|
BỘ NỘI VỤ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
|
Số: 21/2025/TT-BNV
|
Hà Nội, ngày
12 tháng 10 năm 2025
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG
DẪN NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC TỔ CHỨC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA XVI VÀ ĐẠI BIỂU HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2026 - 2031
Căn cứ Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân số 85/2015/QH13 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 83/2025/QH15;
Căn cứ Nghị quyết số 199/2025/QH15 ngày 21 tháng 5 năm 2025 của Quốc
hội về việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm
kỳ 2021 - 2026; Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031;
Căn cứ Nghị định số 25/2025/NĐ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2025 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội
vụ;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Chính quyền
địa phương;
Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ
công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 như sau:
Chương I
QUY
ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này hướng dẫn nghiệp vụ công
tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 ở các đơn vị hành chính tỉnh, thành phố (sau đây gọi
là cấp tỉnh); xã, phường, đặc khu (sau đây gọi là cấp xã).
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Thông tư này áp dụng đối với Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã; các tổ chức phụ trách bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2026 - 2031 được thành lập ở cấp tỉnh, cấp xã và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan trong việc thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 (sau đây gọi là bầu cử).
Điều 3. Phân chia đơn vị
bầu cử
1. Việc phân chia các đơn vị bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã thực hiện theo quy
định tại Điều 10 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân số 85/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 83/2025/QH15 (sau đây gọi là Luật Bầu cử).
2. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội
và mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bao gồm một hoặc một số
đơn vị hành chính cấp xã hợp thành.
Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã bao gồm một hoặc một số thôn, tổ dân phố hợp thành. Trường hợp thực
sự cần thiết do thôn, tổ dân phố có số dân quá đông thì có thể chia thôn, tổ
dân phố thành nhiều đơn vị bầu cử.
3. Căn cứ số dân, số lượng đại biểu Quốc
hội được bầu ở địa phương, Ủy ban bầu cử cấp tỉnh dự kiến số lượng đơn vị bầu cử,
danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu Quốc hội khóa XVI được bầu ở mỗi
đơn vị bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
Căn cứ số dân, số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, cấp xã được bầu, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã dự kiến số
lượng đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân nhiệm kỳ 2026 - 2031 của cấp mình được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử để đề
nghị Ủy ban bầu cử cùng cấp xem xét, quyết định.
4. Dân số của từng đơn vị hành chính cấp
tỉnh, cấp xã, của từng thôn, tổ dân phố để làm căn cứ xác định số lượng đơn vị
bầu cử, số lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
xã được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử được xác định theo số liệu thống kê dân số tại
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2025 do cơ quan
Công an cấp tỉnh, cấp xã cung cấp.
5. Đối với các địa bàn có đặc điểm dân
cư đặc thù như khu công nghiệp, khu đô thị mới hình thành, khu vực đô thị đông
dân hoặc các xã miền núi có dân cư thưa thớt, việc dự kiến phân chia đơn vị bầu
cử phải bảo đảm cân đối hợp lý về số lượng cử tri giữa các đơn vị bầu cử, tránh
tình trạng chênh lệch quá lớn giữa các đơn vị bầu cử trên cùng một địa bàn và bảo
đảm hợp lý trong phân bổ số lượng đại biểu được bầu, tạo thuận lợi cho cử tri
thực hiện quyền bầu cử và cho
các tổ chức phụ trách bầu cử trong quá trình triển khai nhiệm vụ.
Điều 4. Phân chia khu vực
bỏ phiếu
1. Việc phân chia các khu vực bỏ phiếu bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã thực hiện theo
quy định tại Điều 11 của Luật Bầu cử.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã căn cứ số lượng
cử tri, đặc điểm địa hình, việc phân bố dân cư trên địa bàn để xác định các khu
vực bỏ phiếu cho phù hợp và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó mỗi khu
vực bỏ phiếu bao gồm một hoặc một số thôn, tổ dân phố hợp thành. Trường hợp
thôn, tổ dân phố có số lượng cử tri quá đông hoặc do địa bàn rộng lớn, bị chia
cắt, việc phân bố dân cư không tập trung thì có thể chia thôn, tổ dân phố thành
nhiều khu vực bỏ phiếu. Việc phân chia thôn, tổ dân phố thành nhiều khu vực bỏ
phiếu phải bảo đảm thuận lợi cho
việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của các tổ chức phụ trách bầu cử và
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhất là trong thực hiện công tác bầu cử của Tổ
bầu cử.
3. Trường hợp sau khi đã thành lập các
khu vực bỏ phiếu và lập danh sách cử tri tại các khu vực bỏ phiếu nhưng trên địa
bàn xảy ra dịch bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao, phải thực hiện việc cách ly tại
cơ sở cách ly tập trung, địa bàn phải phong tỏa hoặc do thiên tai, hỏa hoạn dẫn
đến địa hình bị chia cắt mả khu vực cách ly tập trung, địa bàn bị phong tỏa hoặc
bị chia cắt có số lượng cử tri quá lớn hoặc có nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh cao
thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đó sau khi báo cáo và được sự đồng ý của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có thể quyết định thành lập bổ sung khu vực bỏ phiếu riêng tại
cơ sở cách ly tập trung, địa bàn bị phong tỏa, bị chia cắt.
4. Trường hợp khu vực bỏ phiếu có số lượng
cử tri giảm nhiều so với thời điểm lập danh sách cử tri đến mức ít hơn số lượng
cử tri tối thiểu để thành lập khu vực bỏ phiếu theo quy định thì căn cứ vào điều
kiện, tình hình thực tế của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định vẫn
tiếp tục duy trì khu vực bỏ phiếu đó để tiến hành việc bỏ phiếu bình thường (dự phòng trường
hợp cử tri đã đăng ký trong danh sách cử tri quay trở lại khu vực bỏ phiếu trước
ngày bầu cử) hoặc
quyết định giải thể khu vực bỏ phiếu và Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu đó để ghép
chung vào khu vực bỏ phiếu khác liền kề trong cùng đơn vị bầu cử, bảo đảm thuận
tiện cho cử tri và phù hợp với năng lực của tổ chức phụ trách bầu cử trên địa bàn. Quyết
định giải thể khu vực bỏ phiếu phải được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo kịp thời, rộng rãi đến cử tri về việc
thay đổi khu vực bỏ phiếu để cử tri biết và thực hiện việc bỏ phiếu theo quy định.
5. Trường hợp cần thiết để bảo đảm thực
hiện tốt công tác bầu cử, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tự mình hoặc theo đề nghị của
Ủy ban nhân dân cấp xã, quyết định điều chỉnh khu vực bỏ phiếu đã được Ủy ban
nhân dân cấp xã quyết định trên nguyên tắc tạo thuận lợi cho cử tri trong việc
tham gia bầu cử, bảo đảm công bằng, hợp lý, không làm thay đổi quyền bầu cử của
cử tri và tuân thủ quy định của Luật Bầu cử
và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Quyết định điều chỉnh khu vực bỏ phiếu của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã. Ủy ban nhân dân cấp
xã có trách nhiệm tổ chức công bố, niêm yết và thông báo rộng rãi đến cử tri việc
điều chỉnh khu vực bỏ phiếu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
6. Trên cơ sở các khu vực bỏ phiếu đã được
cơ quan có thẩm quyền xác định tại khoản 1 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp xã quyết
định thành lập Tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử tại khu vực bỏ phiếu theo quy định.
Điều 5. Ứng dụng công
nghệ thông tin, chuyển đổi số trong thực hiện các nghiệp vụ công tác tổ chức bầu
cử
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban bầu
cử cấp tỉnh trong phạm vi, nhiệm vụ của mình chỉ đạo tăng cường việc ứng dụng
công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong thực hiện các nghiệp vụ công tác bầu cử.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong nghiệp vụ công tác bầu cử
phải vừa bảo đảm phù hợp với điều kiện, đặc điểm của địa phương, năng lực thực
hiện của các thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử, vừa phải bảo đảm bảo
mật các thông tin, kết quả bầu cử theo quy định của Luật An toàn thông tin mạng, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và các quy định của
pháp luật về bầu cử.
2. Các nội dung nghiệp vụ công tác bầu cử
cần được tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số:
a) Công tác thông tin, tuyên truyền và vận
động bầu cử;
b) Cập nhật, báo cáo tình hình, tiến độ
bầu cử;
c) Việc lập, niêm yết danh sách cử tri,
in thẻ cử tri; cập nhật tiến độ cử tri tham gia bỏ phiếu;
d) Hỗ trợ việc tổ chức kiểm phiếu, tổng
hợp kết quả kiểm phiếu. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong
hỗ trợ việc tổ chức kiểm phiếu, tổng hợp kết quả kiểm phiếu phải bảo đảm chính
xác và bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật về bầu cử;
đ) Các nội dung khác trong nghiệp vụ
công tác bầu cử phù hợp với quy định của pháp luật về bầu cử.
3. Trước khi áp dụng các ứng dụng công
nghệ thông tin, chuyển đổi số trong nghiệp vụ công tác bầu cử, các địa phương
phải xây dựng kế hoạch, phương án cụ thể, phải tuyệt đối bảo đảm an ninh, an
toàn dữ liệu về bầu cử, thực hiện cơ chế vận hành thử nghiệm, kiểm tra hệ thống
công nghệ thông tin trước khi thực hiện.
Trường hợp áp dụng các ứng dụng công nghệ
thông tin, chuyển đổi số liên quan đến cách thức, trình tự bỏ phiếu trong ngày bầu
cử, cập nhật kết quả bầu cử, việc kiểm phiếu, tổng hợp kết quả kiểm phiếu thì Ủy
ban bầu cử cấp tỉnh báo cáo xin ý kiến của Hội đồng bầu cử quốc gia trước khi
thực hiện.
Điều 6. Nội quy phòng bỏ
phiếu, thể lệ bầu cử
1. Nội quy phòng bỏ phiếu thực hiện theo
quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 40/NQ-HĐBCQG ngày 29 tháng 9
năm 2025 của Hội đồng bầu cử quốc gia quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu phiếu
bầu cử, nội quy phòng bỏ phiếu và các loại mẫu văn bản sử dụng trong công tác bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2026 - 2031.
2. Thể lệ bầu cử
Để thuận tiện cho cử tri trong quá trình
bỏ phiếu, căn cứ quy định của pháp luật về bầu cử (bao gồm các nội dung hướng dẫn
về thể lệ bầu cử của Hội đồng bầu cử quốc gia tại kỳ bầu cử trước đây) và tình
hình cụ thể tại địa phương, Ủy ban bầu cử cấp tỉnh chủ động biên soạn thể lệ bầu
cử để gửi các Tổ bầu cử niêm yết tại phòng bỏ phiếu. Thể lệ bầu cử cần trình
bày ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ và được niêm yết ở khu vực thuận tiện
cho cử tri dễ tiếp cận. Thể lệ bầu cử có thể gồm một số nội dung cơ bản như
sau:
a) Nguyên tắc, trình tự bỏ phiếu:
- Việc bỏ phiếu bắt đầu từ 07 giờ sáng đến
07 giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho
bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước 05 giờ sáng hoặc kết thúc muộn
hơn nhưng không được quá 09 giờ tối cùng ngày;
- Khi bầu cử, cử tri phải xuất trình Thẻ
cử tri;
- Mỗi cử tri có quyền bỏ 01 phiếu bầu đại
biểu Quốc hội và bỏ 01 phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp
Hội đồng nhân dân mà mình được tham gia bầu cử;
- Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không
được nhờ người khác bầu cử thay. Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu
thì nhờ người khác viết phiếu hộ nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải
bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Người khuyết tật không thể tự mình bỏ phiếu
được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu;
- Cử tri không bầu cho ai trong phiếu bầu
thì gạch giữa cả dòng chữ họ và tên của người mà mình không bầu (gạch đè lên
dòng chữ họ và tên người ứng cử); không khoanh tròn; không được đánh dấu trên
phiếu bầu; không được viết thêm, ghi thêm tên người ngoài danh sách ứng cử vào
phiếu bầu; không để số người được bầu nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn
định cho đơn vị bầu cử hoặc gạch xóa hết tên những người ứng cử trong phiếu bầu;
- Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được
xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử. Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu
khác;
- Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có
trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào mặt trước, phía trên, góc trái của Thẻ cử
tri. Thẻ cử tri chỉ có giá trị cho
01 lần bỏ phiếu.
b) Phiếu bầu không hợp lệ:
- Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu
cử phát ra;
- Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
- Phiếu để số người được bầu nhiều hơn số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử;
- Phiếu gạch xóa hết tên những người ứng
cử;
- Phiếu ghi thêm tên người ngoài danh
sách ứng cử hoặc phiếu có ghi thêm nội dung khác.
