VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
79-VKSND/TT
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 09 năm 1989
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN PHÁP LỆNH TỔ CHỨC ĐIỀU TRA HÌNH SỰ TRONG
NGÀNH KIỂM SÁT
Ngày 4-4-1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua
Pháp lệnh “Tổ chức điều tra hình sự” quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan điều tra… trong đó có cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, Viện
kiểm sát quân sự. Quy định đó là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho
ngành Kiểm sát thực hiện chức năng của mình một cách có hiệu quả, chủ động
trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Thực hiện điều 32 của Pháp lệnh, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan
điều tra trong ngành Kiểm sát thống nhất như sau:
I- NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN
Điều 18 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự - quy
định: “thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
1- Cục điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, phòng điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh điều tra trong những
trường hợp sau đây khi Viện trưởng xét thấy cần thiết:
a) Khi phát hiện trong hoạt động điều tra có
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
b) Khi tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật
phát hiện những vụ phạm tội rõ ràng, mà xét thấy không cần thiết phải chuyển
cho cơ quan điều tra khác.
c) Khi phát hiện tội phạm trong hoạt động tư
pháp.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể
giao cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát điều tra trong những trường hợp
khác.
2- Phòng điều tra của Viện kiểm sát quân sự
trung ương, Ban điều tra của Viện kiểm sát quân sự ở Tổng cục, quân khu, quân
chủng và cấp tương đương điều tra những trường hợp tại khoản 1 điều này, nếu vụ
án đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự”.
Cần nắm vững tinh thần của Pháp lệnh là cơ quan
điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, cơ quan điều tra trong
quân đội có trách nhiệm thụ lý điều tra tất cả các vụ án trong phạm vi thẩm quyền
mà Pháp lệnh đã phân định. Cơ quan điều tra cấp dưới có vướng mắc, không làm được
thì cơ quan điều tra cấp trên phải điều tra.
Tinh thần của điều luật trên là dành quyền chủ động
cho VKS trong hoạt động điều tra bằng việc quy định cho Viện trưởng quyền quyết
định việc thụ lý điều tra, nghĩa là thấy cần thiết thì điều tra, không cần thiết
thì không điều tra.
Sự cần thiết là do tính chất nghiêm trọng và phức
tạp của vụ án cần phát huy hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm và vi phạm
của ngành Kiểm sát, đồng thời phải căn cứ vào khả năng tổ chức lực lượng điều
tra của mình để quyết định có giao cho cơ quan điều tra của mình điều tra hay
không. Tránh làm một cách tràn lan dẫn đến hoạt động điều tra của VKS chẳng những
không tăng cường hiệu lực, uy tín cho công tác kiểm sát mà còn phản tác dụng.
Trong điều kiện hiện nay Viện trưởng VKS chỉ quyết
định giao hoặc rút vụ án về cho cơ quan điều tra của VKS điều tra khi có yêu cầu
chính trị cấp thiết hoặc nếu có căn cứ cho thấy không giao cho cơ quan điều tra
của VKS điều tra thì không đảm bảo tính khách quan, triệt để trong các trường hợp
sau:
a) Những vụ án cơ quan điều tra khác đang tiến
hành điều tra, hoặc đã kết thúc điều tra, nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, dẫn đến làm oan người vô tội, bỏ lọt kẻ phạm tội mà nếu có giao lại
cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra lại cũng không thể làm được thì rút vụ án về
tiếp tục điều tra, kết thúc vụ án.
Nếu hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ điều
tra đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì khởi tố điều tra.
b) Qua công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các đơn vị thuộc VKS, phát hiện thấy tội phạm mà tài liệu chứng cứ thu thập
được đã rõ ràng về hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội đó và thiệt
hại gây ra.
c) Khi phát hiện tội phạm trong hoạt động tư
pháp mà hành vi phạm tội nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận xã hội,
làm giảm lòng tin của quần chúng với cơ quan tiến hành tố tụng, giam giữ cải tạo.
d) Điều tra những vụ án khác - là những vụ án
nghiêm trọng xét thấy ngành Kiểm sát cần trực tiếp điều tra (ngoài các trường hợp
a, b, c, nêu trên) - do Viện trưởng VKSNDTC quyết định.
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh phát hiện hành vi phạm tội ngoài ba trường hợp nói ở điểm
a, b, c trên, thấy cần thiết phải giao cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
tiến hành điều tra thì cho xác minh, báo cáo rõ sự việc và lý do cần thiết phải
giao cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát điều tra, đề nghị lên Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định. Chỉ được khởi tố, tiến hành điều tra
khi được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao.
