp nhận đối tượng trở lại trường giáo dưỡng thì Hiệu trưởng
trường giáo dưỡng ra quyết định huỷ quyết định tạm đình chỉ áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng mà mình đã ban hành đối với đối tượng đó.
Điều 12. Truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời
gian chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Trong trường
hợp phát hiện người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đã thực hiện
hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định thì giải quyết
như sau:
Trường hợp
chưa chấp hành quyết định, thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự có thẩm quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định tạm đình chỉ
chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đối với đối tượng và trong thời
hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, phải chuyển hồ sơ của đối
tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Trường hợp đối
tượng đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng, thì theo yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra
quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đối với người đó, đồng thời chuyển
hồ sơ và đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và thông báo cho Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa họ vào trường giáo dưỡng biết.
Nếu sau đó,
đối tượng bị Toà án xử phạt tù thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại
trong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Nếu hình phạt
được áp dụng không phải là hình phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp
hành quyết định đưa trường giáo dưỡng.
Điều 13. Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng[11]
1. Trong thời
hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc đưa vào trường giáo dưỡng.
Đối với trường
hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh, trước khi ra quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại
điểm đ khoản 2 Điều 2 Nghị định này, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện ra quyết định đình chỉ việc chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa
bệnh đối với người đó.
2. Quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi
ngay cho người bị đưa vào trường giáo dưỡng, cha mẹ hoặc người giám hộ của người
đó, cơ quan Công an cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người đó cư trú, cơ sở chữa bệnh đối với trường hợp đối tượng bị đưa vào
trường giáo dưỡng là người đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Điều 14. Nội dung quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
Quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên,
chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của
người được đưa vào trường giáo dưỡng; hành vi vi phạm pháp luật của người đó và
điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định;
nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi
kiện đối với quyết định đưa vào trường giáo dưỡng theo quy định của pháp luật;
trách nhiệm của cơ quan Công an cấp huyện phải tổ chức thi hành quyết định và
trách nhiệm của người được đưa vào trường giáo dưỡng phải chấp hành quyết định
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
1. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan Công an
cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với gia đình hoặc người giám hộ đưa người
phải chấp hành quyết định vào trường giáo dưỡng.
2. Khi nhận được quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi đối tượng cư trú có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an
cùng cấp có kế hoạch quản lý, giám sát người được đưa vào trường giáo dưỡng,
đồng thời phối hợp với cơ quan Công an cấp huyện trong việc tổ chức thi hành
quyết định.
Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục cần thiết
trước khi đưa người có quyết định vào trường giáo dưỡng và tổ chức đưa họ đến
trường giáo dưỡng thì Trưởng Công an cấp huyện ra quyết định quản lý họ tại cơ
quan Công an cấp huyện trong thời hạn không quá mười ngày. Thời gian quản lý họ
tại cơ quan Công an cấp huyện được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại
trường giáo dưỡng.
Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong
thời gian bị quản lý tại Công an cấp huyện được hưởng như chế độ ăn, ở của học
sinh trong trường giáo dưỡng.
Cơ quan Công an cấp huyện phải bố trí nơi dành riêng cho việc quản lý
người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian họ bị quản lý
tại Công an cấp huyện.
3. Đối với trường hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa
bệnh có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đưa vào trường giáo
dưỡng, cơ quan Công an cấp huyện nơi xét duyệt hồ sơ đề nghị đưa vào trường
giáo dưỡng có trách nhiệm chuyển người đó từ cơ sở chữa bệnh đến trường giáo
dưỡng.
4. Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng được tính từ
ngày người phải chấp hành quyết định được đưa đi trường giáo dưỡng.
Điều 16. Cưỡng chế thi hành quyết định
Người phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nếu không tự
giác chấp hành quyết định hoặc chống đối thì cơ quan Công an cấp huyện áp dụng
những biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp luật và
hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành. Trường hợp hành vi
chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Điều 17. Thời hiệu thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
Quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng hết thời hiệu thi hành sau một năm, kể từ ngày ra quyết
định. Trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng cố
tình trốn tránh việc thi hành, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời
hiệu nói trên được tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Điều 18. Hồ sơ, thủ tục kèm theo khi đưa người đã có quyết định vào trường
giáo dưỡng[13]
1. Khi đưa
người vào trường giáo dưỡng phải có hồ sơ kèm theo. Hồ sơ gồm có:
a) Quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng;
b) Bản tóm tắt
lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng;
c) Danh bản
của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;
d) Bản sao
các quyết định giáo dục đã áp dụng (nếu có);
đ) Các quyết
định quản lý tại Công an cấp huyện (nếu có);
e) Những tài
liệu khác liên quan đến nhân thân của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng (nếu có).
2. Khi giao,
nhận người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng phải lập biên bản giao nhận.
Trường giáo dưỡng phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ và lập
biên bản giao nhận ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ, tình trạng sức khỏe hiện
tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn
đề khác có liên quan đến việc giao nhận đối tượng.
3. Người
đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng tại trường giáo dưỡng được
gọi là học sinh.
Điều 19. Truy tìm người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong
trường hợp bỏ trốn[14]
1. Trong trường
hợp người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng bỏ trốn trước khi được đưa
vào trường giáo dưỡng, thì Trưởng Công an cấp huyện nơi người đó cư trú ra quyết
định truy tìm đối tượng. Đối với người không có nơi cư trú nhất định thì Trưởng
Công an cấp huyện nơi lập hồ sơ ra quyết định truy tìm.
2. Trong trường
hợp người đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng bỏ trốn thì Hiệu trưởng
trường giáo dưỡng ra quyết định truy tìm đối tượng. Thời gian trốn khỏi trường
giáo dưỡng không được tính vào thời gian thi hành quyết định.