Chương II
TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU CỬ Ở ĐỊA PHƯƠNG
Điều 7. Việc thành lập,
cơ cấu, thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức
phụ trách bầu cử ở địa phương
1. Việc thành lập, cơ cấu, thành phần,
nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa
phương (sau đây gọi là các tổ chức phụ trách bầu cử) thực hiện theo quy định tại
các điều 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27 và 28 của Luật Bầu cử.
2. Đối với đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ có một khu vực bỏ phiếu thì vẫn thành lập Ban
bầu cử và Tổ bầu cử riêng; thành viên Ban bầu cử có thể tham gia làm thành viên
Tổ bầu cử.
3. Tại đặc khu có dân số thường trú dưới
1.000 người mà không tổ chức cấp chính quyền địa phương thì Ủy ban nhân dân đặc
khu sau khi thống nhất với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp quyết định thành lập tại mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử để thực hiện
công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, số lượng
thành viên Tổ bầu cử, nhiệm vụ, quyền hạn và nguyên tắc hoạt động của Tổ bầu cử tại đặc khu quy
định tại khoản này thực hiện theo quy định của Luật
Bầu cử.
4. Cơ quan có thẩm quyền thành lập tổ chức
phụ trách bầu cử lựa chọn những người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, được
quần chúng tín nhiệm, hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm về công nghệ thông
tin, chuyển đổi số và kinh nghiệm thực hiện công tác bầu cử trước đó (nếu có)
tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử.
5. Trường hợp thành viên tổ chức phụ
trách bầu cử vì các lý do như chết, bị kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc vì lý do khác dẫn đến khuyết thành
viên tổ chức phụ trách bầu cử hoặc do trên địa bàn xảy ra dịch bệnh có nguy cơ
lây nhiễm cao, phải thực hiện việc cách ly tập trung, địa bàn phải phong tỏa
thì căn cứ tình hình cụ thể của mỗi địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
xã sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thay đổi, bổ sung thành viên
tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp mình trước ngày bầu cử vừa bảo đảm đủ số lượng
theo quy định của Luật Bầu cử, vừa đáp ứng
yêu cầu thực hiện tốt công tác bầu cử.
Đối với đặc khu có dân số thường trú dưới
1.000 người mà không tổ chức cấp chính quyền địa phương thì Ủy ban nhân dân đặc
khu sau khi thống nhất với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp quyết định thay đổi, bổ sung thành viên Tổ bầu cử trước ngày bầu cử.
Điều 8. Xây dựng quy chế
làm việc và phân công nhiệm vụ thành viên tổ chức phụ trách bầu cử
1. Để bảo đảm hiệu quả hoạt động, các tổ
chức phụ trách bầu cử cần xây dựng và ban hành quy chế làm việc. Tùy tính chất,
nhiệm vụ của từng tổ chức phụ trách bầu cử mà quy chế làm việc có nội dung phù
hợp, trong đó, cần thiết có các nội dung sau đây:
a) Nguyên tắc và hình thức làm việc của tổ chức phụ
trách bầu cử;
b) Chế độ, lề lối làm việc, quy trình xử
lý công việc của tổ chức phụ trách bầu cử;
c) Các cuộc họp của tổ chức phụ trách bầu
cử;
d) Phân công nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các thành viên tổ chức phụ trách bầu cử;
đ) Mối quan hệ công tác, chế độ thông
tin, báo cáo của tổ chức phụ trách bầu cử.
2. Chủ tịch Ủy ban bầu cử cấp tỉnh, cấp
xã, Trưởng ban Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Trưởng ban Ban bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã và Tổ trưởng Tổ bầu cử (sau đây gọi chung là người
đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử) chịu trách nhiệm phân công nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể của từng thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử cấp mình để triển khai
công việc ngay từ giai đoạn chuẩn bị, trong ngày bầu cử và sau ngày bầu cử cho
đến khi kết thúc cuộc bầu cử theo quy định tại Điều 28 của Luật
Bầu cử. Trong đó, phân công thư ký chịu trách nhiệm quản lý tài liệu, con dấu,
tổng hợp chung công tác bầu cử của tổ chức phụ trách bầu cử.
3. Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử
phân công bộ phận thường trực gồm người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử, thư ký và một số
Ủy viên để kịp thời chỉ đạo, theo dõi, nắm bắt tình hình bầu cử ở địa phương.
Quy chế làm việc của tổ chức phụ trách bầu cử phải xác định rõ trách nhiệm của
bộ phận thường trực.
Điều 9. Hoạt động của
các tổ chức phụ trách bầu cử và trách nhiệm của các thành viên tổ chức phụ
trách bầu cử
1. Hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu
cử
a) Căn cứ điều kiện cụ thể, cơ quan có
thẩm quyền thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử có quyền huy động, trưng tập
cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở cấp tỉnh,
cấp xã, ở thôn, tổ dân phố hoặc mời người có kinh nghiệm tham gia giúp việc, hỗ
trợ hoạt động cho các tổ chức phụ trách bầu cử theo đề nghị của người đứng đầu
tổ chức phụ trách bầu cử;
b) Các tổ chức phụ trách bầu cử tổ chức
quán triệt những nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức phụ trách bầu cử đã được quy định tại Luật Bầu cử; các thành viên của các tổ chức phụ
trách bầu cử phải được tập huấn đầy đủ các quy định pháp luật, kỹ năng, nghiệp
vụ thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, trong đó
đặc biệt chú trọng công tác tập huấn nghiệp vụ đối với các thành viên Tổ bầu cử.
Việc tập huấn có thể bằng hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc trực tiếp kết hợp
trực tuyến;
c) Các tổ chức phụ trách bầu cử thực hiện
các công việc theo quy định của Luật Bầu cử;
thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình chuẩn bị, triển khai,
thực hiện công tác bầu cử theo hướng dẫn, yêu cầu của tổ chức phụ trách bầu cử
cấp trên trực tiếp và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các quyết định có tính chất quan trọng của
các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương cần phải đưa ra tập thể thảo luận, thông
qua và được thể hiện dưới hình thức nghị quyết tương tự như đối với các cơ quan
hoạt động theo chế độ tập thể khác. Đối với các hoạt động mang tính chất chỉ đạo,
điều hành hoặc việc báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành công tác bầu cử với
cơ quan có thẩm quyền, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thực hiện công
tác bầu cử theo quy định của Luật Bầu cử
thì các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương có thể ban hành các loại văn bản
hành chính (chương trình, kế hoạch, báo cáo, công văn, thông báo và các hình thức
văn bản khác);
đ) Trong trường hợp tại địa bàn, khu vực
bỏ phiếu xảy ra các tình huống khẩn cấp về thiên tai, hỏa hoạn, bùng phát dịch bệnh
có nguy cơ lây nhiễm cao dẫn đến địa hình bị chia cắt, bị cách ly hoặc xuất hiện
tình hình an ninh, trật tự phức tạp thì các tổ chức phụ trách bầu cử thực hiện
theo quy định của Luật Bầu cử, hướng dẫn của Hội đồng bầu
cử quốc gia, của Thông tư này và của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Đối với các khu vực bỏ phiếu đã được
Hội đồng bầu cử quốc gia cho phép thực hiện bầu cử sớm, các tổ chức phụ trách bầu
cử ở địa phương tổ chức việc bầu cử sớm bảo đảm an toàn, đúng quy định và theo
hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia.
2. Trách nhiệm của thành viên tổ chức phụ
trách bầu cử
a) Người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu
cử phân công, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với
từng thành viên tổ chức phụ trách bầu cử và bộ phận giúp việc, hỗ trợ cho tổ chức
phụ trách bầu cử trong quá trình thực hiện công tác bầu cử;
b) Thành viên các tổ chức phụ trách bầu
cử có trách nhiệm tham gia đầy đủ việc tập huấn các quy định pháp luật, kỹ
năng, nghiệp vụ thực hiện công tác bầu cử; nắm vững và thực hiện đúng nhiệm vụ,
quyền hạn được phân công; công tâm, khách quan, trung thực trong quá trình thực
hiện các nhiệm vụ được giao;
c) Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ
được giao, các thành viên tổ chức phụ trách bầu cử phải trao đổi, hội ý công việc,
đánh giá rút kinh
nghiệm về những công việc đã thực hiện của mỗi thành viên; người đứng đầu tổ chức
phụ trách bầu cử chịu trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các thành viên thực
hiện những công việc còn tồn đọng và phân công các thành viên thực hiện các
công việc tiếp theo của tổ chức phụ trách bầu cử theo tiến độ thực hiện công
tác bầu cử;
d) Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được
giao, nhất là trong ngày bầu cử, các thành viên tổ chức phụ trách bầu cử phải
đeo phù hiệu của tổ chức phụ trách bầu cử cấp mình.
Chương III
LẬP,
NIÊM YẾT, RÀ SOÁT, CẬP NHẬT DANH SÁCH CỬ TRI VÀ PHÁT THẺ CỬ TRI
Điều 10. Lập, niêm yết
danh sách cử tri
1. Về thẩm quyền, nguyên tắc lập và niêm
yết danh sách cử tri thực hiện theo quy định tại các điều 29, 30,
31, 32, 33 và 34 của Luật Bầu cử.
2. Đối với đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng thì việc lập và niêm yết danh
sách cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân do Chỉ huy đơn vị quyết định. Chỉ huy
đơn vị sau khi lập danh sách cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân thì gửi đến Ủy
ban nhân dân cấp xã trên địa bàn đơn vị đóng quân để tổng hợp và phát Thẻ cử
tri tại đơn vị vũ trang nhân dân. Ủy ban nhân dân cấp xã phải thực hiện chế độ
bảo mật về số lượng, danh sách cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân theo quy định
của pháp luật và đề nghị của Chỉ huy đơn vị.
3. Trong trường hợp một đơn vị vũ trang
nhân dân đóng quân trên địa bàn 02 đơn vị hành chính cấp xã trở lên thì Chỉ huy
đơn vị đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đơn vị đóng quân chỉ định Ủy ban
nhân dân của một trong các đơn vị hành chính cấp xã chủ trì, phối hợp với Chỉ
huy đơn vị thực hiện việc lập danh sách cử tri, sau đó phát thẻ cử tri cho cử
tri tại đơn vị vũ trang nhân dân.
