THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
51-TTg
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 06 năm 1963
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH NGHỊ ĐỊNH SỐ 82-CP NGÀY 03-6-1963 CỦA HỘI ĐỒNG
CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC PHÂN CHIA CÁC NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Hội đồng Chính phủ đã quy định
trong Nghị định số 82-CP ngày 03-6-1963 việc tạm thời chia các ngành trong nền
kinh tế quốc dân thành hai khu vực:
1. Khu vực các ngành sản xuất vật
chất.
2. Khu vực các ngành không sản
xuất vật chất.
Thủ tướng Chính phủ giải thích cụ
thể một số điểm trong nghị định ấy để các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thi hành.
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VIỆC
PHÂN CHIA CÁC NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Việc tạm thời phân chia các
ngành trong nền kinh tế quốc dân nhằm mục đích thống nhất việc tính toán trong
công tác kế hoạch và thống kê, thống nhất việc tính toán giữa các loại hạch
toán kế toán, hạch toán thống kê và hạch toán nghiệp vụ. Việc phân chia các
ngành trong nền kinh tế quốc dân thống nhất và hợp lý là một cơ sở để nghiên cứu
và xác định phương hướng tổ chức của từng ngành để nghiên cứu và xác định đúng
đắn quan hệ tỷ lệ phát triển giữa các ngành và giữa các bộ phận trong từng
ngành của nền kinh tế quốc dân.
II. NGUYÊN TẮC SẮP XẾP CÁC TỔ
CHỨC, ĐƠN VỊ VÀ CƠ QUAN VÀO CÁC NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Theo điều 3 của nghị định thì
nguyên tắc để sắp xếp các tổ chức, đơn vị và cơ quan vào các ngành trong nền
kinh tế quốc dân là căn cứ theo chức năng chủ yếu và hoạt động thực tế của từng
tổ chức, đơn vị và cơ quan. Điều đó có nghĩa là việc sắp xếp các tổ chức, đơn vị
và cơ quan. Điều đó có nghĩa là việc sắp xếp các tổ chức, đơn vị và cơ quan vào
các ngành trong nền kinh tế quốc dân không phải chỉ căn cứ theo Bộ hay ngành quản
lý, vì phạm vi quản lý của một Bộ hay một ngành quản lý thường gồm nhiều tổ chức,
đơn vị và cơ quan hoạt động có tính chất khác nhau. Mặt khác, tình hình kinh tế,
văn hóa miền Bắc nước ta đang trên đà phát triển, có những ngành đã hình thành
tương đối rõ rệt, nhưng cũng có ngành đang trong quá trình hình thành. Vì vậy,
khi sắp hết phải căn cứ vào chức năng và hoạt động thực tế hiện nay của các tổ
chức, đơn vị, cơ quan là chủ yếu, đồng thời phải tính đến hướng phát triển về
sau này của các ngành ấy.
III. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CHỦ
YẾU CỦA TỪNG NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Do sự phân công lao động của xã
hội, nên trong xã hội đã hình thành nhiều ngành khác nhau. Các ngành ấy đều cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhưng tác dụng của các ngành ấy
trong quá trình tái sản xuất xã hội không giống nhau. Có một số ngành trực tiếp
sáng tạo ra, hoặc làm thêm giá trị của sản phẩm vật chất; một số ngành khác
không trực tiếp sản xuất ra, cũng không làm tăng thêm giá trị sản phẩm vật chất.
Căn cứ vào điểm khác nhau cơ bản đó mà phân chia các ngành trong nền kinh tế quốc
dân ra hai khu vực: khu vực các ngành sản xuất vật chất và khu vự các ngành
không sản xuất vật chất.
Khu vực các ngành sản xuất vật
chất gồm 10 ngành:
1. Ngành công nghiệp
2. Ngành nông nghiệp
3. Ngành lâm nghiệp
4. Ngành xây dựng cơ bản.
5. Ngành vận tải hàng hóa
6. Ngành bưu điện và liên lạc phục
vụ sản xuất.
7. Ngành thu mua
8. Ngành thương nghiệp và ăn uống
công cộng
9. Ngành cung cấp vật tư kỹ thuật
và tiêu thụ tư liệu sản xuất
10. Ngành sản xuất vật chất
khác.
Lao động của các ngành này trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm vật chất, hoặc làm tăng thêm giá trị sản phẩm vật chất.