3. Cơ quan
Công an cấp huyện hoặc trường giáo dưỡng đã ra quyết định truy tìm có trách nhiệm
tổ chức truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn. Khi bắt giữ mà đối tượng có hành
vi chống đối thì được áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định
của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc đối tượng phải chấp hành.
4. Ủy ban
nhân dân và cơ quan Công an các cấp có trách nhiệm phối hợp, giúp các cơ quan
nêu tại khoản 3 Điều này trong việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.
Khi phát hiện
đối tượng có quyết định truy tìm, mọi người có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan
Công an, Ủy ban nhân dân nơi gần nhất hoặc bắt và dẫn giải ngay đối tượng đến
các cơ quan nêu trên.
5. Khi bắt
được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập
biên bản, lấy lời khai của người đó, đồng thời thông báo ngay cho cơ quan đã ra
quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng. Trường hợp cần thiết thì người
có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính quy định tại Điều 45 Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính ra quyết định tạm giữ hành chính và đưa họ về nơi tạm
giữ hành chính của cơ quan Công an. Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các
phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn
cho người bị tạm giữ.
Khi nhận được
thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay nơi đang tạm
giữ đối tượng để nhận và đưa họ vào trường giáo dưỡng. Việc giao nhận đối tượng
phải lập biên bản theo đúng quy định của pháp luật.
6. Đối với
người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nhưng chưa chấp hành mà bỏ trốn,
nếu khi bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì Trưởng Công an cấp huyện
nơi đã lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa
vào cơ sở giáo dục theo đúng trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở giáo dục. Trưởng
Công an cấp huyện có trách nhiệm tổ chức quản lý chặt chẽ đối tượng tại Công an
cấp huyện trong thời gian lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.
Đối với học
sinh đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, nếu khi bắt lại
mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì Trưởng Công an cấp huyện nơi đã lập hồ sơ
đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng phối hợp với Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
nơi học sinh bỏ trốn đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hủy quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo đúng
trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở giáo dục. Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm
quản lý chặt chẽ đối tượng tại Công an cấp huyện trong thời gian lập hồ sơ đề
nghị đưa vào cơ sở giáo dục. Cơ quan Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người
đã có quyết định vào cơ sở giáo dục.
Điều 20. Hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
1. Người đã
có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nhưng chưa được đưa đi trường giáo dưỡng
được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:
a) Đang ốm nặng
có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên;
Người đang ốm
nặng là người đang ở trong tình trạng bị bệnh nặng đến mức không còn khả năng
lao động, học tập và sinh hoạt bình thường hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng và theo chỉ định của y sĩ hoặc bác sĩ phải điều trị trong một thời
gian nhất định mới có thể bình phục trở lại.
b) Gia đình
đang có khó khăn đặc biệt có đơn đề nghị, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
nơi người đó cư trú xác nhận.
Gia đình
đang có khó khăn đặc biệt là các trường hợp gia đình người bị áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng bị thiên tai; hoả hoạn lớn; có thân nhân bị ốm nặng
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà ngoài người đó ra không còn ai khác để lao động duy
trì cuộc sống gia đình; khắc phục hậu quả thiên tai; hoả hoạn hoặc chăm sóc người
bệnh.
Khi điều kiện
hoãn chấp hành quyết định không còn thì quyết định được tiếp tục thi hành; nếu
trong thời gian được hoãn, người đó có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp
luật hoặc lập công, thì có thể được miễn chấp hành quyết định.
2. Người đã
có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nhưng chưa được đưa đi trường giáo dưỡng
được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:
a) Đang mắc
bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở
lên;
Người đang mắc
bệnh hiểm nghèo là người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng
như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong hủi, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển
sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế coi là bệnh hiểm
nghèo.
b) Đang có thai
có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ
đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi có đơn đề nghị miễn chấp hành quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, trong đơn có
xác nhận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.
Đối với trường
hợp phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không có nơi cư trú nhất định,
có đơn đề nghị miễn chấp hành gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, nhưng
không có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú thì Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện cử cơ quan công an xác minh, xem xét từng trường hợp cụ thể.
3. Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành
trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo
dưỡng. Trong trường hợp cần thiết thuộc một trong những điều kiện được quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này xét thấy cần phải được xác minh, làm rõ, thì Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao cho Trưởng Công an cùng cấp thẩm tra trước
khi quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị hoãn hoặc miễn của
người phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp huyện phải quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định.
Quyết định
hoãn hoặc miễn chấp hành phải được gửi cho người được hoãn hoặc miễn, cơ quan
Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ đưa đối tượng vào trường
giáo dưỡng.
Chương III
TỔ
CHỨC, QUẢN LÝ TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Điều 21. Tổ chức, bộ máy
trường giáo dưỡng[15]
1. Tổ chức, bộ máy trường giáo dưỡng gồm có Hiệu
trưởng, các Phó hiệu trưởng, Trưởng phân hiệu, Phó trưởng phân hiệu, Đội trưởng,
Đội phó các Đội chuyên môn, nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ; sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang bảo vệ
và công nhân viên.
2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng phân hiệu, Phó trưởng phân hiệu,
Đội trưởng, Đội phó; tổ chức, bộ máy và biên chế của trường giáo dưỡng.
3.[16] Quy mô mỗi trường giáo dưỡng được quản lý từ
500 đến 1500 học sinh. Căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể, Bộ trưởng Bộ
Công an quyết định quy mô của từng trường và địa điểm xây dựng trường giáo dưỡng.
Trường giáo dưỡng có trên 1000 học sinh có thể thành lập các phân hiệu theo quy
định của Bộ Công an.
Nếu số học
sinh vượt quá quy mô của trường hoặc vì lý do chính đáng, cần thiết khác mà phải
điều chuyển học sinh từ trường giáo dưỡng này sang trường giáo dưỡng khác thì Tổng
cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp ra quyết định
điều chuyển theo quy định của Bộ Công an. Quyết định điều chuyển phải được gửi
cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi học sinh cư trú, cha mẹ hoặc người giám hộ của học
sinh.