Trường hợp một đơn vị vũ trang nhân dân
đóng quân trên địa bàn 02 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên thì Chỉ huy đơn vị
đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt sở chỉ huy chỉ định Ủy ban nhân dân của
một trong các đơn vị hành chính cấp xã chủ trì, phối hợp với Chỉ huy đơn vị thực
hiện việc lập danh sách cử tri, sau đó phát thẻ cử tri cho cử tri tại đơn vị vũ
trang nhân dân.
4. Đối với trường hợp các bệnh viện, nhà
hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao
tuổi có từ 50 (năm mươi) cử tri trở lên; cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc, trại tạm giam (sau đây gọi là cơ quan, tổ chức, đơn vị) được
xác định là khu vực bỏ phiếu riêng thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cơ quan, tổ
chức, đơn vị đó đặt trụ sở chủ trì, phối hợp với Công an cấp xã và người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm lập và niêm yết danh sách cử tri.
5. Trường hợp công dân đã đăng ký thường
trú tại địa phương nhưng đi làm ăn, sinh sống tại địa phương khác hoặc ở nước
ngoài, nếu đã làm thủ tục thay đổi thông tin nơi cư trú hoặc khai báo tạm vắng ở
địa phương thì được coi là không thường trú tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp
xã tại nơi công dân đăng ký thường trú không ghi tên công dân đó vào danh sách
cử tri.
Trường hợp cử tri trở về nơi thường trú
trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước
thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ thì đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đăng
ký thường trú để đề nghị được bổ
sung tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã như đối với các cử tri khác đã đăng ký
bỏ phiếu ở nơi thường trú.
6. Trường hợp công dân có đăng ký thường
trú tại địa phương nhưng đã vắng mặt dài ngày ở nơi thường trú (sinh sống tại
nơi khác hoặc lao động, học tập ở nước ngoài) mà chưa làm thủ tục thay đổi
thông tin nơi cư trú, không khai báo tạm vắng với địa phương thì Ủy ban nhân
dân cấp xã vẫn ghi tên công dân đó vào danh sách cử tri để họ thực hiện quyền bầu
cử ở địa phương, trừ trường hợp cử tri hoặc người thân (bố, mẹ, con, anh chị em
ruột) của cử tri đó đã thông báo nguyện vọng của cử tri về việc không tham gia
bỏ phiếu ở nơi thường trú. Việc thông báo được thực hiện bằng văn bản hoặc điện
thoại đến trưởng thôn, tổ trưởng
tổ dân phố hoặc cán bộ phụ trách công tác lập danh sách cử tri của Ủy ban nhân
dân cấp xã. Ủy ban nhân dân cấp xã cần có biện pháp thông tin phù hợp để cử tri
biết về việc lập danh sách cử tri và thực hiện quyền bầu cử của mình.
7. Đối với trường hợp người bị mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác dẫn đến không nhận thức, làm chủ được hành vi,
nhưng chưa có điều kiện tổ chức khám và xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền,
chưa được Tòa án tuyên bố là người mất năng lực hành vi dân sự mà gia đình, người
giám hộ có cam kết và có xác nhận của chính quyền địa phương thì những người này
cũng bị coi là người mất năng lực hành vi dân sự và không được ghi tên vào danh
sách cử tri theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Bầu cử.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự vẫn được ghi tên vào danh sách cử tri để thực hiện quyền bầu cử theo
quy định của pháp luật.
8. Việc bảo đảm quyền bầu cử đối với người
di dân tự do được thực hiện như sau:
a) Trường hợp người di dân tự do là công
dân Việt Nam, thực tế sinh sống trên địa bàn nhưng chưa hoàn thành thủ tục đăng
ký thường trú, đăng ký tạm trú với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương
thì Ủy ban nhân dân cấp xã cần thông tin cho công dân biết về cách thức thực hiện
quyền bầu cử và việc lập danh sách cử tri để họ quyết định nơi mình đăng ký thực
hiện quyền bầu cử (có thể trở về nơi họ đang đăng ký thường trú hoặc tạm trú).
Trường hợp cử tri có nguyện vọng được thực hiện việc bầu cử tại địa phương nơi
họ đang thực tế sinh sống thì địa phương tạo điều kiện để ghi tên những cử tri này
vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu tương ứng nơi họ đang thực tế sinh sống
và thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
b) Trường hợp người di dân tự do thực tế
sinh sống trên địa bàn nhưng không có giấy tờ, tài liệu, căn cứ chứng minh về
quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch
Việt Nam thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.
9. Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp chặt
chẽ với Công an cấp xã trong việc lập, cập nhật, điều chỉnh, niêm yết danh sách
cử tri, in thẻ cử tri theo quy định của Luật Bầu
cử và Quyết định số 8202/QĐ-BCA-C06 ngày 07 tháng 10 năm 2025 của Bộ trưởng
Bộ Công an ban hành Hướng dẫn việc khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư và ứng dụng định danh quốc gia (VNeID) trong quá trình lập danh sách cử
tri, in thẻ cử tri phục vụ công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.
10. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã và
các tổ chức phụ trách bầu cử có biện pháp chỉ đạo, theo dõi, kịp thời nắm bắt
tình hình biến động của cử tri trong danh sách cử tri trên địa bàn và của địa phương để
có phương án chuẩn bị số lượng phù hợp các hòm phiếu phụ, Thẻ cử tri, phiếu bầu
dự phòng và các điều kiện bảo đảm cần thiết khác cho công tác tổ chức bỏ phiếu
trong ngày bầu cử; bổ sung các con dấu “Đã bỏ phiếu” kèm theo hòm phiếu phụ, bảo
đảm thuận tiện cho công tác bầu cử để các cử tri không thể đến được phòng bỏ
phiếu thực hiện quyền bầu cử.
Điều 11. Phát Thẻ cử
tri và rà soát, cập nhật danh sách cử tri
1. Trong khoảng thời gian từ trước 10 ngày đến trước 03
ngày của ngày bầu cử (từ ngày 05 đến ngày 12 tháng 3 năm 2026 đối với bầu
cử đúng Ngày bầu cử), Tổ bầu cử phải tiến hành phát Thẻ cử tri cho các cử tri ở
khu vực bỏ phiếu. Tổ bầu cử phối hợp chặt chẽ với Công an cấp xã, Trưởng thôn,
Tổ trưởng tổ dân phố thực hiện việc rà soát danh sách cử tri trong quá trình
phát Thẻ cử tri cho cử tri trên địa bàn, trong đó đặc biệt lưu ý các trường hợp
cử tri có yêu cầu đặc biệt (như cử tri là người khuyết tật, già yếu, đang ốm
đau, cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc
cử tri thuộc diện cách ly, khu vực phong tỏa để phòng, chống dịch bệnh, cử tri ở
khu vực bị chia cắt do thiên tai, hỏa hoạn, cử tri đang thực hiện nhiệm vụ ở
trên biển, hải đảo) để có phương án, kế hoạch cho các cử tri này thực hiện quyền
bầu cử.
2. Trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử tiến hành việc xác nhận lại
nguyện vọng của cử tri, nhất là cử tri là người tạm trú trên địa bàn về việc sẽ
bỏ phiếu bầu cử ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri hay bỏ phiếu ở nơi
khác. Trường hợp cử tri xác nhận sẽ bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh
sách cử tri thì Tổ bầu cử phát Thẻ cử tri để cử tri thực hiện quyền bầu cử.
Trường hợp cử tri đề nghị được bỏ phiếu ở
nơi khác thì Tổ bầu cử hướng dẫn cử tri thực hiện thủ tục về việc bỏ phiếu ở
nơi khác theo quy định tại Điều 34 của Luật Bầu cử. Những cử
tri đã đi bỏ phiếu ở nơi khác thì không được tính vào tổng số cử tri trong danh
sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi đã lập danh sách cử tri ban đầu.
3. Trường hợp đến thời điểm bắt đầu bỏ
phiếu mà Tổ bầu cử vẫn không thể liên hệ được với cử tri để phát Thẻ cử tri do
cử tri có tên trong danh sách không có mặt tại nơi đã đăng ký thường trú (hoặc
tạm trú) hoặc không thể liên lạc được bằng các phương tiện liên lạc khác thì Tổ
bầu cử thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét việc xóa tên người đó trong
danh sách cử tri.
4. Trường hợp đến ngày bầu cử mà Thẻ cử
tri bị rách, hỏng hoặc bị mất thì cử tri phải kịp thời báo cáo với Tổ bầu cử. Tổ
bầu cử phải thu hồi Thẻ cử tri bị rách, hỏng; đối với trường hợp cử tri bị mất
Thẻ cử tri thì Tổ bầu cử phải yêu cầu cử tri viết giấy xác nhận đã mất Thẻ cử
tri (kèm theo xuất trình căn cước công dân, hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân hợp
pháp khác) và đề nghị được cấp Thẻ cử tri mới.
Tổ bầu cử có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân
dân cấp xã để cấp lại Thẻ cử tri cho cử tri do Thẻ cử tri bị rách, hỏng hoặc bị
mất. Riêng đối với trường hợp cấp lại Thẻ cử tri do bị mất thì Tổ bầu cử ghi
chú tại danh sách cử tri
về việc cấp lại Thẻ cử tri do bị mất để theo dõi khi thực hiện bỏ phiếu trong
ngày bầu cử, tránh trường hợp người khác nhặt được Thẻ cử tri bị mất để thực hiện
việc bỏ phiếu làm ảnh hưởng đến kết quả bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu.
Điều 12. Điều chỉnh, bổ
sung danh sách cử tri trong một số trường hợp
1. Trường hợp có cử tri thuộc danh sách
cử tri trên địa bàn cấp xã bị áp
dụng biện pháp cách ly tại cơ sở cách ly tập trung hoặc cử tri đang ở khu vực địa
bàn bị phong tỏa, bị chia cắt (sau đây gọi là địa bàn bị cách ly) nằm ngoài địa
bàn cấp xã của mình thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập danh sách cử tri có
trách nhiệm nắm thông tin, chủ động lập danh sách cử tri ở địa bàn bị cách ly
và gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa bàn bị cách ly để bổ sung những
người này vào danh sách cử tri tham gia bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp đến ngày bầu cử mà những người này vẫn đang ở
địa bàn bị cách ly. Trường hợp cử tri bị
cách ly y tế thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã lập danh sách cử tri ban đầu có trách
nhiệm cập nhật vào danh sách cử tri cùng dòng với họ và tên của cử tri này nội
dung ghi chú “bỏ phiếu ở nơi khác do cách ly y tế”.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi địa bàn bị
cách ly phải kịp thời nắm
bắt thông tin về tình hình, số lượng cử tri đang ở các khu vực này để phối hợp
với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã lập danh sách cử tri đối với các cử tri đang ở
trên địa bàn bị cách ly của địa phương mình để tạo điều kiện thuận lợi cho các
cử tri này thực hiện quyền bầu cử theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp cử tri không thể tham gia
bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri, đã xin Giấy chứng nhận của
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình có tên trong danh sách cử tri để tham gia bỏ
phiếu ở nơi khác thì được bổ sung tên vào danh sách cử tri tại địa phương nơi cử
tri có thể tham gia bỏ phiếu để thực hiện quyền bầu cử theo quy định tại Điều 34 của Luật Bầu cử. Việc bổ sung tên vào danh sách cử tri trong
trường hợp này được tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu. Sau thời điểm bắt đầu bỏ
phiếu, Ủy ban nhân dân cấp xã không thực hiện việc bổ sung danh sách cử tri.