Các ngành này chia làm hai nhóm:
a) Nhóm một gồm sáu ngành:
1. Ngành công nghiệp có
chức năng trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, sản xuất ra tư liệu
sản xuất, vật phẩm tiêu dùng và khai thác của cải thiên nhiên. Hoạt động công
nghiệp bao gồm việc khai thác khoáng chất, động vật, thực vật có sẵn trong
thiên nhiên và chế biến nguyên liệu công nghiệp, nông nghiệp, nhằm thỏa mãn nhu
cầu sản xuất tiêu dùng. Hoạt động của ngành công nghiệp còn gồm cả việc sửa chữa
lớn máy móc thiết bị và sửa chữa vật phẩm tiêu dùng.
2. Ngành nông nghiệp có
chức năng sản xuất ra sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi để cung cấp lương thực,
thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. Đặc
điểm sản xuất của nông nghiệp là kết hợp lao động của con người với quá trình
phát triển tự nhiên của sinh vật, cho nên sản phẩm của nông nghiệp tuy là sản
phẩm chưa qua chế biến, nhưng là kết quả lao động của con người, không phải là
những thứ có sẵn trong thiên nhiên.
3. Ngành lâm nghiệp có chức
năng trồng cây, gây rừng, trung ương bổ, bảo vệ và cải tạo rừng để cung cấp gỗ
cho ngành xây dựng, ngành công nghiệp và để chắn gió, phòng bão, phòng hạn, chống
xói mòn đất, chống nước mặn, điều hòa khí hậu và lọc không khí. Việc khai thác
gỗ không thuộc ngành lâm nghiệp mà thuộc ngành công nghiệp.
4. Ngành xây dựng cơ bản có
chức năng sản xuất ra tài sản cố định ở ngay địa điểm mà tài sản cố định đó sẽ
phát huy tác dụng. Hoạt động của ngành này bao gồm việc xây dựng nhà cửa và vật
kiến trúc, lắp thiết bị và máy móc, thăm dò và thiết kế để phục vụ cho công tác
xây dựng, sửa chữa lớn nhà cửa và vật kiến trúc. Các công việc lắp hồ ao, làm
khô đất, tiêu nước để thi công, phát quan và nhổ gốc cây…để khai hoang đều thuộc
ngành xây dựng cơ bản.
5. Ngành sản xuất vật chất
khác bao gồm những hoạt động có tính chất sản xuất vật chất, như việc thu
nhặt nông sản, lâm sản, hải sản…như việc thu nhặt sắt vụn, phế liệu, phế phẩm…như
việc săn bắn…như việc xuất bản, sản xuất phim…
Các hoạt động này không đủ điều
kiện để xếp thành từng ngành sản xuất vật chất độc lập, cũng không thể xếp
chung vào các ngành sản xuất vật chất khác như công nghiệp, nông nghiệp v .v…
6. Ngành bưu điện và liên lạc
phục vụ sản xuất có chức năng phục vụ các ngành sản xuất vật chất.Lao động
của ngành này vừa trực tiếp nhập vào giá trị sản phẩm vật chất sản xuất ra, vừa
làm tăng thêm giá trị sản phẩm vật chết trong khâu lưu thông.
b) Nhóm hai gồm bốn ngành:
7. Ngành vận tải hàng hóa có
chức năng vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Lao động của
ngành này tiếp tục hoàn thành quá trình sản xuất và làm tăng thêm giá trị của sản
phẩm vật chất.
Việc vận tải hàng hóa trong nội
bộ các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường không thuộc ngành vận tải
hàng hóa, vì đó là khâu vận chuyển nội bộ gắn liền với chu kỳ sản xuất sản phẩm
vật chất ở xí nghiệp.
8. Ngành thu mua có chức
năng thực hiện kế hoạch thu mua nông sản phẩm và bảo quản nông sản phẩm đó. Hoạt
động của ngành này góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp để không ngừng tăng
thêm khối lượng hàng hóa nông sản, cung cấp cho sản xuất và tiêu dùng của xã hội
ngày càng tăng. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, hoạt động thu mua nông sản
còn do nhiều cơ quan phụ trách, nhưng cần phải sắp xếp thành một ngành riêng.
9. Ngành cung cấp vật tư kỹ
thuật và tiêu thụ tư liệu sản xuất có chức năng cung cấp, phân phối và tư
liệu sản xuất. Ngành phân phối và tiêu thụ tư liệu sản xuất. Ngành này cũng như
ngành thu mua có tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm vật chất.
Những bộ phận cung ứng, cung
tiêu của các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường. không thuộc ngành
cung cấp vật tư kỹ thuật, vì hoạt động của những bộ phận này gắn liền với chu kỳ
sản xuất của xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường. Những tổ chức quản
lý vật tư dự trữ của Nhà nước của quốc phòng, ...cùng không thuộc ngành cung cấp
vật tư kỹ thuật, vì các đơn vị này chủ yếu làm nhiệm vụ quản lý vật tư dự trữ,
chứ không làm nhiệm vụ cung cấp, phân phối vật tư.