Điều 22. Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường giáo dưỡng
1. Hiệu trưởng
trường giáo dưỡng là người đứng đầu trường giáo dưỡng, phải chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động của trường giáo dưỡng. Hiệu trưởng trường giáo dưỡng thực hiện
nhiệm vụ và có quyền hạn theo quy định của pháp luật.
2. Phó hiệu
trưởng trường giáo dưỡng là người giúp Hiệu trưởng trường giáo dưỡng thực hiện
những nhiệm vụ theo sự phân công của Hiệu trưởng và chịu trách nhiệm trước Hiệu
trưởng và pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công.
Điều 23. Tiêu chuẩn bổ nhiệm
Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng phân hiệu trường giáo dưỡng[17]
Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng phân hiệu
trường giáo dưỡng phải là người tốt nghiệp một trong các trường: Học viện An
ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, Đại học Luật, Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn hoặc Đại học Sư phạm; có kinh nghiệm quản lý, giáo dục học sinh; có
phẩm chất chính trị tốt; có ý thức tổ chức kỷ luật; hiểu biết chuyên môn, nghiệp
vụ và pháp luật. Đối với trường hợp Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng phân
hiệu trường giáo dưỡng tốt nghiệp Đại học Luật, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Đại học Sư phạm, thì trong thời hạn một năm, kể từ khi được bổ nhiệm, phải
được học nghiệp vụ an ninh hoặc cảnh sát.
Điều 24. Tiêu chuẩn của Phó
trưởng phân hiệu, Đội trưởng, Đội phó, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân
viên trường giáo dưỡng[18]
1. Phó trưởng phân hiệu, Đội trưởng, Đội phó, sĩ
quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan vũ trang bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp
Trung học An ninh; Trung học Cảnh sát hoặc tương đương trở lên.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật phải
là người đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp trở lên thuộc lĩnh vực chuyên
môn mà mình được giao thực hiện.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ làm nhiệm vụ quản
lý, dẫn giải học sinh, bảo vệ phải là người đã được đào tạo, huấn luyện về nghiệp
vụ công tác bảo vệ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
4. Công nhân viên phải là người được đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức về lĩnh vực chuyên môn mà mình được giao thực hiện.
5. Những cán bộ là giáo viên của trường giáo dưỡng
được hưởng các chế độ ưu đãi, phụ cấp khác dành cho cán bộ giáo dục và được
phong các danh hiệu theo quy định chung của Nhà nước đối với các nhà giáo.
Chương IV
CHẾ
ĐỘ QUẢN LÝ, GIÁO DỤC, ĂN, MẶC, Ở, HỌC TẬP, LAO ĐỘNG, SINH HOẠT, PHÒNG BỆNH, CHỮA
BỆNH VÀ CÁC CHẾ ĐỘ KHÁC ĐỐI VỚI HỌC SINH
Điều 25. Chế độ quản lý
học sinh
1. Học sinh
trường giáo dưỡng phải học tập, lao động và sinh hoạt dưới sự quản lý, giám sát
của trường.
2. Căn cứ
vào quy mô của từng lớp, thời hạn giáo dục, đặc điểm nhân thân, tính chất, mức
độ vi phạm, tình trạng sức khoẻ, giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn của từng
học sinh, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng sắp xếp họ vào đội, lớp cho phù hợp với
yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục.
Mỗi đội, lớp
phải có cán bộ trực tiếp phụ trách.
3. Học sinh
ra khỏi trường giáo dưỡng phải được phép của Ban Giám hiệu và có cán bộ giáo viên
của trường quản lý, hướng dẫn.
Điều 26. Tạm thời
đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự
1. Khi có
yêu cầu đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự có thẩm quyền phải có công văn gửi Hiệu trưởng trường giáo dưỡng,
trong công văn phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của học
sinh, lý do và thời hạn tạm thời đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng. Căn cứ
vào công văn yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng ra quyết định tạm thời đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng để
tham gia tố tụng trong các vụ án liên quan đến học sinh. Quyết định tạm thời
đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm
sinh, nơi cư trú của học sinh; cơ quan yêu cầu đưa học sinh ra khỏi trường giáo
dưỡng, mục đích và thời hạn tạm thời đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng; họ
tên, chức vụ của người ký quyết định tạm thời đưa học sinh ra khỏi trường giáo
dưỡng.
2. Cơ quan
có yêu cầu đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng có trách nhiệm đưa học sinh
đi và trả lại họ cho trường giáo dưỡng theo đúng thời hạn đã ghi trong quyết định
tạm thời đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng hoặc khi không còn yêu cầu. Khi
giao, nhận học sinh phải lập biên bản giao, nhận theo đúng quy định của pháp luật.
3 . Thời
hạn tạm thời đưa học sinh ra khỏi trường giáo dưỡng được tính vào thời hạn chấp
hành quyết định tại trường giáo dưỡng. Một ngày học sinh bị đưa ra khỏi trường
giáo dưỡng được tính bằng hai ngày học sinh chấp hành quyết định tại trường
giáo dưỡng.
Điều 27. Chế độ ăn của học
sinh[19]
1. Tiêu chuẩn ăn của mỗi học sinh trong một
tháng quy định như sau:
a) Gạo 17 kg;
b) Thịt 01 kg;
c) Cá 01 kg;
d) Đường 0,5 kg;
đ) Nước mắm 1 lít;
e) Bột ngọt 0,1 kg;
g) Muối 0,8 kg;
h) Rau xanh 15 kg;
i) Chất đốt tương đương 15 kg than.