3. Đối với trường hợp cử tri đã được lập
danh sách cử tri tại nơi thường trú (hoặc nơi tạm trú), nhưng đã được cấp Giấy
chứng nhận để tham gia bỏ phiếu ở nơi khác, sau đó cử tri lại có nguyện vọng được
tham gia bỏ phiếu tại nơi thường trú (hoặc nơi tạm trú) thì việc lập, điều chỉnh,
bổ sung danh sách cử tri được thực hiện như sau:
a) Trường hợp cử tri đã xuất trình Giấy
chứng nhận đi bỏ phiếu ở nơi khác và đã được bổ sung tên vào danh sách cử tri ở
nơi khác, nhưng sau đó lại trở về địa phương nơi thường trú (hoặc nơi tạm trú)
và có nguyện vọng thực hiện quyền bầu cử tại nơi thường trú (hoặc nơi tạm trú)
thi cử tri phải thông báo và xin Giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
mình đã được ghi tên vào danh sách cử tri mới để đề nghị được cấp Giấy chứng nhận
đi bỏ phiếu ở nơi khác. Đồng thời, cử tri cần đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
mình thường trú (hoặc nơi tạm trú) để đề nghị được bổ sung vào danh sách cử tri
và nhận Thẻ cử tri để thực hiện quyền bầu cử theo quy định ở khu vực bỏ phiếu nơi
thường trú (hoặc nơi tạm trú);
b) Trường hợp cử tri chưa xuất trình Giấy
chứng nhận đi bỏ phiếu ở nơi khác và chưa được bổ sung tên vào danh sách cử tri
ở nơi khác, nếu sau đó cử tri này trở về địa phương nơi thường trú (hoặc nơi tạm
trú) và có nguyện vọng thực hiện quyền bầu cử tại đây thì đến Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi mình thường trú (hoặc nơi tạm trú) gửi lại Giấy chứng nhận đã được cấp
và đề nghị được bổ sung vào danh sách cử tri và nhận Thẻ cử tri để thực hiện
quyền bầu cử theo quy định ở khu vực bỏ phiếu nơi thường trú (hoặc nơi tạm trú).
4. Trường hợp cử tri đã được phát Thẻ cử
tri nhưng sau đó di chuyển đến địa bàn bị cách ly khác với địa bàn cấp xã mà
mình đã đăng ký danh sách cử tri mà không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã có tên
trong danh sách cử tri thì chậm nhất là 24 giờ trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu,
cử tri mang Thẻ cử tri đã được phát đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình có thể
tham gia bỏ phiếu để đề nghị được bổ sung vào danh sách cử tri và thực hiện quyền
bầu cử tại địa bàn mới. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận được đề nghị của cử tri
có trách nhiệm thu lại Thẻ cử tri mà cử tri đã được cấp trước đó, bổ sung danh
sách cử tri và cấp Thẻ cử tri mới để cử tri tham gia bỏ phiếu tại khu vực bỏ
phiếu phù hợp trên địa bàn, đồng thời thông báo ngay đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi đã phát Thẻ cử tri cũ để cập nhật vào danh sách cử tri thông tin về việc cử
tri bỏ phiếu ở nơi khác.
5. Trường hợp cử tri đã có tên trong
danh sách cử tri nhưng chưa nhận được Thẻ cử tri mà nay lại có nguyện vọng tham
gia bỏ phiếu tại địa bàn cấp xã khác nhưng do điều kiện phòng chống dịch bệnh
hoặc địa bàn bị phong tỏa,
bị chia cắt nên không thể quay về khu vực bỏ phiếu mà minh đã có tên trong danh
sách cử tri để xin cấp giấy chứng nhận để tham gia bỏ phiếu ở nơi khác thì có thể
đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình có nguyện vọng tham gia bỏ phiếu để đề nghị
được bổ sung vào danh sách cử tri và thực hiện quyển bầu cử trên địa bàn. Ủy
ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện thuận lợi để cử tri được bổ sung tên vào danh
sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu phù hợp trên địa bàn và thông báo ngay đến Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi cử tri đã có tên trong danh sách cử tri trước đó để cập
nhật vào danh sách cử tri thông tin về việc cử tri bỏ phiếu ở nơi khác.
6. Trường hợp công dân bị bắt tạm giam,
tạm giữ ở địa phương khác với nơi đã được ghi tên trong danh sách cử tri trong khoảng
thời gian 24 giờ trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu thì Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có trại tạm giam, tạm giữ không thực hiện việc bổ sung tên của công dân vào
danh sách cử tri.
Chương IV
CÁC
CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ TRƯỚC NGÀY BẦU CỬ CỦA TỔ BẦU CỬ
Điều 13. Bố trí địa điểm
bỏ phiếu
1. Tùy theo điều kiện cơ sở vật chất ở địa
phương như: nhà văn hóa, hội trường, trường học hoặc các địa điểm thuận lợi
khác và căn cứ mật độ phán bố dân cư ở khu vực bỏ phiếu, Tổ bầu cử lựa chọn địa
điểm bỏ phiếu (phòng bỏ phiếu) cho phù hợp, bảo đảm thuận tiện để cử tri đến bầu
cử. Địa điểm bỏ phiếu phải được trang trí trang nghiêm, tiết kiệm; bố trí lối
vào cho cử tri bỏ phiếu, khu vực bên trong phòng bỏ phiếu và lối ra cho cử tri
sau khi đã bỏ phiếu xong; địa điểm bỏ phiếu phải bảo đảm an ninh, trật tự.
2. Địa điểm bỏ phiếu gồm: cổng ra - vào,
khu vực bên ngoài phòng bỏ phiếu và khu vực
bên trong phòng bỏ phiếu. Việc bố trí, trang trí địa điểm bỏ phiếu thực hiện
theo quy định của cơ quan có thẩm quyền và hướng dẫn sau đây:
a) Cổng ra - vào và khu vực bên ngoài
phòng bỏ phiếu
- Tổ bầu cử sử dụng vật liệu sẵn có ở địa
phương để làm cổng ra - vào khu vực bỏ phiếu;
- Khu vực bên ngoài phòng bỏ phiếu là
nơi tiếp đón cử tri đến bỏ phiếu; nơi niêm yết danh sách cử tri, thể lệ bầu cử,
nội quy phòng bỏ phiếu; nơi tổ chức lễ khai mạc (nơi nào có hội trường rộng
thì có thể tổ chức lễ khai mạc ngay trong phòng bỏ phiếu). Tùy điều kiện cụ thể của
từng khu vực bỏ phiếu, Tổ bầu cử có thể niêm yết danh sách, tiểu sử những người
ứng cử; tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân tại
nơi dễ quan sát để cử tri tham khảo trước khi bỏ phiếu.
Khu vực bên ngoài phòng bỏ phiếu có thể
bố trí bàn, ghế để cử tri chờ
thực hiện việc bỏ phiếu.
(Cổng ra - vào và khu vực bên ngoài
phòng bỏ phiếu được trang trí theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư này).
b) Khu vực bên trong phòng bỏ phiếu
- Khu vực bên trong phòng bỏ phiếu phải
được bố trí trang trọng, đủ bàn, ghế, bút viết và những điều kiện cần thiết để
cử tri đến bỏ phiếu;
- Phòng bỏ phiếu phải có lối đi vào, lối
đi ra một chiều và theo trật tự nhất định, có thể tham khảo bố trí theo sơ đồ
sau: (1) Bắt đầu lối vào là bàn hướng dẫn, bàn để cử tri xuất trình Thẻ cử tri và
nhận phiếu bầu; (2) Vị trí bàn để cử tri viết phiếu bầu; (3) Nơi để hòm phiếu;
(4) Bàn đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào Thẻ cử tri để xác nhận cử tri đã bỏ phiếu;
(5) Lối ra cho cử tri sau khi đã thực hiện xong việc bỏ phiếu;
- Tại phòng bỏ phiếu, Tổ bầu cử niêm yết
danh sách, tiểu sử những người ứng cử; tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu Hội
đồng nhân dân tại nơi dễ quan sát để cử tri tham khảo trước khi viết phiếu bầu;
- Nơi cử tri viết phiếu bầu cần bố trí
các bàn có vách ngăn hoặc phòng kín để bảo đảm nguyên tắc cử tri “bỏ phiếu kín”
theo quy định của pháp luật về bầu cử.
(Khu vực bên trong phòng bỏ phiếu được
trang trí theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Thông tư này).
3. Tổ trưởng Tổ bầu cử phải phân công
thành viên Tổ bầu cử luân phiên trực bảo vệ địa điểm bỏ phiếu cả ngày và đêm
trước, trong ngày bầu cử và cho đến khi kết thúc việc bỏ phiếu; tổng hợp, lập
biên bản kiểm phiếu gửi đến Ban bầu cử tương ứng và Ủy ban nhân dân, Ban thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
Điều 14. Hòm phiếu
Việc chuẩn bị hòm phiếu, số lượng, kích
cỡ hòm phiếu tùy theo số lượng cử tri ở khu vực bầu cử, đặc điểm, điều kiện của
từng địa phương theo hướng dẫn của Ủy ban bầu cử cấp tỉnh. Hòm phiếu được đóng
mới hoặc sử dụng hòm phiếu bầu cử hiện có. Hòm phiếu phải bảo đảm chắc chắn,
trang trí sạch đẹp, phía mặt trước của hòm phiếu có dán hình Quốc huy, phía dưới
có dòng chữ “HÒM PHIẾU”. Ngoài hòm phiếu chính, Tổ bầu cử phải chuẩn bị các hòm
phiếu phụ (hòm phiếu lưu động) và băng niêm phong hòm phiếu.
Đối với những khu vực bỏ phiếu có tính
chất đặc thù riêng như tại các giàn khoan, công trình biển, các đơn vị, đội tàu
đang làm nhiệm vụ trên biển hoặc các đặc
thù khác, Ủy ban bầu cử cấp tỉnh chỉ đạo các cơ quan liên quan và Tổ bầu cử ở
các khu vực bỏ phiếu có tính chất đặc thù chuẩn bị đầy đủ các hòm phiếu phụ,
phiếu bầu cử để thực hiện tốt việc bỏ phiếu của cử tri.
Điều 15. Nhận tài liệu
liên quan đến công tác bầu cử của Tổ bầu cử
Tổ bầu cử phân công thành viên nhận các
loại tài liệu sau đây từ Ủy ban nhân dân cấp xã và Ban bầu cử:
1. Thẻ cử tri theo danh sách cử tri ở
khu vực bỏ phiếu và phát cho cử tri trước ngày bầu cử theo quy định của pháp luật về bầu cử.
2. Nhận đủ số lượng phiếu bầu theo danh
sách cử tri và số lượng phiếu bầu dự phòng. Khi nhận phiếu bầu phải có biên bản
bàn giao giữa người giao và người nhận về số lượng cụ thể của từng loại phiếu bầu.
Tổ bầu cử kiểm tra kỹ phiếu bầu, về số lượng đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử,
danh sách họ và tên những ứng cử viên đúng với khu vực bỏ phiếu của tổ mình và
phải quản lý chặt chẽ số lượng các loại phiếu bầu.
3. Con dấu của Tổ bầu cử và con dấu “Đã
bỏ phiếu”.
4. Các loại biên bản, biểu mẫu của Tổ bầu cử theo quy định.
5. Danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu.
6. Danh sách và tiểu sử tóm tắt của những
người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tại khu vực
bỏ phiếu.
7. Nội quy phòng bỏ phiếu, thể lệ bầu cử,
mẫu diễn văn khai mạc,
tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân.
