BỘ
TƯ PHÁP
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
555-TT/THA
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 6 năm 1993
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TƯ PHÁP SỐ 555-TT/THA NGÀY 10 THÁNG 6 NĂM 1993 HƯỚNG
DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Để thi hành Nghị định số 30-CP
ngày 2 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp
hành viên, Chỉ thị số 266-TTg ngày 2 tháng 6 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ về
việc triển khai bàn giao và tăng cường công thi hành án dân sự, Thông tư liên
ngành số 01-TT/LN ngày 26 tháng 5 năm 1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi
hành án dân sự, Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề sau đây:
I. VIỆC THÀNH
LẬP CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Để thi hành điểm b khoản 1 Điều
2 của Nghị định số 30-CP ngày 2 tháng 6 năm 1993, điểm a khoản 1 của chỉ thị số
266-TTg ngày 2 tháng 6 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ, khoản 1 Mục III của
Thông tư liên ngành số 01-TT/LN ngày 26 tháng 5 năm 1993, Bộ Tư pháp yêu cầu:
1. Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương lập đề án tổ chức Phòng thi hành án
thuộc Sở Tư pháp và các Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, gửi về Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp chậm nhất đến ngày 20 tháng 6 năm 1993 để trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra
quyết định thành lập.
Đề án tổ chức cơ quan thi hành
án phải nêu rõ cơ cấu tổ chức của Phòng thi hành án, Đội thi hành án, biên chế,
số chấp hành viên và các cán bộ làm công tác thi hành án, nguồn và phương án bố
trí cán bộ (kể cả việc kiêm nhiệm), dự kiến nhân sự để bổ nhiệm chấp hành viên.
Kèm theo đề án, Giám đốc Sở Tư pháp làm thủ tục đề xuất nhân sự gửi Cục trưởng
Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ
nhiệm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Giám đốc Sở Tư pháp làm thủ tục đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm chấp
hành viên, chấp hành viên trưởng quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Trước mắt, đề nghị Giám đốc Sở
Tư pháp bố trí, sắp xếp, sử dụng số chấp hành viên, chấp hành viên trưởng và
cán bộ thi hành án chuyển từ các Toà án sang. Việc tuyển chọn người mới để đề
nghị bổ nhiệm chấp hành viên hoặc bổ sung cán bộ làm công tác thi hành án cần
được thực hiện chặt chẽ, đối chiếu với các tiêu chuẩn chấp hành viên đã được
quy định, tránh tình trạng đề nghị bổ nhiệm hoặc đưa vào biên chế ồ ạt, không bảo
đảm tiêu chuẩn.
Bộ Tư pháp dự kiến phân bổ biên
chế của Phòng thi hành án, Đội thi hành án như sau:
a) Đối với Phòng thi hành án
thuộc Sở Tư pháp:
- Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, biên chế không quá 15 người;
- Các tỉnh đồng bằng, trung du,
thành phố Hải Phòng, biên chế không quá 10 người;
- Các tỉnh miền núi, biên chế
không quá 7 người.
b) Đối với Đội thi hành án
thuộc Phòng Tư pháp:
- Các quận của thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, biên chế không quá 10 người;
- Thành phố thuộc tỉnh, các quận
của thành phố Hải Phòng, biên chế không quá 6 người;
- Các thị xã, biên chế không quá
5 người;
- Các huyện đồng bằng , trung du
, biên chế từ 3-5 người.
- Các huyện miền núi , biên chế
2 người
Trên cơ sở dự kiến biên chế của
Bộ, Giám đốc Sở Tư pháp căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương để lập đề án
đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp phân bổ biên chế cho các Phòng thi hành án và Đội
thi hành án.
2. Đối với quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, nơi do khó khăn chưa thành lập ngay được Phòng Tư pháp,
thì Giám đốc Sở Tư pháp lập đề án tổ chức Phòng Tư pháp, có dự kiến tổ chức Đội
thi hành án, trình Uỷ ban nhân dân ra quyết định thành lập Phòng Tư pháp, đồng
thời báo cáo Cục quản lý thi hành án dân sự để trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra
quyết định thành lập đội thi hành án. Cho đến khi Phòng Tư pháp được thành lập,
Giám đốc Sở Tư pháp trực tiếp quản lý, chỉ đạo hoạt động của Đội thi hành án.