2. Ngày lễ, Tết dương lịch học sinh được ăn thêm
không quá 3 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết nguyên đán học sinh được ăn
thêm không quá 5 lần tiêu chuẩn ăn của ngày thường. Các tiêu chuẩn ăn được tính
theo giá thị trường của từng địa phương.
3. Chế độ ăn đối với học sinh ốm đau do y sĩ hoặc
bác sĩ chỉ định.
4. Nguồn nước để sử dụng vào việc ăn, uống và
sinh hoạt của học sinh phải là nguồn nước sạch theo quy định của ngành y tế.
Trường giáo dưỡng phải bảo đảm tiêu chuẩn ăn tối thiểu của học sinh theo đúng
quy định của pháp luật và bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Điều 28. Chế độ mặc và đồ
dùng sinh hoạt của học sinh[20]
1. Mỗi năm, mỗi học sinh được cấp 2 bộ quần áo
dài, 2 bộ quần áo lót, 1 bộ quần áo dài đồng phục, 3 khăn mặt, 2 đôi dép nhựa,
3 bàn chải đánh răng, 1 áo mưa nilông, 1 mũ cứng; 1 mũ vải; đối với học sinh ở
các trường giáo dưỡng phía Bắc, mỗi học sinh được cấp thêm 1 áo ấm, 2 đôi tất
và 1 mũ len trong 1 năm. Mỗi quý, mỗi học sinh được cấp 1 tuýp kem đánh răng
150 g loại thông thường, 1 kg xà phòng, 1 lọ nước gội đầu 200 ml loại thông thường.
2. Đối với các trường giáo dưỡng phía Nam, mỗi học
sinh được cấp một tấm đắp. Đối với các trường giáo dưỡng ở phía Bắc, mỗi học
sinh được cấp một chăn bông 2 kg, có vỏ. Màn, chăn bông, tấm đắp hai năm được cấp
một lần. Mỗi năm, mỗi học sinh được cấp hai chiếc chiếu.
3. Học sinh được mang vào trường giáo dưỡng những
đồ dùng cá nhân thiết yếu để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.
4. Học sinh nữ được cấp thêm mỗi tháng một khoản
tiền tương đương với 3kg gạo tẻ loại thường tính theo giá thị trường của từng địa
phương để mua những đồ dùng cần thiết cho vệ sinh cá nhân.
Điều 29. Chỗ ở của học sinh
1. Học sinh
được bố trí ở buồng tập thể theo lớp, đội hoặc nhóm phù hợp với yêu cầu của
công tác quản lý, giáo dục từng loại đối tượng. Ban đêm học sinh ngủ trong các
phòng tập thể có khóa cửa bên ngoài và có cán bộ thường trực tại các khu ở.
2. Phòng ở
phải bảo đảm thoáng mát về mùa hè, kín gió về mùa đông và bảo đảm vệ sinh môi
trường.
Học sinh được
bố trí giường hoặc sàn nằm. Đối với các trường giáo dưỡng phía Bắc, nếu chỗ nằm
của học sinh bằng sàn xây xi măng lát gạch men thì mùa đông phải có ván ép bằng
gỗ đặt trên mặt sàn. Diện tích nằm tối thiểu cho mỗi học sinh là 2,5m2.
Khu ở của nam, nữ tách riêng.
Điều 30. Chế độ học tập của
học sinh[21]
1. Học sinh trường giáo dưỡng được học văn hóa
theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc học văn hóa đối với học sinh
chưa phổ cập giáo dục là bắt buộc. Đối với những học sinh khác thì tùy theo khả
năng và điều kiện thực tế của trường mà tổ chức học tập. Đối với học sinh trường
giáo dưỡng, trước khi vào trường đã bỏ học, không có hồ sơ, học bạ thì Hiệu trưởng
trường giáo dưỡng phối hợp với Phòng giáo vụ cấp huyện nơi trường giáo dưỡng
đóng tổ chức kiểm tra kiến thức hai môn văn và toán bằng hình thức kiểm tra viết.
Căn cứ vào kết quả kiểm tra kiến thức, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định
xếp lớp học văn hóa cho phù hợp. Quyết định này thay cho học bạ những năm trước
đã mất để xét tốt nghiệp cho học sinh.
Ngoài việc học văn hóa, học sinh phải được học tập
chương trình giáo dục công dân, giáo dục hướng nghiệp, học nghề và các chương
trình giáo dục khác do Bộ Công an quy định. Kinh phí chi cho việc dạy - học nghề
của mỗi học sinh hàng tháng tương đương với 5 kg gạo tính theo giá thị trường của
từng địa phương.
2. Kinh phí dùng cho việc mua sắm sách, vở, đồ
dùng học tập cho mỗi học sinh hàng tháng tương đương với 7 kg gạo tẻ loại thường
tính theo giá thị trường của từng địa phương.
3. Trường giáo dưỡng có trách nhiệm tổ chức cho
học sinh thi học kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, thi tuyển chọn học sinh giỏi,
thi vào lớp chuyên và cấp chứng chỉ hoặc bằng tốt nghiệp tương ứng với chương
trình học cho học sinh theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu mẫu liên
quan đến việc giảng dạy và học tập ở trường giáo dưỡng phải theo mẫu chung thống
nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Công an.
5. Văn bằng, chứng chỉ học văn hóa, học nghề
trong các trường giáo dưỡng có giá trị như văn bằng, chứng chỉ của các trường
phổ thông.
Điều 31. Chế độ lao động của học sinh
1. Trong thời
gian chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng ngoài giờ học tập, học sinh phải
tham gia lao động do trường tổ chức. Trường giáo dưỡng có trách nhiệm sắp xếp
công việc phù hợp với lứa tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 15 tuổi và từ đủ 15 tuổi
đến dưới 18 tuổi và sức khoẻ của học sinh để bảo đảm sự phát triển bình thường
về thể lực, trí lực và nhân cách của học sinh.