10. Ngành thương nghiệp và
ngành ăn uống công cộng có chức năng cung cấp, phân phối hàng hóa tiêu dùng
đến tay người tiêu dùng và bán thức ăn phục vụ nhân dân. Tuy trong ngành ăn uống
có việc chế biến thức ăn tại các cửa hàng ăn là một hoạt động có tính chất công
nghiệp nhưng việc chế biến thức ăn ấy là để bán ngay tại chỗ cùng với những
hàng hóa thực phẩm khác, cho nên hoạt động chủ yếu của ngành ăn uống công
cộng là hoạt động thương nghiệp; vì vậy ngành ăn uống công cộng xếp chung vào
ngành thương nghiệp.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, ba
ngành thu mua, cung cấp vật tư kỹ thuật và tiêu thụ tư liệu sản xuất, thương
nghiệp và ăn uống công cộng, có nhiệm vụ thực hiện mối liên hệ có kếhoạch giữa
sản xuất và tiêu dung, thực hiện việc cung cấp, phân phối và tiêu thụ tư liệu sản
xuất theo kế hoạch, thực hiện mối liên hệ hàng hóa giữa công nghiệp và công
nghiệp giữa thị thành và nông thôn, giữa các ngành và các vùng kinh tế trong nước.
Hoạt động của ba ngành có làm tăng thêm giá trị sản phẩm vật chất, đồng thời một
bộ phận sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân của hai ngành công nghiệp và nông
nghiệp được thực hiện qua hoạt động của ba ngành này. Tuy vậy lao động của ba
ngành này vẫn mang hai tính chất: một phần lao động có tính chất sản xuất vì nó
có tham gia vào quá trình sản xuất, hoặc tiếp tục quá trình sản xứat trong khâu
lưu thông, có làm tăng thêm giá trị sản phẩm vật chất như: vận chuyển, cân đo,
đóng, gói, bao bì, bảo quản, sơ bộ chọn lọc, phân loại, kiểm tra chất lượng và
quy cách hàng hóa…; một phần lao động không có tính chất sản xuất, không làm
tăng thêm giá trị của sản phẩm vật chất như: mua và bán hàng hóa, tuyên truyền,
quảng cáo hàng…nhưng phần lao động không có tính chất sản xuất chỉ chiếm phần
nhỏ và không thể tách riêng được.
Khu vực các ngành không sản
xuất vật chất gồm bảy ngành:
1. Ngành phục vụ công cộng và phục
vụ sinh hoạt
2. Ngành vận tải, bưu điện và
liên lạc phục vụ đời sống nhân dân và phục vụ các ngành không sản xuất vật chất.
3. Ngành y tế, thể dục thể thao,
bảo hiểm xã hội.
4. Ngành giáo dục, văn hóa, nghệ
thuật
5. Ngành khoa học và công tác phục
vụ khoa học
6. Ngành tín dụng và cơ quan bảo
hiểm Nhà nước
7. Ngành các cơ quan quản lý Nhà
nước; các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị và xã hội.
Lao động của các ngành này tuy
không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm vật chất nhưng cần thiết cho sự phát triển
của xã hội, có tác dụng lớn đến tái sản xuất xã hội.
Sau đây là chức năng cụ thể của
từng ngành;
1. Ngành phục vụ công cộng và
phục vụ sinh hoạt
2. Ngành vận tải, bưu điện và
liên lạc phục vụ đời sống nhân dân và phục vụ các ngành không sản xuất vật chất.
Hai ngành này có chức năng phục
vụ trực tiếp sinh hoạt của nhân dân. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, điều kiện
sinh hoạt và điều kiện lao động của nhân dân không ngừng được nâng cao, cho nên
yêu cầu của xã hội đối với các ngành này ngày càng lớn. Trong thực tế, tổ chức
và hoạt động của ngành vận tải, bưu điện và liên lạc thường không tách riêng phần
phục vụ nhân dân, phục vụ các ngành không sản xuất vật chất và phục vụ sản xuất.
Vì vậy khi nghiên cứu hoạt động của hai ngành này, phải dùng các phương pháp
gián tiếp để tách phần hoạt động phục vụ sản xuất với phần phục vụ đời sống
nhân dân và phục vụ các ngành không sản xuất vật chất.