Trong tình hình và yêu cầu đấu tranh chống tội
phạm hiện nay, nên vận dụng quy định này để khởi tố điều tra một số hành vi phạm
tội nghiêm trọng xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân (quy định tại chương
III Bộ luật hình sự); hành vi xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
công dân (quy định tại chương II Bộ luật hình sự) mà chủ thể của những tội phạm
này là cán bộ, nhân viên Nhà nước, chính quyền cơ sở; hành vi thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động tố tụng; những vụ buôn lậu mà chủ thể
tội phạm là những tên trùm buôn lậu lớn, thao túng cán bộ cơ quan Nhà nước và
những trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.
II- NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG VÀ MỐI QUAN HỆ TRONG ĐIỀU TRA
1- Nguyên tắc hoạt động
Căn cứ vào nguyên tắc hoạt động điều tra quy định
tại điều 3 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự và nguyên tắc tập trung thống nhất
trong ngành Kiểm sát, trong hoạt động điều tra cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát tuân theo những nguyên tắc sau đây:
- Phải tuân theo pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh
các nguyên tắc tố tụng hình sự.
- Chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
trực tiếp quản lý và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Viện trưởng quyết định giao vụ án cho cơ quan điều
tra tiến hành điều tra và thông qua công tác kiểm sát điều tra mà kiểm tra, chỉ
đạo hoạt động điều tra, quyết định đường lối xử lý vụ án;
- Thủ trưởng cơ quan điều tra trực tiếp tổ chức,
chỉ đạo hoạt động điều tra, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng về hoạt động của
mình.
- Cục điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao chỉ đạo nghiệp vụ điều tra đối với phòng điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh. Phòng điều tra của Viện kiểm sát quân sự trung ương chỉ đạo nghiệp vụ
các Ban điều tra của Viện kiểm sát quân sự Tổng cục, quân khu, quân chủng và cấp
tương đương.
2- Mối quan hệ
a) Quan hệ giữa cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát với các đơn vị khác trong Viện kiểm sát (kể cả Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện và Viện kiểm sát quân sự cấp thứ 3).
Qua thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật các đơn vị phát hiện tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan
điều tra của VKS đã nói trên thì có trách nhiệm thu thập chứng cứ và các tài liệu
liên quan đến vụ án. Nếu tài liệu chứng cứ thu thập được đã rõ về hành vi, người
phạm tội và thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì làm kết luận, trao đổi với
cơ quan điều tra và báo cáo để Viện trưởng quyết định.
b) Quan hệ giữa cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát với đơn vị cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, đơn vị kiểm soát quân sự là
quan hệ phối hợp và theo quy định của pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm.
Khi cần áp dụng một số biện pháp điều tra mang
tính chất cưỡng bức kẻ phạm tội phải chấp hành như thực hiện lệnh bắt, tạm giữ,
tạm giam, truy nã, áp giải kẻ phạm tội, cần hỗ trợ, đảm bảo trật tự an toàn khi
điều tra viên thực hiện lệnh khám xét, thu giữ vật chứng của vụ án, kê biên tài
sản, trích lục tiền án tiền sự hoặc cần sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ công
an như theo dõi ngoại tuyến, bố trí kỹ thuật, giám định khoa học hình sự (tự dạng,
dấu vết…) thì cơ quan điều tra của VKS có công văn yêu cầu các đơn vị công an,
đơn vị kiểm soát quân sự thực hiện hoặc hỗ trợ thực hiện.
III- VỀ TỔ CHỨC, CÁN BỘ, PHƯƠNG TIỆN HOẠT ĐỘNG
1- Về tổ chức
Cơ quan điều tra VKSND tổ chức ở hai cấp; của Viện
KSND tối cao là cục điều tra, của VKSND cấp tỉnh là phòng điều tra; của VKS
quân sự trung ương là phòng điều tra, của VKS quân sự cấp Tổng cục, quân khu,
quân chủng và cấp tương đương là ban điều tra.
Cục điều tra của VKSND tối cao tổ chức làm 2
phòng:
- Phòng tổng hợp và kiểm tra hướng dẫn công tác
điều tra.
- Phòng điều tra.
Trong cơ quan điều tra các cấp có Thủ trưởng (Cục
trưởng, trưởng phòng, trưởng ban) Phó Thủ trưởng (Phó Cục trưởng, phó phòng, phó
ban), điều tra viên là các cán bộ có tư cách pháp lý trong hoạt động điều tra
và còn có một số chuyên viên, nhân viên giúp việc.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết
định thành lập cơ quan điều tra, căn cứ và tiêu chuẩn quy định tại điều 23 và
25 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự ra quyết định bổ nhiệm, cấp giấy chứng nhận
Thủ trưởng, phó Thủ trưởng, điều tra viên trong ngành.
Cơ quan điều tra có con dấu riêng.
Điều tra viên hưởng mọi chế độ như kiểm sát viên
và các quyền lợi Nhà nước quy định chung cho điều tra viên.
2- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan điều
tra các cấp
a) Cục điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, phòng điều tra thuộc Viện kiểm sát quân sự trung ương có nhiệm vụ:
+ Về chỉ đạo hoạt động điều tra đối với các cơ quan
điều tra cấp dưới:
- Kiểm tra cơ quan điều tra cấp dưới về chấp
hành pháp luật trong hoạt động điều tra và chỉ thị, mệnh lệnh của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác điều tra.
- Hướng dẫn nghiệp vụ điều tra.
- Đúc rút, phổ biến kinh nghiệm, bồi dưỡng nâng
cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ điều tra.
+ Về điều tra tội phạm:
- Rút về điều tra những vụ án do cơ quan điều
tra ở cấp trung ương điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Những vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, chủ thể
là những cán bộ chủ chốt của cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp trung ương.
- Tiến hành xác minh những vụ án theo trình tự
tái thẩm thuộc quyền kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
- Những vụ án khác do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao giao.
- Nghiên cứu, hướng dẫn sử dụng, bảo quản phương
tiện phục vụ cho công tác điều tra.
b) Phòng điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh,
Ban điều tra của Viện kiểm sát quân sự quân khu, quân chủng, Tổng cục và cấp
tương đương có nhiệm vụ:
- Điều tra những vụ thuộc 3 trường hợp a, b, c
nêu trên xảy ra trong phạm vi lãnh thổ, thuộc thẩm quyền về những vụ án do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao.
- Xác minh những vụ án do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu, quân chủng, Tổng
cục, kháng nghị tái thẩm.
- Qua thực tế công tác đúc rút kinh nghiệm, bồi
dưỡng nâng cao trình độ.
3- Về cán bộ
Căn cứ vào nhiệm vụ, đặc điểm thực tiện và khả
năng cán bộ, để hoàn thành nhiệm vụ, trước mắt ở Cục điều tra bố trí 15 cán bộ.
Phòng điều tra của Viện kiểm sát cấp tỉnh có từ 3 cán bộ trở lên.
Biên chế, cán bộ của cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương và Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng quy định.
Số cán bộ bố trí sang làm công tác điều tra phải
có kiến thức pháp lý nhất định, đã qua công tác điều tra hoặc chọn trong số cán
bộ kiểm sát điều tra giỏi, có kinh nghiệm, đã được học các lớp dự thẩm tại Liên
xô về.
Điều tra tội phạm là công tác nghiệp vụ đòi hỏi ở
người cán bộ làm điều tra phải có những tiêu chuẩn quy định tại điều 23, 25
Pháp lệnh điều tra hình sự, để có đội ngũ cán bộ với yêu cầu trên cần có kế hoạch
đào tạo:
- Với số cán bộ hiện có phải thực hiện phương
châm “vừa làm vừa học”, qua các lớp tập huấn, rút kinh nghiệm trong thực tế, đến
trường học từng chuyên đề.
- Tiếp nhận một số sinh viên được đào tạo về
khoa điều tra tội phạm ở nước ngoài về.
- Tuyển chọn trong số cán bộ trẻ và học sinh tốt
nghiệp phổ thông gửi sang trường Đại học cảnh sát nhân dân (Bộ Nội vụ) học về
điều tra.
4- Phương tiện hoạt động
Từng bước trang bị cho cơ quan điều tra những
phương tiện cần thiết và kinh phí để phục vụ công tác điều tra.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành
phố, đặc khu. Viện kiểm sát quân sự và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao tổ chức cho cán bộ nghiên cứu nắm vững Pháp lệnh “tổ chức
điều tra hình sự”, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát, tổ chức thực hiện Pháp lệnh theo Thông tư này.
Trừ Cục điều tra của VKSND tối cao và bốn phòng
điều tra của bốn tỉnh thành phố đã thành lập từ trước, các VKSND tỉnh khác cần
cân nhắc kỹ, căn cứ vào số lượng các vụ việc xảy ra hàng năm mà VKS cần phải tự
điều tra, và khả năng cán bộ để báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân tối cao xét,
quyết định thành lập cơ quan điều tra, bổ nhiệm các chức danh Thủ trưởng, phó
Thủ trưởng, điều tra viên. Chưa nên làm đồng loạt, tỉnh nào cũng phải tổ chức,
sẽ làm cồng kềnh về tổ chức, phân tán lực lượng cán bộ và hiệu quả không tốt.
Khi chưa có cơ quan điều tra, phát hiện thấy tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát thì thu thập tài liệu, yêu cầu cơ quan điều
tra của Công an tiến hành điều tra. Trường hợp đặc biệt không thể giao cho cơ
quan điều tra của Công an thì báo cáo để Viện trưởng Viện KSND tối cao quyết định.
Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh theo Thông
tư này có gì vướng mắc, các đồng chi phản ánh kịp thời đến Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.