2. Nghiêm cấm
sử dụng học sinh làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các
chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của học
sinh theo Danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
3. Thời gian
lao động, học tập trên lớp và học nghề của học sinh không quá bảy giờ trong một
ngày. Thời gian học nghề được tính vào thời gian lao động. Thời gian lao động
không được nhiều hơn thời gian học tập. Trường giáo dưỡng chỉ được sử dụng học
sinh làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong những trường hợp thật cần thiết theo
quy định của pháp luật lao động và hướng dẫn của Bộ Công an. Học sinh được nghỉ
lao động trong các ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, ngày Tết theo quy định của
pháp luật.
Ngoài thời
gian được nghỉ lao động theo quy định chung, học sinh được nghỉ lao động khi ốm
đau theo chỉ định của y sĩ, bác sĩ; khi gặp thân nhân trong thời gian lao động,
học tập phải được cán bộ có thẩm quyền của trường giáo dưỡng cho phép. Học sinh
nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ lao động mỗi ngày 30 phút trong thời
gian lao động.
4. Đối với
những công việc mà pháp luật quy định phải có bảo hộ lao động thì trường giáo
dưỡng có trách nhiệm trang bị quần áo, thiết bị bảo hộ lao động phù hợp với yêu
cầu của công việc. Trường hợp học sinh phải làm việc ban đêm thì được bồi dưỡng
theo quy định của pháp luật. Trường hợp học sinh bị tai nạn thì trường giáo dưỡng
phải tổ chức cứu chữa kịp thời và làm các thủ tục cần thiết để giải quyết chế độ
trợ cấp theo quy định của pháp luật.
Điều 32. Quản lý và sử dụng kết quả lao động của trường giáo dưỡng
1. Kết quả lao động do học sinh và cán bộ của trường giáo dưỡng làm ra
được trường giáo dưỡng thống nhất quản lý và sử dụng theo quy định của pháp
luật.
2. Kết quả
lao động của trường giáo dưỡng, sau khi trừ những chi phí hợp lý được sử dụng để
hỗ trợ cho việc học tập, ăn uống, sinh hoạt, khám, chữa bệnh cho học sinh; khen
thưởng cho học sinh có thành tích xuất sắc trong học tập, lao động, rèn luyện
nhân cách; khen thưởng cho cán bộ, giáo viên có thành tích xuất sắc trong việc
tổ chức quản lý sản xuất; bổ sung cho quỹ phúc lợi của trường giáo dưỡng; đầu
tư mở rộng sản xuất, dạy nghề; mua sắm trang thiết bị bảo hộ lao động và hỗ trợ
cho việc sửa chữa cơ sở vật chất của trường giáo dưỡng theo hướng dẫn của Bộ
Công an.
Điều 33. Chế độ sinh hoạt của học sinh[22]
1. Ngoài giờ
học văn hóa, học nghề, lao động, trường giáo dưỡng phải tổ chức các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, đọc sách, báo, xem truyền hình và các hoạt
động vui chơi giải trí khác cho học sinh.
2. Mỗi trường
giáo dưỡng được thành lập một thư viện, mỗi phân hiệu của trường được thành lập
một phòng đọc sách, báo, khu vui chơi, nhà luyện tập thể dục, thể thao, sân thể
thao để học sinh rèn luyện thể lực; được trang bị hệ thống truyền thanh, truyền
hình cáp nội bộ. Mỗi phòng ở tập thể được trang bị một vô tuyến truyền hình màu
21 inches, được phát một tờ báo thanh niên và một báo hoa học trò.
Điều 34. Chế độ khám bệnh,
chữa bệnh cho học sinh và việc tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian
còn lại tại trường giáo dưỡng[23]
1. Trường giáo dưỡng phải định kỳ tổ chức khám sức
khỏe cho tất cả học sinh sáu tháng một lần và thường xuyên có biện pháp đề
phòng dịch bệnh; thực hiện các biện pháp cai nghiện ma túy, phòng, chống lây
nhiễm HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm cho học sinh. Tiền thuốc khám, chữa bệnh
hàng tháng cho mỗi học sinh được cấp tương đương với 4 kg gạo tẻ loại thường
tính theo giá thị trường của từng địa phương. Kinh phí tổ chức cai nghiện ma
túy, điều trị HIV/AIDS cho học sinh theo định mức kinh phí như Nhà nước cấp cho
các Trung tâm cai nghiện ma túy, trên cơ sở đề nghị của Bộ Công an.
2.[24] Học sinh bị
ốm được điều trị tại cơ sở y tế của trường giáo dưỡng. Trường hợp học sinh bị ốm
nặng vượt quá khả năng điều trị tại cơ sở y tế của trường giáo dưỡng thì đưa đi
bệnh viện điều trị, nếu gia đình có đơn bảo lãnh xin đưa về gia đình điều trị,
thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải báo cáo, đề nghị Tổng cục trưởng Tổng cục
Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp ra quyết định tạm đình chỉ chấp
hành quyết định tại trường giáo dưỡng.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi
hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm xem xét, ra quyết định tạm
đình chỉ chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng.
Trường hợp học sinh được tạm đình chỉ để đưa về
gia đình điều trị, thì gia đình phải chi trả toàn bộ kinh phí khám, chữa bệnh
cho học sinh.
3.[25] Trường hợp
học sinh bị ốm nặng phải đưa đến bệnh viện điều trị lâu dài, thì trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày đưa học sinh đến bệnh viện, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng
phải báo cáo Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư
pháp biết. Kinh phí khám, chữa bệnh cho học sinh do ngân sách nhà nước cấp. Trường
giáo dưỡng trực tiếp thanh toán tiền viện phí cho bệnh viện nơi học sinh được
chuyển đến để điều trị. Trong thời gian học sinh điều trị tại bệnh viện, trường
giáo dưỡng có trách nhiệm chăm sóc học sinh, nếu học sinh có gia đình thì phối
hợp với gia đình chăm sóc họ; trường giáo dưỡng có trách nhiệm quản lý chặt chẽ,
không để học sinh có điều kiện trốn hoặc vi phạm pháp luật.