3. Ở huyện, nơi số lượng bản án,
quyết định về dân sự phải thi hành án hàng năm quá ít, thì chưa thành lập Đội
thi hành án, nhưng vẫn phải có chấp hành viên ; nếu vẫn chưa có chấp hành viên,
thì Giám đốc Sở Tư pháp khẩn trương lựa chọn người và làm thủ tục đề nghị Bộ
trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
Ở huyện, nơi chưa thành lập Đội
thi hành án, việc ra các quyết định về thi hành án mà theo quy định tại khoản 1
Điều 4 của Pháp lệnh thi hành án dân sự là thuộc thẩm quyền của Đội trưởng Đội
thi hành án, thì do Trưởng Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp đảm nhiệm.
4. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, nơi đã thành lập Phòng thi hành án mà chưa có Trưỏng phòng, thì
Giám đốc Sở Tư pháp lựa chọn chấp hành viên gửi Cục trưởng Cục quản lý thi hành
án dân sự thuộc Bộ Tư pháp xem xét đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định
giao chấp hành viên đó quyền Trưởng Phòng thi hành án.
Ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, nơi đã thành lập Đội thi hành án mà chưa có Đội trưởng, thì Giám đốc
Sở Tư pháp lựa chọn chấp hành viên và sau khi thống nhất ý kiến với Cục trưởng
Cục quản lý thi hành án dân sự đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định giao
chấp hành viên đó quyền Đội trưởng Đội thi hành án.
5. Ở địa phương, nơi cơ quan thi
hành án có biên chế chấp hành viên, cán bộ thi hành án từ 10 người trở lên và
có số lượng bản án, quyết định phải thi hành hàng năm tương đối lớn, thì có thể
có một Phó trưởng Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp, một Đội phó Đội thi hành
án thuộc Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Phó trưởng Phòng thi hành án do
Cục trưởng Cục quản lý thi hành án dân sự bổ nhiệm trong số chấp hành viên tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp.
Đội phó Đội thi hành án do Giám
đốc Sở Tư pháp bổ nhiệm trong số chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh theo đề nghị của Trưởng Phòng Tư pháp.
II. VIỆC VẬN
DỤNG TIÊU CHUẨN,QUY CHẾ CHẤP HÀNH VIÊN
1. Việc vận dụng
tiêu chuẩn "tương đương" Đại học Pháp lý quy định tại điểm a khoản 2
và điểm a khoản 3 Điều 13 của Nghị định số 30-CP ngày 2 tháng 6 năm 1993 của
Chính phủ được cụ thể hoá như sau:
a) Tiêu chuẩn "tương
đương" Đại học Pháp lý được áp dụng cho những người đã học xong chương
trình đại học Pháp lý nhưng chưa được cấp bằng Đại học Pháp lý hoặc những người
đã tốt nghiệp Cao đẳng Toà án, Cao đẳng Kiểm sát, Cao đẳng Cảnh sát, Cao đẳng
An ninh đang làm công tác pháp luật hoặc những người đang học Đại học Pháp lý tại
chức đã qua 3/4 chương trình hoặc những người đã học xong 5 khoá luân huấn theo
chương trình Đại học Pháp lý.
b) Ở các huyện miền núi, vùng
cao, vùng sâu, huyện đảo, nơi chưa có người đủ tiêu chuẩn chấp hành viên, chấp
hành viên trưởng, thì Giám đốc Sở Tư pháp vận dụng tiêu chuẩn về kiến thức pháp
lý quy định tại Thông tư số 394-QLTA ngày 22 tháng 5 năm 1990 của Bộ Tư pháp lựa
chọn cán bộ đưa vào danh sách để đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, bổ nhiệm
chấp hành viên,chấp hành viên trưởng.