8. Phù hiệu của các thành viên Tổ bầu cử.
9. Văn phòng phẩm (bút, giấy, kéo, thước
kẻ, keo dán, hộp mực con dấu,...).
10. Các tài liệu khác liên quan đến bầu
cử theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
Điều 16. Phân công nhiệm
vụ cho các thành viên Tổ bầu cử
Tổ trưởng Tổ bầu cử phân công nhiệm vụ cụ
thể cho từng thành viên Tổ bầu cử và bộ phận giúp việc, hỗ trợ cho Tổ bầu cử (nếu
có) thực hiện các công việc sau:
1. Tổ trưởng phụ trách chung, trực tiếp
chỉ đạo hoạt động trong phòng bỏ phiếu và việc bỏ phiếu, việc kiểm phiếu.
2. Thư ký chịu trách nhiệm quản lý tài
liệu, phiếu bầu, con dấu, soạn thảo biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử.
3. Phân công thành viên Tổ bầu cử và bộ
phận giúp việc, hỗ trợ cho Tổ bầu cử (nếu có) chịu trách nhiệm về trang trí
phòng bỏ phiếu, trực tiếp chỉ đạo hoạt động ngoài phòng bỏ phiếu và bảo đảm các
điều kiện vật chất - kỹ thuật cho ngày bầu cử của Tổ bầu cử.
4. Phân công thành viên Tổ bầu cử chịu
trách nhiệm kiểm tra Thẻ cử tri, đối chiếu danh sách cử tri, đánh dấu theo dõi
số cử tri đi bầu vào danh sách cử tri, phát phiếu bầu đã được đóng dấu của Tổ bầu
cử cho cử tri.
5. Phân công thành viên Tổ bầu cử chịu
trách nhiệm hướng dẫn cử tri thực hiện đúng nguyên tắc và trình tự, cách thức bỏ
phiếu và viết phiếu bầu.
6. Phân công thành viên Tổ bầu cử chịu
trách nhiệm trực tại bàn gần hòm phiếu, đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào mặt trước của
Thẻ cử tri khi cử tri đã bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu.
7. Phân công thành viên Tổ bầu cử hướng
dẫn cử tri ra, vào phòng bỏ phiếu, nhận phiếu, viết phiếu và bỏ phiếu.
8. Phân công thành viên Tổ bầu cử và bộ
phận giúp việc, hỗ trợ cho Tổ bầu cử (nếu có) phụ trách công tác bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa điểm bỏ phiếu.
9. Phân công thành viên Tổ bầu cử và bộ
phận giúp việc, hỗ trợ cho Tổ bầu cử (nếu có) đôn đốc, thông báo để các cử tri
đi bỏ phiếu.
10. Các công việc khác liên quan đến
công tác bầu cử.
Điều 17. Rà soát, kiểm
tra các công việc trước ngày bầu cử của Tổ bầu cử
Trước ngày bầu cử 10 ngày, Tổ bầu cử phải
thường xuyên thực hiện việc rà soát, kiểm tra lại toàn bộ các loại phương tiện
vật chất - kỹ thuật phục vụ bầu cử tại khu vực bỏ phiếu, bao gồm:
1. Phòng bỏ phiếu.
2. Danh sách chính thức những người ứng
cử đại biểu Quốc hội và người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp kèm
theo tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử.
3. Phiếu bầu cử bảo đảm đúng đơn vị bầu cử, khu
vực bỏ phiếu, đúng họ và tên nêu tại danh sách chính thức những người ứng cử đại
biểu Quốc hội và người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp của đơn vị bầu
cử, khu vực bỏ phiếu.
4. Các con dấu của Tổ bầu cử.
5. Hòm phiếu chính, các hòm phiếu phụ (nếu
có).
6. Các biên bản, biểu mẫu của Tổ bầu cử.
7. Thành phần dự lễ khai mạc, diễn văn
khai mạc và các văn phòng phẩm phục vụ việc bầu cử.
8. Rà soát danh sách cử tri của khu
vực bỏ phiếu, trong đó cần xác định rõ số cử tri là người khuyết tật, già yếu,
đang ốm đau không thể trực tiếp đi bỏ phiếu; người đang bị tạm giam, người đang
chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ
chức khu vực bỏ phiếu riêng; người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ; người đang
bị cách ly do dịch bệnh (nếu có); những khu vực bị chia cắt do thiên tai, hỏa
hoạn để có kế hoạch chuẩn bị phiếu bầu cử và mang hòm phiếu phụ đến cơ sở, địa điểm
nêu trên để cử tri thực hiện quyền bầu cử. Đồng thời, Tổ bầu cử phải có các biện
pháp thích hợp như niêm yết, phát thanh, thông báo hoặc gửi thông tin về danh
sách chính thức những người ứng cử để các cử tri có đủ thông tin lựa chọn người
xứng đáng làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
9. Các phương tiện vật chất - kỹ thuật
khác phục vụ cho ngày bầu cử của Tổ bầu cử.
Điều 18. Quản lý tài liệu,
phiếu bầu cử của Tổ bầu cử
Sau khi nhận được tải liệu, phiếu bầu cử
từ Ban bầu cử, Tổ trưởng Tổ bầu cử phải phân công cụ thể các thành viên quản lý
chặt chẽ tài liệu, phiếu bầu cử, đặc biệt là quản lý chặt chẽ phiếu bầu cử. Tổ
bầu cử phải lập sổ quản lý phiếu bầu cử, trong đó theo dõi số phiếu nhận, số
phiếu phát, số phiếu thu hồi, số phiếu niêm phong, bảo quản theo quy định. Trường
hợp phát hiện tài liệu, phiếu bầu cử bị mất thì Tổ bầu cử phải lập biên bản và
báo cáo ngay Ban bầu cử để có biện pháp xử lý kịp thời.
Điều 19. Thông tin thường
xuyên trước ngày bầu cử của Tổ bầu cử
1. Tổ bầu cử phối hợp vơi Ủy ban nhân
dân cấp xã có các hình thức thông tin,
tuyên truyền rộng rãi để cử tri nắm bắt được các quy định của pháp luật về bầu
cử; tạo điều kiện thuận lợi nhất và bảo đảm để tất cả cử tri đều thực hiện được
quyền bầu cử của mình.
2. Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu
cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri tại khu vực bỏ phiếu biết
về ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng các hình thức niêm yết,
phát thanh và các phương tiện thông tin đại chúng khác của địa phương.
Chương V
CÁC
CÔNG VIỆC TRONG NGÀY BẦU CỬ CỦA TỔ BẦU CỬ
Điều 20. Thời gian bỏ
phiếu và công việc chuẩn bị trước khi bỏ phiếu
1. Thời gian bỏ phiếu thực hiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 71 của Luật Bầu cử.
2. Trước khi tiến hành bỏ phiếu, Tổ bầu
cử phải thực hiện lễ khai mạc. Các thành viên Tổ bầu cử phải đến sớm trước giờ
khai mạc để kiểm tra công tác chuẩn bị, bảo đảm thời gian khai mạc đúng giờ quy
định.
3. Sau khi đã kiểm tra đầy đủ các điều
kiện cần thiết cho ngày bầu cử, Tổ bầu cử mở tổ chức lễ khai mạc và tiến hành việc
bỏ phiếu.
Điều 21. Tổ chức lễ
khai mạc bầu cử
1. Thành phần tham dự lễ khai mạc:
a) Các thành viên Tổ bầu cử, những người
có nhiệm vụ liên quan đến công tác bầu cử;
b) Đại diện cơ quan đảng, chính quyền địa
phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể ở địa phương;
c) Đại diện cử tri là người có công với
cách mạng, chức sắc tôn giáo (nếu có); cử tri là người cao tuổi, người có uy tín
trong đồng bào dân tộc thiểu số;
d) Cử tri đến dự lễ khai mạc;
đ) Phóng viên báo, đài (nếu có).
2. Trình tự tổ chức lễ khai mạc:
Lễ khai mạc phải được tổ chức trang trọng,
thời gian khoảng 15 đến 20 phút, do Tổ trưởng Tổ bầu cử chủ trì theo nội dung
và trình tự sau đây:
a) Chào cờ, tuyên bố lý do, giới thiệu đại
biểu;
b) Đọc diễn văn khai mạc;
c) Đọc thể lệ bầu cử; nội quy phòng bỏ
phiếu;
d) Kiểm tra hòm phiếu chính, hòm phiếu
phụ trước sự chứng kiến của cử tri; mời 02 cử tri không phải là những người ứng
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ứng cử tại khu vực bỏ
phiếu chứng kiến việc kiểm tra hòm phiếu, sau đó niêm phong hòm phiếu chính,
hòm phiếu phụ theo quy định.
3. Sau khi thực hiện thủ tục niêm phong
hòm phiếu, Tổ trưởng Tổ bầu cử tuyên bố cuộc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 bắt đầu.
4. Tổ bầu cử phải bố trí thành viên Tổ bầu
cử thường trực bên hòm phiếu làm nhiệm vụ hướng dẫn cử tri bỏ phiếu và bảo vệ hòm
phiếu.
Điều 22. Tiến hành bỏ
phiếu
1. Khi bắt đầu việc bỏ phiếu, Tổ bầu cử
mời những cử tri có tên trong danh sách cử tri là lãnh đạo cấp ủy đảng, chính
quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người có công với cách mạng, chức
sắc tôn giáo (nếu có) và cử tri là người cao tuổi nhất, người có uy tín trong đồng
bào dân tộc thiểu số (nếu có) có mặt tại thời điểm khai mạc bỏ phiếu trước.
2. Việc bỏ phiếu được tiến hành liên tục.
Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo, hướng dẫn cử tri thực hiện đúng các quy
định của pháp luật về bầu cử, thể lệ bầu cử, nội quy phòng bỏ phiếu; hướng dẫn cử
tri cách thức bỏ phiếu và gạch phiếu bầu; đôn đốc cử tri tích cực thực hiện quyền
và nghĩa vụ bầu cử của công dân.
3. Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không
được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3, 4 Điều 69 của Luật Bầu cử. Khi đến phòng bỏ phiếu, cử
tri xuất trình Thẻ cử tri để được nhận phiếu bầu.
4. Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai
được xem, kể cả các thành viên Tổ bầu cử. Nếu cử tri viết phiếu bầu bị nhầm hoặc
bị hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác. Cử tri không thể tự viết phiếu bầu
thì nhờ người khác viết phiếu hộ nhưng phải tự mình bỏ phiếu. Người viết phiếu
hộ phải đọc đầy đủ họ và tên những người ứng cử trên phiếu bầu để cử tri tự
mình quyết định. Người viết hộ phiếu bầu phải ghi trung thực ý muốn của cử tri
nhờ viết hộ và bảo đảm bí mật phiếu bầu. Khi viết hộ phiếu bầu xong phải giao lại
phiếu bầu cho cử tri để cử tri tự mình bỏ phiếu vào hòm phiếu. Người khuyết tật,
người già yếu hoặc các trường hợp khác mà không thể bỏ phiếu vào hòm phiếu được
thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
5. Trong khi tiến hành bỏ phiếu, nếu có
tình huống bất thường xảy ra làm gián đoạn cuộc bỏ phiếu thì Tổ trưởng Tổ bầu cử và
các thành viên Tổ bầu cử phải nhanh chóng hội ý để kịp thời xử lý. Trường hợp
vượt quá thẩm quyền hoặc không thể tự xử lý được thì phải tạm dừng cuộc bỏ phiếu,
Tổ bầu cử phải tiến hành niêm phong và quản lý chặt chẽ hòm phiếu, phiếu bầu và
các tài liệu liên quan khác, kịp thời báo cáo Ban bầu cử để có phương án giải
quyết, đồng thời phải có biện pháp cần
thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục tiến hành.