Trường hợp học sinh có biểu hiện mắc bệnh tâm thần
thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có văn bản gửi Bệnh viện tâm thần Trung ương
theo khu vực, đồng thời, cử cán bộ đưa học sinh đến để giám định tâm thần. Các
bệnh viện tâm thần Trung ương theo khu vực có trách nhiệm giám định cho học
sinh theo đề nghị của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng và có kết luận bằng văn bản
gửi Hiệu trưởng trường giáo dưỡng để làm thủ tục theo quy định của pháp luật.
Thời gian học sinh điều trị bệnh quy định tại khoản
2 và khoản 3 Điều này được tính vào thời gian thi hành quyết định. Một ngày điều
trị được tính bằng một ngày chấp hành quyết định. Nếu sau khi sức khỏe được phục
hồi mà thời hạn chấp hành quyết định còn lại từ sáu tháng trở lên thì học sinh
phải tiếp tục chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng. Nếu thời gian còn lại
dưới sáu tháng, thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng báo cáo đề nghị Tổng cục trưởng
Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp xem xét, ra quyết định
miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho học sinh đó.
4.[26] Đối với
trường hợp học sinh mắc bệnh hiểm nghèo hoặc phụ nữ có thai thì được miễn chấp
hành phần thời gian còn lại. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị xét miễn chấp hành phần thời gian còn lại của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng,
Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có
trách nhiệm xem xét và ra quyết định miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho
học sinh đó.
5. Các quyết định tạm đình chỉ hoặc miễn chấp
hành phần thời gian còn lại quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này được gửi
cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa vào trường giáo
dưỡng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ và học sinh được tạm đình chỉ hoặc
miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
Điều 35. Giải quyết trường
hợp học sinh bị chết[27]
1. Khi có học sinh bị chết, Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng phải báo ngay cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân,
cơ sở y tế gần nhất đến lập biên bản xác định nguyên nhân chết, có học sinh của
trường giáo dưỡng làm chứng và làm thủ tục khai tử với chính quyền địa phương.
Sau đó, phải gửi giấy chứng tử cho thân nhân học sinh bị chết biết và thông báo
cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa người đó vào trường giáo
dưỡng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ đề nghị đưa người đó vào trường
giáo dưỡng.
Trường hợp học sinh bị chết khi đang điều trị tại
cơ sở y tế nhà nước từ cấp huyện trở lên thì cơ sở y tế có trách nhiệm thông
báo và gửi giấy chứng tử cho trường giáo dưỡng.
2. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi làm xong các
thủ tục quy định tại khoản 1 Điều này, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có trách
nhiệm tổ chức mai táng tử thi, gửi giấy báo tử cho thân nhân học sinh bị chết
và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học sinh cư trú. Kinh phí mai táng do ngân sách
nhà nước cấp.
3. Trong trường hợp thân nhân người chết có đơn
đề nghị đưa tử thi về mai táng hoặc đề nghị được đưa hài cốt đã được địa táng từ
đủ 3 năm trở lên về mai táng, thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có thể xem xét,
quyết định cho thân nhân người chết đưa tử thi hoặc hài cốt về mai táng. Đơn đề
nghị đưa tử thi hoặc hài cốt về mai táng phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người đó cư trú và phải cam đoan thực hiện đúng các quy định của pháp luật
về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường.
Điều 36. Chế độ thăm gặp
người thân; nhận, gửi thư, nhận tiền, quà[28]
1. Học sinh được gặp người thân tại nhà đón tiếp
của trường giáo dưỡng, được liên lạc với thân nhân bằng điện thoại và phải chấp
hành đúng những quy định tại Nghị định này và hướng dẫn của Bộ Công an về thăm
gặp và liên lạc bằng điện thoại.
2. Người đến thăm học sinh phải xuất trình Chứng
minh nhân dân và đơn xin thăm có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
hoặc đơn vị nơi công tác của mình. Trường hợp ngủ lại qua đêm tại trường giáo
dưỡng phải được sự đồng ý của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng.
3. Học sinh được nhận và gửi thư, nhận tiền, quà
(trừ rượu bia, thuốc lá, các chất kích thích, đồ vật và các loại văn hóa phẩm bị
cấm). Trường giáo dưỡng có trách nhiệm kiểm tra thư, giám sát nội dung các cuộc
nói chuyện điện thoại và các gói quà trước khi trao cho học sinh. Riêng tiền hoặc
giấy tờ có giá, học sinh phải gửi vào bộ phận lưu ký của trường giáo dưỡng và
được sử dụng theo quy định của Bộ Công an.
Điều 37. Giải quyết trường hợp học sinh có việc tang của thân nhân hoặc
có trường hợp cấp thiết khác
Khi có việc
tang của thân nhân trong gia đình hoặc có trường hợp cấp thiết khác và có đơn
xin bảo lãnh của gia đình hoặc người giám hộ được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận,
thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có thể xét cho học sinh về gia đình không quá
5 ngày, không kể thời gian đi đường. Thời gian về gia đình được tính vào thời
gian thi hành quyết định.