2. Các chấp
hành viên, chấp hành viên trưởng đương nhiệm trước ngày ký Thông tư này vẫn tiếp
tục làm nhiệm vụ cho tới khi được bổ nhiệm theo quy định mới.
Cục trưởng Cục quản lý thi hành
án dân sự,Giám đốc Sở Tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tiến
hành rà soát đội ngũ chấp hành viên hiện có, làm thủ tục để đề nghị Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm và đổi thẻ chấp hành viên, chấp hành viên trưởng chậm nhất đến
hết quý III năm 1993. Trong thời hạn này, Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm tổ
chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cho chấp hành viên, chấp hành viên trưởng
chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án.
Việc vận dụng các tiêu chuẩn chấp
hành viên, chấp hành viên trưởng quy định tại các điểm a, b khoản 1 Mục II của
Thông tư này chỉ được thực hiện trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày ký Thông tư
này. Quá thời hạn đó,nếu chấp hành viên, chấp hành viên trưởng vẫn chưa có đủ
điều kiện quy định tại điều 13 của Nghị định số 30-CP ngày 2 tháng 6 năm 1993 của
Chính phủ, thì sẽ xem xét lại việc tiếp tục giữ chức vụ chấp hành viên, chấp
hành viên trưởng.
3. Việc bổ nhiệm
chấp hành viên, chấp hành viên trưởng theo quy định tại Điều 14 của Nghị định số
30-CP ngày 2 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ được thực hiện như sau:
a) Giám đốc Sở Tư pháp lập hồ sơ
gửi Cục trưởng Cục quản lý thi hành án dân sự xem xét để đề nghị Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Giám đốc Sở Tư pháp lập hồ sơ đề
nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
b) Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm chấp
hành viên, chấp hành viên trưởng gồm có:
- Đơn tình nguyện đảm nhiệm chức
vụ của người được đề nghị bổ nhiệm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng;
- Sơ yếu lý lịch cá nhân theo mẫu
do Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp quy định;
- Bản sao bằng đại học Pháp lý,
chứng chỉ tương đương đại học Pháp lý, giấy chứng nhận sức khoẻ của cơ quan y tế
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên, giấy chứng nhận đã qua lớp bồi
dưỡng, nghiệp vụ thi hành án.
- Văn bản đề nghị bổ nhiệm của
Giám đốc Sở Tư pháp hoặc Cục trưởng Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp.
Đối với việc bổ nhiệm chấp hành
viên trưởng, thì trong hồ sơ đề nghị bbổ nhiệm phải có ý kiến bằng văn bản của
Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
III. VỀ QUẢN
LÝ NGÂN SÁCH VÀ KINH PHÍ THI HÀNH ÁN
Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ
Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc quản lý ngân sách và kinh phí thi hành án
bao gồm 3 khâu: kế hoạch, cấp phát và quyết toán như sau:
1. Kể từ ngày 1 tháng 7 năm
1993, căn cứ vào kế hoạch ngân sách và hạn mức kinh phí được duyệt, Bộ Tư pháp
trực tiếp cấp kinh phí thi hành án bao gồm kinh phí chi cho con người, cho công
việc, chi khác, chi cải tạo mở rộng trụ sở.. cho Phòng thi hành án thuộc Sở Tư
pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với kinh phí thi hành án của
các Đội thi hành án thuộc phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thì được Bộ Tư pháp cấp qua tài sản mở tại Chi cục Kho bạc tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương của Phồng thi hành án thuộc Sở Tư pháp, đồng thời thông báo hạn
mức kinh phí cấp phát cho Đội thi hành án.
2. Căn cứ vào hạn mức kinh phí
được cấp và theo thông báo hạn mức kinh phí cho các Đội thi hành án, Trưởng
Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp có nhiệm vụ cấp đúng, cấp đủ kinh phí cho Đội
thi hành án, không được tự ý giữ lại, điều động hoặc cân đối kinh phí đã được cấp
cho các Đội thi hành án khác khi chưa được lãnh đạo Bộ Tư pháp xét duyệt.