6. Tổ bầu cử phải đóng dấu “Đã bỏ phiếu”
vào mặt trước, phía trên, góc trái của Thẻ cử tri của cử tri đã bỏ phiếu bầu xong.
Điều 23. Một số điểm cần
lưu ý trong ngày bầu cử
1. Căn cứ vào quy mô, số lượng cử tri ở
từng khu vực bỏ phiếu và đặc điểm, tình hình ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp xã và
Tổ bầu cử xây dựng kế hoạch, lịch trình bỏ phiếu để chủ động điều tiết, phân
chia thời gian bỏ phiếu của cử tri ở từng thôn, tổ dân phố, cụm dân cư, nhóm hộ
gia đình,… và thông báo rộng rãi cho cử tri thuộc khu vực bỏ phiếu biết, bảo đảm
tại cùng một thời điểm trong ngày bầu cử không tập trung quá đông người ở phòng
bỏ phiếu.
2. Trong quá trình diễn ra cuộc bỏ phiếu,
các thành viên Tổ bầu cử phải ân cần, lịch sự, hướng dẫn tận tình, chu đáo cho
cử tri đến tham gia bỏ phiếu. Các thành viên Tổ bầu cử được phân công đảm nhiệm
từng công việc trong ngày bầu cử phải chủ động thực hiện nhiệm vụ được phân
công và hỗ trợ thành viên khác hoàn thành nhiệm vụ chung của Tổ bầu cử.
3. Thành viên Tổ bầu cử hướng dẫn cụ thể
cử tri cách thức bỏ phiếu. Nếu cử tri không tín nhiệm người ứng cử nào (không bầu
cho người có tên trong phiếu bầu cử) thì gạch ngang cả họ và tên người ứng cử
đó (gạch đè lên cà hàng chữ họ và tên người ứng cử); không được khoanh tròn;
không được đánh dấu trên phiếu
bầu; không được viết thêm, không được ghi thêm tên người ngoài danh sách ứng cử
vào phiếu bầu; không bầu (không để lại) quá số đại biểu được ấn định trong phiếu
bầu; không gạch tất cả người ứng cử trong phiếu bầu; không để nguyên phiếu bầu
(không gạch bất kỳ tên người ứng cử nào) đối với phiếu bầu có số dư người ứng cử.
4. Nếu cử tri yêu cầu đổi phiếu bầu khác
do viết hỏng, Tổ bầu cử phải thu hồi phiếu viết hỏng của cử tri, sau đó mới được
phát phiếu bầu khác.
5. Khi cử tri có Thẻ cử tri và Giấy
chứng nhận đi bỏ phiếu nơi khác do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc do Chỉ
huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp đề nghị, nếu tên của cử tri này chưa có trong
danh sách bổ sung của Ủy ban nhân dân cấp xã tại khu vực bỏ phiếu thì Tổ bầu cử
phải hướng dẫn người đó đến trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã để bổ sung vào danh
sách cử tri. Việc bổ sung danh sách cử tri phải đúng với địa điểm do Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc do Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp đề nghị
tại Giấy chứng nhận đi bỏ phiếu nơi khác.
Danh sách cử tri bổ sung phải xác định
rõ những người này được bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh. Sau khi có danh sách cử tri bổ sung do Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận, Tổ bầu cử mới được phát phiếu bầu cho những cử tri này; khi những cử tri này
đã bỏ phiếu xong thì Tổ bầu cử phải đóng dấu “Đã bỏ phiếu” lên mặt trước của Thẻ
cử tri và Giấy chứng nhận đi bỏ phiếu nơi khác. Tổ bầu cử phải ghi danh sách cử
tri bổ sung để theo dõi riêng và tổng hợp số liệu sau khi kết thúc việc bỏ phiếu.
6. Trường hợp phải sử dụng hòm phiếu phụ
thì Tổ trưởng Tổ bầu cử chịu trách nhiệm kiểm tra số lượng phiếu bầu khi phát ra
cho thành viên Tổ bầu cử để mang theo cùng với hòm phiếu phụ đến các cử tri là
người khuyết tật, ốm đau, già yếu; người đang bị tạm giam, người đang chấp hành
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm
giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực
bỏ phiếu riêng; người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ; người đang bị cách ly xã
hội do dịch bệnh (nếu có) tại cơ sở cách ly hoặc nơi ở, nơi lưu trú của cử tri
đang được cách ly; những khu vực bị chia cắt do thiên tai, hỏa hoạn, tại các
giàn khoan, công trình trên biển, các đơn vị, đội tàu đang làm nhiệm vụ trên biển,
hải đảo để thực hiện việc bỏ phiếu do không đến được phòng bỏ phiếu. Sau khi những
cử tri này bỏ phiếu xong, thành viên Tổ bầu cử phải mang ngay hòm phiếu phụ về
phòng bỏ phiếu.
7. Việc phát phiếu bầu cho cử tri và tổ
chức để cử tri bỏ phiếu đối với trường hợp cử tri đang bị cách ly xã hội do dịch
bệnh (nếu có) phải được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về bầu cử, đồng
thời, bảo đảm đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế
và quy định của cơ quan có thẩm quyền. Sau khi hoàn thành việc bỏ phiếu, các
thành viên Tổ bầu cử phải thực hiện việc khử khuẩn hòm phiếu phụ và mang ngay
hòm phiếu phụ về phòng bỏ phiếu theo quy định.
8. Trường hợp việc sử dụng hòm phiếu phụ
đối với các cử tri tại khu vực bị chia cắt do thiên tai, hỏa hoạn, tại các giàn
khoan, công trình trên biển, các đơn vị,
đội tàu đang làm nhiệm vụ trên biển, hải đảo, sau khi các cử tri bỏ phiếu xong
nhưng do các yếu tố khách quan như thiên tai, hỏa hoạn dẫn đến khu vực bị chia
cắt nên việc mang hòm
phiếu phụ đến phòng bỏ phiếu không thể hoàn thành được trong ngày bầu cử (hoặc
ngày bầu cử sớm đã được ấn định) thì các thành viên Tổ bầu cử phụ trách hòm phiếu
phụ được phép thực hiện việc kiểm phiếu tại khu vực bị chia cắt do thiên tai, hỏa hoạn, tại các giàn
khoan, công trình trên biển, các đơn vị, đội tàu đang làm nhiệm vụ trên biển, hải
đảo theo quy định
tại Điều 73 của Luật Bầu cử, hướng dẫn tại Thông tư này và
báo cáo kết quả kiểm phiếu bằng điện báo, điện thoại, các hình thức phù hợp
khác cho Tổ trưởng Tổ bầu cử. Các thành viên Tổ bầu cử phải chịu trách nhiệm về
tính chính xác của thông tin về kết quả kiểm phiếu; nộp hòm phiếu phụ, phiếu bầu
cử cùng kết quả kiểm phiếu bầu cử ở hòm phiếu phụ ngay sau khi về phòng bỏ phiếu.
9. Tổ bầu cử không được để những người
không có nhiệm vụ (trừ các cử tri) vào phòng bỏ phiếu. Không được mang vũ khí,
chất nổ, vật dễ cháy, tài liệu, băng rôn, khẩu hiệu có nội dung xấu, độc, tuyên
truyền quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương... vào khu vực bỏ phiếu, phòng
bỏ phiếu.
10. Cử tri có quyền quay phim, chụp hình
ở phía ngoài phòng bỏ phiếu trong quá trình mình tham gia thực hiện quyền bỏ
phiếu bầu cử, nhưng phải bảo đảm được thực hiện một cách có thiện chí, không được
làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Tổ bầu cử, không cản trở việc bỏ phiếu của
cử tri và không vi phạm nội quy phòng bỏ phiếu (chỉ được quay phim, chụp hình ở
trong phòng bỏ phiếu nếu được Tổ trưởng Tổ bầu cử đồng ý và phải bảo đảm bảo mật
thông tin bỏ phiếu của các cử tri khác trong suốt quá trình bỏ phiếu). Trường hợp
việc quay phim, chụp hình làm cản trở, ảnh hưởng đến cuộc bầu cử thì Tổ trưởng
Tổ bầu cử được quyền yêu cầu dừng việc quay phim, chụp hình tại khu vực bỏ phiếu
và phòng bỏ phiếu.
Điều 24. Kết thúc việc
bỏ phiếu và tổ chức kiểm phiếu
1. Sau khi đã hết giờ bỏ phiếu theo quy
định tại khoản 1 Điều 71 của Luật Bầu cử thì Tổ trưởng Tổ bầu
cử tuyên bố kết thúc việc bỏ phiếu. Sau khi kết thúc việc bỏ phiếu thì Tổ bầu cử
mới được mở hòm phiếu để kiểm phiếu.
2. Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại
phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bầu cử kết thúc, trừ trường hợp quy định tại khoản 8 Điều 23 của Thông tư này. Chỉ những thành viên Tổ bầu cử
mới được tiến hành việc kiểm phiếu bầu cử. Tổ bầu cử phải hoàn thành việc kiểm
phiếu trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi kết thúc việc bỏ phiếu tại khu
vực bỏ phiếu.
3. Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải
thống kê, niêm phong phiếu bầu chưa sử dụng và phiếu bầu do cử tri viết hỏng (nếu
có), lập biên bản thống kê việc sử dụng phiếu bầu cử theo biểu mẫu của Hội đồng
bầu cử quốc gia ban hành; toàn bộ phiếu bầu chưa sử dụng, phiếu bầu do cử tri
viết hỏng sau khi niêm phong được gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý.
4. Tổ trưởng Tổ bầu cử mở hòm phiếu
chính và hòm phiếu phụ (nếu có) để tiến hành việc kiểm phiếu. Trước khi mở hòm
phiếu, Tổ trưởng Tổ bầu cử mời 02 cử tri là người biết chữ, có uy tín trong
Nhân dân tại địa bàn và không phải là những người ứng cử đại biểu Quốc hội, người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tại khu vực bỏ phiếu đó chứng kiến việc
mở hòm phiếu.
5. Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức,
đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc
kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu; các phóng viên báo chí được chứng
kiến việc kiểm phiếu của Tổ bầu cử, nhưng phải đảm bảo khoảng cách an toàn để Tổ
bầu cử thực hiện nhiệm vụ kiểm phiếu.