Điều 38. Giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại trường
giáo dưỡng trong trường hợp người đang chấp hành tại trường có tiến bộ rõ rệt
hoặc lập công
1. Học sinh
đã chấp hành được một nửa thời hạn nêu trong quyết định, nếu có tiến bộ rõ rệt
hoặc lập công thì được xét giảm thời hạn chấp hành từ một tháng đến sáu tháng
hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Tuỳ theo thời gian phải chấp hành
quyết định và thành tích, mức độ tiến bộ và việc lập công của từng học sinh mà
xem xét, quyết định mức giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho phù
hợp. Trường hợp học sinh đã được giảm thời hạn, nhưng sau đó lại lập công thì
có thể được xét giảm lần thứ hai hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
2.[29] Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được
đề nghị xét giảm hoặc miễn của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Tổng cục trưởng Tổng
cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm xem xét và ra
quyết định giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại quy định tại khoản 1
Điều này. Các quyết định này được gửi cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
nơi đã ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập
hồ sơ và học sinh được xét giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
Điều 39. Hết hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
1. Chậm nhất là mười lăm ngày trước khi hết hạn chấp hành biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có trách nhiệm thông báo
cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định, Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú và cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh biết ngày
học sinh ra trường.
2.[30] Khi người
được đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành xong quyết định thì Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng cấp Giấy chứng nhận cho người đó và gửi bản sao Giấy chứng nhận đến
Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện nơi đã ra quyết định, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú
và cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó.
Trường hợp người đã chấp hành xong quyết định mà
vẫn chưa thực sự tiến bộ thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải có bản nhận xét
riêng và kiến nghị các biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và cơ quan Công an cấp huyện nơi đã lập
hồ sơ đề nghị đưa họ vào trường giáo dưỡng.
3. Đối
với những học sinh dưới 18 tuổi đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng mà không rõ cha mẹ, nơi cư trú hoặc không có nơi nương tựa, thì trường
giáo dưỡng có trách nhiệm liên hệ với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã
ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện
tìm biện pháp giúp đỡ chỗ ăn, ở và việc làm, học tập phù hợp với độ tuổi của
người đó.
4. Đối với
những người đã chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng dưới 16 tuổi
và những người ốm đau, bệnh tật đến ngày ra trường mà không có thân nhân đến
đón thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có trách nhiệm cử cán bộ đưa họ về tận
gia đình hoặc về Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng. Thân nhân người đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng có trách nhiệm tiếp nhận người đó.
5. Người đã
chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được nhận lại tiền và đồ vật
gửi lưu ký tại trường, các văn bằng, chứng chỉ học văn hoá, học nghề (nếu có);
được cấp tiền tàu xe, tiền ăn đường và một bộ quần áo thường (nếu họ không có)
và phải trả lại chiếu, chăn, màn và những vật dụng, trang thiết bị dùng cho việc
học tập, lao động, sinh hoạt đã được trường giáo dưỡng cho mượn, nếu làm mất
thì phải bồi thường.
6. Trong thời
hạn năm ngày, kể từ ngày về địa phương, người đã chấp hành xong quyết định đưa
vào trường giáo dưỡng phải trình báo Uỷ ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an
cùng cấp nơi mình cư trú.
Chương V
KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO, KHỞI KIỆN HÀNH CHÍNH, KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 40. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hành chính
1. Người bị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc người đại diện hợp pháp của họ
có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính về việc áp dụng biện pháp đó.
2. Mọi công
dân có quyền tố cáo về hành vi trái pháp luật trong việc áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng.
3. Thẩm quyền,
thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc giải quyết khởi kiện hành
chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo hoặc theo
quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Điều 41. Khen thưởng
1. Cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc tổ chức thực hiện việc áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng thì được khen thưởng theo chế độ chung
của Nhà nước.
2. Học sinh trường
giáo dưỡng có thành tích trong rèn luyện nhân cách, học tập, lao động, chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, nội quy trường giáo dưỡng hoặc lập công thì được
khen thưởng bằng các hình thức sau đây:
- Biểu
dương;
- Tham quan
hoặc giao lưu với các trường giáo dưỡng khác do trường giáo dưỡng tổ chức;
- Được tặng
giấy khen kèm theo thưởng tiền hoặc hiện vật;
- Thưởng năm
ngày phép về thăm gia đình không kể thời gian đi đường và một khoản tiền để ăn
đường, mua vé tàu, xe đi, về;
- Giảm thời
hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại trường giáo dưỡng.
Điều 42. Xử lý vi phạm
1. Người có
thẩm quyền thực hiện các thủ tục lập, xét duyệt hồ sơ đề nghị đưa vào trường
giáo dưỡng; quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc những
người có trách nhiệm thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà sách nhiễu,
dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, thiếu
khách quan, vi phạm các quy định của pháp luật về việc áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật
2. Người bị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, nếu có hành vi chống người thi
hành công vụ, trì hoãn, trốn tránh việc chấp hành hoặc có những hành vi vi phạm
khác thì tuỳ theo tính chất, mức độ có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật.
3. Học sinh
đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng, nếu vi phạm pháp luật, vi phạm
nội quy trường giáo dưỡng, chây lười lao động, học tập, không tự giác rèn luyện
nhân cách, chống lại người thi hành công vụ, trốn khỏi trường giáo dưỡng hoặc
có hành vi vi phạm khác thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý
vi phạm hành chính, bị kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng xét và quyết định kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc bị cách ly tại
buồng kỷ luật năm ngày.
Điều 43. Lưu giữ các quyết định khen thưởng hoặc kỷ luật
Các quyết định
khen thưởng hoặc kỷ luật phải bằng văn bản do Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ký
và lưu vào hồ sơ của học sinh.
TRÁCH
NHIỆM CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO TRƯỜNG
GIÁO DƯỠNG
Điều 44. Trách nhiệm của Bộ
Công an[31]
1. Thống nhất quản lý các trường giáo dưỡng và tổ
chức chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương, các trường giáo dưỡng trong phạm
vi cả nước thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
2. Ban hành các văn bản hướng dẫn, nội quy trường
giáo dưỡng, các biểu mẫu cần thiết để tổ chức thực hiện biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng.
3. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, bảo đảm cho các hoạt động đó
theo đúng quy định của pháp luật.
4. Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành khác có
liên quan, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội để thực hiện tốt biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng.