3. Trưởng Phòng thi hành án, Đội
trưởng Đội thi hành án có nhiệm vụ chi tiêu, hạch toán kế toán kinh phí thi
hành án theo đúng chế độ tài chính hiện hành.
4. Giám đốc Sở Tư pháp có nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát việc chi tiêu tài chính của Phòng thi hành án, Đội thi
hành án theo đúng chế độ tài chính hiện hành.
Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp sẽ có
Thônh tư liên ngành hướng dẫn cụ thể việc quản lý ngân sách và kinh phí thi
hành án.
IV. MỐI QUAN
HỆ CÔNG TÁC GIỮA CƠ QUAN TƯ PHÁP VÀ CƠ QUAN THI HÀNH ÁN CÙNG CẤP
Mối quan hệ công tác giữa cơ
quan tư pháp và cơ quan thi hành án quy định tại các Điều 4, 5, 6, và 13 của
Nghị định số 30-CP ngày 2 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ được cụ thể hoá như
sau:
1. Trưởng Phòng thi hành án có
thể do một Phó Giám đốc Sở Tư pháp kiêm nhiệm, nếu có đủ tiêu chuẩn của chấp
hành viên trưởng.
2. Trưởng Phòng thi hành án giúp
Giám đốc Sở Tư pháp quản lý công tác thi hành án dân sự, đồng thời trực tiếp tổ
chức việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án theo quy định của Pháp
lệnh thi hành án dân sự và Thông tư này.
3. Đội trưởng Đội thi hành án có
thể do Phó trưởng Phòng Tư pháp kiêm nhiệm, nếu có đủ tiêu chuẩn của chấp hành
viên trưởng.
4.Trưởng Phòng Tư pháp quản lý Đội
thi hành án về mặt hành chính , tổ chức và kiểm tra hoạt động thi hành án của Đội
thi hành án , đồng thời trực tiếp giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp và
Giám đốc Sở Tư pháp trong việc quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở
địa phương.
V. VỀ VIỆC
BÀN GIAO CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Người được Giám đốc Sở Tư pháp uỷ
quyền tiếp nhận bàn giao công tác thi hành án dân sự quy định tại khoản 2 Mục I
của Thông tư liên ngành số 01-TT/LN ngày 26 tháng 5 năm 1993 được cụ thể hoá
như sau:
1. Ở địa phương, nơi đã thành lập
Phòng thi hành án, thì thủ trưởng các cơ quan đó trực tiếp nhận việc bàn giao
công tác thi hành án;
2. Ở địa phương, nơi đã có Phòng
Tư pháp mà chưa thành lập Đội thi hành án, thì Trưởng Phòng Tư pháp trực tiếp
nhận việc bàn giao công tác thi hành án;
3. Ở địa phương, nơi do khó khăn
mà chưa thành lập ngay được Phòng Tư pháp, thì Trưởng Phòng thi hành án thuộc Sở
Tư pháp trực tiếp nhận việc bàn giao công tác thi hành án hoặc Giám đốc Sở Tư
pháp cử cán bộ tiếp nhận việc bàn giao;
4. Ở địa phương, nơi chưa có thể
bố trí cán bộ chuyên trách làm kế toán, thủ quỹ, khi thi hành án, thì Giám đốc
Sở Tư pháp hoặc Trưởng Phòng Tư pháp bố trí cán bộ của cơ quan tư pháp đó kiêm
nhiệm, nhưng không được bố trí kế toán thi hành án kiêm thủ quỹ thi hành án;
5. Căn cứ biên bản bàn giao,
Giám đốc Sở Tư pháp ra quyết định tiếp nhận chấp hành viên trưởng, chấp hành
viên, cán bộ làm công tác thi hành án chuyển từ Toà án sang Phòng thi hành án
và Đội thi hành án.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có vướng mắc, thì Giám đốc Sở Tư pháp báo cáo về Bộ Tư pháp để Bộ kịp thời hướng
dẫn cụ thể.