3. Ngành y tế, thể dục thể
thao, bảo hiểm xã hội có chức năng góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe của
nhân dân để phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng.
4. Ngành giáo dục, văn hóa,
nghệ thuật có chức năng đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ
kỹ thuật của nhân dân, góp phần vào việc nâng cao tăng năng suất lao động, chất
lượng lao động, nâng cao hiệu suất công tác, và thỏa mãn nhu cầu văn hóa, nghệ
thuật của nhân dân lao động.
5. Ngành khoa học và công tác
phục vụ khoa học là một ngành kinh tế quốc dân độc lập, có chức năng nghiên
cứu khoa học để phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân. Kết quả nghiên cứu
khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải được phổ cập trong nhân dân và áp dụng
vào thực tế để không ngừng đổi mới kỹ thuật sản xuất và làm tăng mức sản xuất vật
chất.
6. Ngành tín dụng có chức
năng điều hòa lưu thông tiền tệ, phụ trách xuất nhập tiền mặt, huy động tiền
nhàn rỗi, cho vay, làm trung tâm thanh toán và bảo quản vốn ngoại tệ. Thông qua
việc vận dụng chức năng giám đốc bằng đồng tiền và vận dụng tác dụng đòn bẩy của
công tác tín dụng và tiền tệ, ngành này góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông
góp phần phát triển và củng cố chế độ hạch toán kinh tế và chế độ tiết kiệm.
Hiện nay ở Việt-nam chưa có cơ
quan bảo hiểm Nhà nước. Sau này, khi được tổ chức thì cơ quan ấy có thể xếp
chung vào ngành tín dụng và cơ quan bảo hiểm Nhà nước, vì cơ quan bảo hiểm Nhà
nước cũng là một cơ quan kinh doanh tiền tệ, thông qua công tác bảo hiểm mà
thúc đẩy sản xuất phát triển.
7. Ngành các cơ quan quản lý
Nhà nước, các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị và xã hội:
Ngành này gồm các cơ quan quản
lý Nhà nước, các cơ quan và tổ chức của Đảng, các cơ quan và tổ chức của các
đoàn thể chính trị và xã hội.
Trong các cơ quan quản lý Nhà nước
có các cơ quan quản lý về kinh tế, tài chính, lao động và các cơ quan quản lý hành
chính, sự nghiệp, trị an và quốc phòng v .v…
Trong xã hội, mỗi ngành trong nền
kinh tế quốc dân đều có chức năng và tác dụng riêng. Những người lao động trong
khu vực sản xuất vật chất và khu vực không sản xuất có sự trao đổi hoạt động với
nhau và có quan hệ khăng khít với nhau. Nhưng vì tổng sản phẩm xã hội chỉ
tạo ra trong các ngành sản xuất vật chất, cho nên việc phân phối đúng đắn lao động
giữa khu vực sản xuất vật chất và khu vực không sản xuất vật chất có ý nghĩa to
lớn về kinh tế. Nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Nhà nước quản
lý, nhất là các cơ quan quản lý hành chính, để tập trung lao động đẩy mạnh sản
xuất; đồng thời phải không ngừng cải tiến tổ chức lao động, cải tiến sản xuất
trong các ngành sản xuất vật chất để tiết kiệm lao động và nâng cao tăng năng
suất lao động.
Các ngành trong nền kinh tế quốc
dân đều cần thiết cho sự phát triển của xã hội; nhưng công nghiệp là ngành chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp là cơ sở cho công nghiệp phát triển
cho nên công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền
kinh tế quốc dân. Hoạt động của tất cả các ngành đều phải nhằm phục vụ cho sản
xuất công nông nghiệp phát triển, và sản xuất công nông nghiệp phát triển tạo
điều kiện vững chắc cho sự phát triển của tất cả các ngành.
Việc phân ngành kinh tế quốc dân
là một việc rất cần thiết, nhưng còn mới mẽ đối với chúng ta. Yêu cầu các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các Ủy ban hành
chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nghiên cứu kỹ nghị định của
Hội đồng Chính phủ và thông tư của Thủ tướng Chính phủ về vấn để này để thực hiện
cho tốt. Trong khi tiến hành việc phân ngành, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các
cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các Ủy ban hành chính các khu, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương cần trao đổi ý kiến với Tổng cục Thống kê. Mặt
khác, Tổng cục Thống kê cũng cần thống nhất với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Nội
vụ, Bộ Lao động, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước,trước khi có ý kiến quyết định
về sự phân chia ngành của các Bộ, các cơ quan ngang Bô, cơ quan trực thuộc Hội
đồng Chính phủ và các Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
|
THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|