Điều 45. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
Cấp kinh phí
bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
theo kế hoạch dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an đã được duyệt.
Điều 46. Trách nhiệm của Bộ
Y tế[32]
1. Phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn việc phòng,
chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh và khám sức khỏe định kỳ cho học sinh; hướng dẫn
thủ tục xác định người nghiện ma túy và phương pháp cai nghiện ma túy.
2. Chỉ đạo việc hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ
thuật y tế để cai nghiện ma túy cho học sinh trường giáo dưỡng.
Điều 47. Trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Phối hợp với
Bộ Công an xây dựng chương trình giáo dục cho trường giáo dưỡng; chỉ đạo Sở
Giáo dục - Đào tạo của địa phương hướng dẫn, kiểm tra chất lượng học tập, tổ chức
thi và cấp văn bằng, chứng chỉ hoặc bằng tốt nghiệp tương ứng với chương trình
học cho học sinh và hỗ trợ sách giáo khoa, tập huấn giáo viên giảng dạy cho trường
giáo dưỡng; tạo điều kiện cho học sinh khi ra trường được tiếp tục học tập tại
nơi cư trú của họ.
Điều 48. Trách nhiệm của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội[33]
1. Chỉ đạo các Phòng Lao động - Thương binh và
Xã hội cấp huyện phối hợp với cơ quan Công an thực hiện tốt việc xét duyệt hồ
sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng; chỉ đạo các cơ sở chữa bệnh thực hiện tốt
việc xét duyệt hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với
đối tượng đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh có hành vi vi phạm pháp
luật theo quy định chung.
2. Phối hợp với Bộ Công an trong việc xây dựng
chương trình giáo dục hướng nghiệp, hướng dẫn việc tổ chức dạy nghề; quan tâm đến
đời sống tinh thần và vật chất cho học sinh, hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện
học nghề cho học sinh, giúp đỡ các trường giáo dưỡng thực hiện tốt các quyền trẻ
em trong thời gian ở trường; giúp đỡ các em ổn định cuộc sống, giới thiệu việc
làm cho học sinh sau khi ra trường.
Điều 49.[34] (được bãi bỏ)
Điều 50. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
1. Giao đất
để xây dựng trường giáo dưỡng, hỗ trợ về vật chất và tạo điều kiện thuận lợi
cho trường giáo dưỡng đóng tại địa phương mình trong quá trình trường giáo dưỡng
xây dựng cơ sở vật chất và hoạt động;
2. Thường
xuyên hướng dẫn, chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và các cơ quan chức
năng có liên quan của địa phương mình thực hiện tốt biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng.
3. Chỉ đạo Uỷ
ban nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi quản lý của mình giải quyết kịp thời các
khiếu nại, tố cáo trong việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng theo
đúng quy định của pháp luật.
4. Xử lý kỷ
luật kịp thời, nghiêm minh đối với người có sai phạm trong việc áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng thuộc phạm vi quản lý của mình.
5. Định
kỳ hoặc theo yêu cầu, báo cáo của Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của đại
biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp và chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp dưới định kỳ hoặc
theo yêu cầu, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp, trả lời chất vấn của đại biểu
Hội đồng nhân dân cùng cấp về tình hình thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng.
6. Chỉ đạo Uỷ
ban nhân dân cấp dưới giúp đỡ các trường giáo dưỡng và có chính sách giúp đỡ những
người đã chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng tìm việc làm, sớm ổn
định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng.
Chương VII
ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH[35]
Điều 51. Hiệu lực thi hành
Nghị định
này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Nghị định
này thay thế Nghị định số 33/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ về việc
ban hành Quy chế về trường giáo dưỡng.
Điều 52. Hướng dẫn thi hành[36]
Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành
Nghị định này.
Điều 53. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi
hành Nghị định này./.
Nơi nhận:
- Văn phòng Chính phủ (để đăng Công báo
và đăng tải trên Cổng TTĐT Chính phủ);
- Cổng TTĐT Bộ Công an;
- Lưu: VT, V19.
|
XÁC THỰC VĂN
BẢN HỢP NHẤT
BỘ TRƯỞNG
Đại tướng Trần Đại Quang
|
[1] Nghị định số
66/2009/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng có căn cứ ban
hành như sau:
"Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25
tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
ngày 02 tháng 7 năm 2002; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an,"
Nghị định số 118/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng
12 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định
về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng có căn cứ
ban hành như sau:
"Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25
tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02 tháng
4 năm 2008;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an,"
[2] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị định số 66/2009/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11
năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[3] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[4] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[5] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[6] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[7] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều 1 của Nghị định số 66/2009/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11
năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[8] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 7 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[9] Điều này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[10] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 9 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[11] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 10 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[12] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 11 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[13] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 12 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[14] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[15] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 14 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[16] Khoản này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011.
[17] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 15 Điều 1 của Nghị định số 66/2009/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11
năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[18] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 16 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[19] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 17 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[20] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 18 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[21] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 19 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[22] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 20 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[23] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 21 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[24] Khoản này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011.
[25] Khoản này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011.
[26] Khoản này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011.
[27] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 22 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[28] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 23 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[29] Khoản này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011.
[30] Khoản này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011.
[31] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 24 Điều 1 của Nghị định số 66/2009/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11
năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[32] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 25 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[33] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 26 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[34] Điều này
được bãi bỏ theo quy định tại Điều 2 của Nghị định số 66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của
Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
[35] Điều 3 của
Nghị định số 66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15
tháng 9 năm 2009 quy định như sau:
"Điều 3. Nghị định này có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này."
Điều 5 và Điều 6 của Nghị định số
118/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 02 năm 2011 quy định như sau:
"Điều 5. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày
15 tháng 02 năm 2011.
Điều 6. Trách nhiệm thi hành
1. Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này."
[36] Điều này
được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 27 Điều 1 của Nghị định số
66/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.