6. Đăng ký tham gia chứng kiến việc kiểm
phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu quy định tại khoản 5 Điều này được thực
hiện như sau:
a) Người ứng cử xuất trình Thẻ Căn cước
hoặc giấy tờ tùy thân hợp pháp khác; đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử xuất trình văn bản phân công, chỉ định hoặc giấy giới thiệu của cơ
quan, tổ chức đơn vị và Thẻ Căn cước hoặc giấy tờ tùy thân hợp pháp khác; người
được ủy nhiệm xuất trình giấy ủy quyền và Thẻ Căn cước hoặc giấy tờ tùy thân hợp
pháp khác; phóng viên báo chí xuất trình thẻ nhà báo còn hiệu lực và văn bản
phân công hoặc giấy giới thiệu của cơ quan báo chí với Tổ trưởng Tổ bầu cử.
b) Trong quá trình chứng kiến việc kiểm
phiếu, nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì người ứng cử, đại
diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm
có quyền khiếu nại, tố cáo tại chỗ với Tổ bầu cử. Việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 75 của Luật Bầu cử.
c) Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp diễn ra thành công, tốt đẹp và đúng quy định của
pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của người ứng cử
và các cá nhân, tổ chức có liên quan, người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức,
đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có trách nhiệm liên hệ
trước với Tổ bầu cử về việc tham dự chứng kiến kiểm phiếu; quan sát quá trình Tổ
bầu cử thực hiện việc kiểm phiếu từ vị
trí đã được Tổ bầu cử bố trí; tuân thủ các quy định của pháp luật, nội quy
phòng bỏ phiếu và sự hướng dẫn của Tổ bầu cử; bảo đảm an toàn, trật tự, không làm ảnh hưởng đến hoạt động
bình thường của Tổ bầu cử; khiếu nại, tố cáo với Tổ bầu cử nếu phát hiện hành
vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình kiểm phiếu;
Phóng viên báo chí có trách nhiệm
tuân thủ các quy định của
pháp luật về báo chí, nội quy phòng
bỏ phiếu và sự hướng dẫn của Tổ bầu cử trong quá trình tác nghiệp; không làm ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của Tổ bầu cử; đưa tin, bài kịp thời, trung thực,
chính xác về quá trình kiểm phiếu bầu cử để góp phần vào công tác thông tin, tuyên truyền
về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Phóng viên báo chí nước ngoài có nhu cầu
tham dự, đưa tin về hoạt động trong ngày bầu cử tại Việt Nam thì thực hiện theo
quy định tại Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày
23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định về hoạt động thông tin, báo chí của
báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt
Nam.
Tổ bầu cử có trách nhiệm hướng dẫn, tạo điều
kiện thuận lợi để người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm, phóng viên báo chí tham gia chứng kiến
việc kiểm phiếu. Bố trí vị trí quan sát, chứng kiến thuận lợi nhưng không làm ảnh
hưởng đến hoạt động kiểm phiếu của Tổ bầu cử; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
việc kiểm phiếu (nếu
có) và ghi nội dung giải quyết vào biên bản. Trường hợp không giải quyết được
thì phải ghi rõ ý kiến của Tổ bầu cử vào biên bản giải quyết khiếu nại, tố cáo
và chuyển đến Ban bầu cử có liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo. Tổ trưởng
Tổ bầu cử có quyền yêu cầu người chứng kiến kiểm phiếu, phóng viên báo chí ra
khỏi khu vực kiểm phiếu nếu người chứng kiến kiểm phiếu, phóng viên báo chí có
hành vi vi phạm nội quy phòng bỏ phiếu, gây mất an toàn, trật tự, làm ảnh hưởng
đến hoạt động của Tổ bầu cử.
7. Quy trình tổ chức kiểm phiếu thực hiện
theo quy định tại các điều 25, 26, 27 và 28 của Thông tư này.
Tùy đặc thù của từng địa phương mà Ủy ban bầu cử cấp tỉnh có hướng dẫn quy
trình tổ chức kiểm phiếu cho phù hợp.
Trường hợp có sử dụng ứng dụng công nghệ
thông tin, chuyển đổi số trong thực hiện việc kiểm phiếu thì Tổ bầu cử thực hiện
quy trình kiểm phiếu theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền của địa phương về
ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong thực hiện việc kiểm phiếu.
Điều 25. Phân công nhiệm
vụ kiểm phiếu cho các thành viên Tổ bầu cử
1. Tổ trưởng Tổ bầu cử phân công các
thành viên Tổ bầu cử thành các nhóm để thực hiện việc kiểm phiếu. Đối với Tổ bầu
cử đủ số lượng thành viên để phân thành từ ba nhóm trở lên thì phân công thực
hiện như sau:
- Các nhóm kiểm phiếu bầu đại biểu Quốc
hội;
- Các nhóm kiểm phiếu bầu đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh;
- Các nhóm kiểm phiếu bầu đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã.
Để việc kiểm phiếu được chính xác, mỗi
nhóm nên bố trí 03 người, gồm: 01 người đọc kết quả phiếu bầu, 01 người ghi
(tích) vào danh sách kiểm phiếu và 01 người kiểm tra việc đọc và ghi.
Đối với Tổ bầu cử không đủ số lượng
thành viên để phân thành ba nhóm thì Tổ trưởng Tổ bầu cử phân công các nhóm kiểm
phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã cho
phù hợp.
2. Thư ký Tổ bầu cử tiến hành lập các
biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử.
Điều 26. Phân loại phiếu
bầu
1. Tổ bầu cử thực hiện việc phân loại
phiếu bầu theo màu phiếu bầu đại biểu Quốc hội, màu phiếu bầu đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, màu phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; kiểm kê (đếm)
tổng số phiếu trong hòm phiếu để xác định số phiếu thu vào và bản giao các loại
phiếu cho các nhóm đã được phân công của Tổ bầu cử để bắt đầu việc kiểm phiếu.
2. Tổ bầu cử tiến hành kiểm tra tổng số
phiếu thu vào so với tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu. Nếu tổng số phiếu thu
vào bằng hoặc ít hơn tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử mới được
tiến hành kiểm phiếu. Trường hợp tổng số phiếu thu vào nhiều hơn tổng số cử tri
đã tham gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải kiểm tra lại; nếu kiểm tra lại vẫn cho
kết quả tổng số phiếu thu vào nhiều hơn tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì
lập tức bỏ các phiếu bầu vào hòm phiếu, sau đó niêm phong hòm phiếu và báo cáo ngay để Ban bầu
cử giải quyết. Trường hợp vượt quá thẩm quyền giải quyết của Ban bầu cử thì Ban bầu cử phải kịp thời
báo cáo Ủy ban bầu cử
cùng cấp xem xét, quyết định.
3. Trước khi bắt đầu việc kiểm phiếu, Tổ
bầu cử thực hiện phân loại phiếu bầu thành hai loại sau đây:
a) Loại phiếu bầu hợp lệ;
b) Loại phiếu bầu không hợp lệ.
4. Sau khi phân loại xong phiếu bầu, Tổ
bầu cử phải ghi kết quả kiểm tra số phiếu bầu hợp lệ, số phiếu bầu không hợp lệ
vào biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử.
Điều 27. Xác định phiếu
bầu hợp lệ, phiếu bầu không hợp lệ, phiếu bầu hoặc không bầu cho người ứng cử
1. Phiếu bầu hợp lệ là phiếu phải đáp ứng
tất cả các yêu cầu sau đây:
a) Phiếu do Tổ bầu cử phát ra và có dấu của Tổ bầu cử;
b) Phiếu bầu đủ số lượng đại biểu hoặc bầu
ít hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử;
c) Phiếu không ghì thêm tên người ngoài
danh sách những người ứng cử hoặc phiếu không có ghi thêm nội dung khác.
2. Phiếu bầu không hợp lệ là những phiếu
bầu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật
Bầu cử.
3. Căn cứ khoản 2 Điều
74 của Luật Bầu cử, Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra để toàn Tổ bầu cử xem xét đối
với các phiếu bầu được xác định là phiếu bầu không hợp lệ trong các trường hợp
sau đây:
a) Phiếu có ghi thêm nội dung khác hoặc
bị đánh dấu trên phiếu bầu;
b) Phiếu mà việc gạch tên đè lên hàng chữ
họ và tên của người ứng cử quá mờ không thể nhận biết rõ ràng;
c) Phiếu bị hư, hỏng dẫn đến việc không
thể xác định chính xác việc bầu cho những người ứng cử có ghi tên trên phiếu bầu;
d) Các trường hợp khác do Tổ trưởng Tổ bầu
cử đề xuất.
4. Về việc xác định phiếu bầu hoặc không
bầu cho người ứng cử
a) Trường hợp phiếu bầu gạch chéo, gạch
xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang nhưng gạch hết tất cả hàng chữ họ và tên của người
ứng cử thì được tính là phiếu không bầu cho ứng cử viên đó;
b) Trường hợp cử tri không gạch cả hàng
chữ họ và tên (chỉ gạch họ hoặc gạch tên đệm hoặc tên) của người ứng cử hoặc chỉ
khoanh tròn, gạch dưới, gạch trên hàng chữ họ và tên của người ứng cử thì phiếu
đó vẫn được tính là phiếu bầu cho người
ứng cử đó;
c) Trường hợp trong phiếu bầu cử mà người
ứng cử vừa có tên khai sinh vừa có tên thường gọi hoặc có chức vị, pháp danh,
pháp hiệu theo tôn giáo, nếu cử tri chi gạch một dòng họ và tên khai sinh hoặc
họ và tên thường gọi (chỉ gạch 1 dòng họ và tên khai sinh hoặc chức vị, pháp
danh, pháp hiệu đối với chức sắc tôn giáo) thì phiếu đó được tính là phiếu
không bầu cho người ứng cử đó.
Điều 28. Kiểm đếm số
phiếu bầu cho từng người ứng cử
1. Việc kiểm phiếu bầu cho từng người ứng
cử chi thực hiện đối với những phiếu bầu hợp lệ. Các phiếu bầu hợp lệ được xếp
thành các loại, gồm: Loại phiếu bầu 01 đại biểu; loại phiếu bầu 02 đại biểu; loại
phiếu bầu 03 đại biểu,...
2. Tổ bầu cử kiểm phiếu theo từng loại
phiếu bầu quy định tại khoản 1 Điều này để làm căn cứ xác định số phiếu bầu cho
từng người ứng cử.
3. Cách ghi số phiếu cho từng người ứng
cử tham khảo theo cách vẽ lần lượt các hình vuông và một đường chéo, cứ 05 phiếu
tạo thành một hình vuông có một đường chéo.
Điều 29. Niêm phong và
quản lý phiếu bầu sau khi kiểm phiếu
1. Sau khi kiểm phiếu và lập biên bản kết
quả kiểm phiếu, Tổ bầu cử tiến hành niêm phong phiếu bầu theo từng loại phiếu bầu
đại biểu Quốc hội, phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp như sau:
a) Số phiếu bầu hợp lệ;
b) Số phiếu bầu không hợp lệ;
c) Số phiếu bầu không sử dụng đến, phiếu
viết hỏng của cử tri.
2. Toàn bộ số phiếu đã được niêm phong
quy định tại khoản 1 Điều này phải được Tổ bầu cử cho vào hòm phiếu và làm thủ
tục niêm phong hòm phiếu có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký Tổ bầu cử và bàn giao
cho Ủy ban nhân dân cấp xã để quản lý, lưu trữ theo quy định, việc bàn giao hòm
phiếu phải có biên bản giao nhận.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm
tiếp nhận, quản lý, lưu trữ các loại phiếu bầu, hòm phiếu của các Tổ bầu cử ở địa
phương mình. Trong thời gian quản lý hòm phiếu (bao gồm các loại phiếu bầu)
theo quy định pháp luật về lưu trữ (ít nhất là 05 năm) nếu không có ý kiến bằng
văn bản của cấp có thẩm quyền thì tuyệt đối không được mở và kiểm tra phiếu bầu
đã được niêm phong trong hòm phiếu.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thực hiện
việc số hóa hồ sơ, tài liệu bầu cử sau khi tiếp nhận để phục vụ công tác tra cứu,
khai thác, sử dụng về sau, bảo đảm nguyên tắc an toàn thông tin, bảo mật dữ liệu theo quy
định.
Điều 30. Về lập biên bản
kết quả kiểm phiếu của Tổ bầu cử
1. Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử của
Tổ bầu cử thực hiện theo các biểu mẫu kèm theo Nghị quyết số 40/NQ-HĐBCQG ngày 29 tháng 9 năm 2025 của Hội đồng
bầu cử quốc gia quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ
phiếu và các loại mẫu văn bản sử dụng trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.
2. Trừ trường hợp quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 31 của Thông tư này, việc tổng hợp kết quả
kiểm phiếu từ các khu vực bỏ phiếu (bao gồm cả các khu vực bỏ phiếu sớm) do các
Tổ bầu cử gửi đến để lập biên bản xác nhận kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử chỉ được Ban bầu
cử tiến hành sau ngày 15 tháng 3 năm 2026 và thực hiện theo quy định tại Điều 77 của Luật Bầu cử.
Điều 31. Việc tổ chức bầu
cử ở các khu vực bỏ phiếu sớm
1. Trường hợp phải tổ chức bỏ phiếu sớm
cho cử tri do đặc thù như thực hiện nhiệm vụ, công việc trên biển, hải đảo hoặc
do các đặc thù khác thì Ủy ban bầu cử cấp tỉnh có văn bản báo cáo xin ý kiến đồng
ý của Hội đồng bầu cử quốc gia.
2. Ngay sau khi Hội đồng bầu cử quốc gia
có văn bản đồng ý thực hiện việc bỏ phiếu sớm, đề nghị chính quyền địa phương
và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương có tổ chức bỏ phiếu sớm khẩn
trương ban hành kế hoạch, phương án tổ chức việc bỏ phiếu sớm và đẩy mạnh công
tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử. Các Tổ bầu cử phải thường xuyên thông
báo cho cử tri thuộc khu vực bỏ phiếu sớm biết về ngày bầu cử sớm đã được Hội đồng
bầu cử quốc gia xác định, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm
yết, phát thanh và trên các phương tiện thông tin đại chúng khác của địa phương.
Các tổ chức phụ trách bầu cử phải rà soát lại toàn bộ các công việc cần thực hiện
trước, trong và sau ngày bầu cử, bảo đảm thời gian hoàn thành đúng quy định của
pháp luật.
3. Thời gian bỏ phiếu, nguyên tắc, trình
tự bỏ phiếu đối với bầu cử sớm thực hiện theo quy định của Luật Bầu cử, hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc
gia và theo quy định của Thông tư này.
4. Việc kiểm phiếu và bảo quản hòm phiếu,
phiếu bầu tại khu vực bỏ phiếu sớm thực hiện như sau:
a) Trong ngày bầu cử, ngay sau khi cuộc
bầu cử kết thúc, Tổ bầu cử thực hiện việc kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm
phiếu, thực hiện niêm phong theo đúng quy định tại Mục 1 Chương
VIII của Luật Bầu cử, hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia và Thông tư
này;
b) Biên bản kiểm phiếu ở khu vực bỏ phiếu
sớm phải được Tổ bầu cử niêm phong, gửi đến các Ban bầu cử tương ứng và Ủy ban
nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã chậm nhất là
03 ngày sau ngày bầu cử sớm. Trường hợp đặc biệt do khoảng cách địa lý cách trở,
do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh mà Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu sớm không thể
gửi biên bản kết quả kiểm phiếu theo thời hạn nêu trên thì có thể gửi muộn hơn,
nhưng chậm nhất là ngày 18 tháng 3 năm 2026 phải gửi đến các Ban bầu cử tương ứng
và Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã để tổng
hợp kết quả chung của đơn vị bầu cử;
c) Sau khi kiểm phiếu và lập biên bản kết
quả kiểm phiếu, Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu sớm phải tiến hành niêm phong phiếu
bầu, cho vào hòm phiếu, làm thủ tục niêm phong hòm phiếu có chữ ký của Tổ trưởng,
Thư ký Tổ bầu cử và gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã để quản lý theo quy định tại
Điều 29 của Thông tư này;
d) Không làm lộ lọt kết quả kiểm phiếu ở
các khu vực bỏ phiếu sớm để tránh ảnh hưởng đến khu vực bỏ phiếu khác trong
cùng đơn vị bầu cử. Các Ban bầu cử và Ủy ban nhân dân, Ban thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã khi nhận được biên bản kết quả kiểm phiếu ở khu vực
bỏ phiếu sớm do Tổ bầu cử gửi đến có trách nhiệm bảo quản theo chế độ tài
liệu mật và chỉ được mở bì niêm phong biên bản kết quả kiểm phiếu sau khi kết
thúc cuộc bầu cử vào ngày 15 tháng 3 năm 2026, trừ trường hợp quy định tại điểm
đ khoản này;
đ) Trường hợp toàn bộ khu vực bỏ phiếu của
một đơn vị bầu cử đều được Hội đồng bầu cử quốc gia cho phép thực hiện bỏ phiếu
sớm và đã hoàn thành việc bỏ phiếu sớm thì Ban bầu cử mở bì niêm phong biên bản
kết quả kiểm phiếu và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử đó
theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Chương VI
TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
Điều 32. Các tình huống
có thể phát sinh trước, trong và sau ngày bầu cử
1. Trường hợp tại địa bàn có dịch bệnh
bùng phát, Ủy ban bầu cử cấp tỉnh báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét chỉ
đạo, hướng dẫn phương án tổ chức bầu cử đảm bảo phù hợp với các quy định của
pháp luật hiện hành, theo nguyên tắc địa phương chủ động xây dựng các phương án
tốt nhất để có kế hoạch đưa hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến cho những cử tri này
nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đồng thời, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh chỉ đạo các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo chỉ đạo, hướng dẫn của
cơ quan có thẩm quyền.
Trường hợp dịch bệnh bùng phát dẫn đến
không thể tổ chức được việc bỏ phiếu vào đúng ngày bầu cử hoặc đối với địa
phương do dịch bệnh phải áp dụng biện pháp cách ly xã hội hoặc phong tỏa thì Ủy
ban bầu cử cấp tỉnh chủ động đề xuất, kịp thời báo cáo rõ phương án (thời điểm,
cách thức thực hiện việc bỏ phiếu và những công việc khác cần thực hiện) trình
Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
2. Trường hợp tại địa bàn xảy ra các
tình huống khẩn cấp về thiên tai, hỏa hoạn làm địa hình bị chia cắt dẫn đến cử
tri không thể đi đến khu vực bỏ phiếu thì Ủy ban bầu cử các cấp chỉ đạo Tổ bầu
cử tìm phương án tốt nhất để có kế hoạch đưa hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến cho
những cử tri này nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
3. Trường hợp tình hình an ninh trật tự
phức tạp hoặc có nguy cơ cao xảy ra các vấn đề về an ninh trật tự, Ủy ban bầu cử
cấp tỉnh báo cáo ngay với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kịp thời có phương án đảm bảo
an toàn cho cuộc bầu cử.
4. Trong trường hợp các tình huống phát
sinh tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này đã được các cơ quan có thẩm quyền ở địa
phương giải quyết nhưng không thể xử lý được hoặc do vượt quá thẩm quyền hoặc xảy
ra sự cố, vấn đề đột xuất ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc bầu cử thì Ủy ban bầu cử
cấp tỉnh kịp thời báo cáo Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định phương án
tổ chức bầu cử tại các khu vực này.
Điều 33. Chế độ thông
tin, báo cáo về bầu cử
1. Căn cứ quy định của pháp luật, hướng
dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia và của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban bầu cử cấp tỉnh hướng dẫn, chỉ đạo việc thực hiện chế
độ thông tin, báo cáo của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương đến tổ chức
phụ trách bầu cử cấp trên trực tiếp và cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm trung thực,
khách quan, kịp thời.
2. Trong ngày bầu cử, thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo nhanh định kỳ các mốc thời gian sau (9 giờ sáng, 11 giờ 30
sáng, 03 giờ chiều, 07 giờ tối và 10 giờ tối), nội dung như sau:
a) Việc tổ chức khai mạc bầu cử (đối với báo cáo lần đầu
lúc 9 giờ sáng);
b) Diễn biến của cuộc bầu cử; tiến độ cử
tri tham gia bỏ phiếu;
c) Không khí ngày bầu cử, dư luận trong
Nhân dân về cuộc bầu cử và những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp;
d) Những thuận lợi, khó khăn về giao
thông, thông tin liên lạc, thời tiết ảnh hưởng đến việc bầu cử;
đ) Tình hình bầu cử ở những nơi được Hội
đồng bầu cử quốc gia đồng ý cho bầu cử sớm (báo cáo lần đầu lúc 9 giờ sáng);
e) Tình hình an ninh chính trị, trật tự,
an toàn, khu vực xảy ra dịch bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao, khu vực có thiên
tai, hỏa hoạn; tình hình ở các điểm nóng và việc xử lý (nếu có);
g) Các điều kiện vật chất - kỹ thuật phục
vụ cho ngày bầu cử;
h) Những tình huống phát sinh cần xin ý
kiến chỉ đạo giải quyết ngay trong quá trình tổ chức bầu cử (nếu có).
3. Việc báo cáo tình hình, kết quả sơ bộ
và kết quả chính thức cuộc bầu cử thực hiện theo quy định của Luật Bầu cử.
Điều 34. Trách nhiệm thực
hiện
1. Bộ Nội vụ là cơ quan thường trực,
tham mưu giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong phạm vi, quyền hạn được giao
và theo phân công của Hội đồng bầu cử quốc gia thực hiện việc hướng dẫn, tổ chức
triển khai và tập huấn nghiệp vụ
công tác tổ chức bầu cử.
2. Sở Nội vụ (đối với cấp tỉnh), Phòng Văn hóa -
Xã hội (đối với cấp xã) là cơ quan thường trực và phối hợp với Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tham mưu giúp việc cho Ủy ban bầu cử cấp tỉnh, Ủy ban
bầu cử cấp xã trong việc thực hiện công tác bầu cử ở địa phương.
3. Căn cứ quy định của Luật Bầu cử và quy định của Thông tư này, người
đứng đầu các tổ chức phụ trách bầu cử phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối
với từng thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử cấp mình.
4. Ủy ban nhân dân các cấp, các tổ chức
phụ trách bầu cử ở địa phương, Sở Nội vụ và Phòng Văn hóa - Xã hội cấp xã chịu
trách nhiệm thực hiện Thông tư này.
Điều 35. Hiệu lực thi
hành
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể
từ ngày ký.
2. Trong quá trình triển khai thực hiện Thông
tư này, nếu có vấn đề phát sinh hoặc khó khăn, vướng mắc trong nghiệp vụ công
tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031, đề nghị Ủy ban nhân dân, Ủy ban bầu cử cấp tỉnh kịp thời
phản ánh về Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia, Bộ Nội vụ để kịp thời xử lý./.
|
Nơi nhận:
-
Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Hội đồng bầu cử quốc gia;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ,
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia,
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố;
- Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố;
- Công báo, Cổng thông tin điện tử Chính phủ;
- Cục KTVB và QLXLVPHC, Bộ Tư pháp;
- BNV: Bộ trưởng; các Thứ
trưởng;
các đơn vị thuộc và trực thuộc; Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ;
- Lưu: VT, CQĐP
|
BỘ TRƯỞNG
Phạm
Thị Thanh Trà
|
MẪU
SỐ 01
(Ban hành kèm
theo Thông tư số 21/2025/TT-BNV ngày 12 tháng 10 năm 2025 của Bộ Nội vụ)
KHU VỰC BÊN NGOÀI PHÒNG BỎ PHIẾU

MẪU
SỐ 02
(Ban hành kèm
theo Thông tư số 21/2025/TT-BNV ngày 12 tháng 10 năm 2025 của Bộ Nội vụ)
KHU VỰC BÊN TRONG PHÒNG BỎ PHIẾU
