BỘ
TÀI CHÍNH
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
|
Số:
14-TC/NLTL
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 10 năm 1973
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ SỐ 139-CP VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VÙNG PHÂN LŨ
Nhằm chủ động đối phó với lũ lụt
lớn, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành chỉ thị số 139-CP ngày 14-8-1973 hướng dẫn
việc chuyển hướng mọi mặt về sản xuất và đời sống trong các vùng phân lũ, đồng
thời quy định một số vấn đề cụ thể giải quyết chính sách đối với vùng phân lũ.
Để thi hành chỉ thị trên đây, Bộ
Tài chính hướng dẫn về các trường hợp được ngân sách Nhà nước đầu tư vốn trợ
giúp cho vùng phân lũ và thể thức cấp phát thanh toán, quyết toán tiền vốn như
sau:
I. VỀ VIỆC BỐ
TRÍ LẠI TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ CHĂN NUÔI, BỐ TRÍ LẠI DÂN CƯ CHO PHÙ HỢP VỚI ĐỊA ĐIỂM
VÙNG PHÂN LŨ
1. Đầu tư xây dựng các cơ sở vật
chất, kỹ thuật như xây dựng mạng lưới tưới tiêu, xây dựng các đường trục, xây dựng
các cơ sở kinh tế quốc doanh, các công trình công cộng, v.v…
- Đối với công trình do trung
ương quản lý thì do ngân sách trung ương đài thọ. Các Bộ có liên quan sẽ lập dự
toán và bàn trực tiếp với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính để giải quyết.
- Đối với các công trình, xí
nghiệp, kho tàng của địa phương do ngân sách địa phương đài thọ, trường hợp
ngân sách địa phương không có khả năng trang trải hết nhu cầu thì ngân sách
trung ương trợ cấp.
- Đối với công trình của xã như
các đường nhánh về xã và hợp tác xã, công trình thủy lợi nhỏ, công trình phúc lợi
công cộng của xã: do ngân sách xã lo và huy động thêm lao động của nhân dân
đóng góp. Nếu thiếu ngân sách, địa phương trợ giúp một phần.
2. Đầu tư giúp đỡ hợp tác xã và
nhân dân thực hiện việc chuyển hướng về sản xuất và đời sống.
Nếu chuyển cơ sở sản xuất (chuồng
trại, kho tàng, cơ sở chế biến nông sản) và nhà ở của nhân dân theo đúng sự hướng
dẫn của ngành thủy lợi. Ủy ban nông nghiệp và của Ủy ban hành chính địa phương
thì được vận dụng chính sách giúp đỡ của Nhà nước đã quy định trong nghị quyết
số 28-CP ngày 16-2-1973 của Hội đồng Chính phủ và thông tư số 129-TTg ngày
19-5-1973 của Thủ tướng Chính phủ về công tác giải phóng lòng sông. Cụ thể là:
- Di chuyển cơ sở vật chất, kỹ
thuật của hợp tác xã thì căn cứ vào giá trị tài sản cố định còn lại của cơ sở
đó mà trợ giúp phần chi phí về hư hao vật liệu để xây dựng lại, nguồn vốn ngân
sách trung ương trợ giúp. Nếu hợp tác xã cần xây dựng mở rộng thêm mà còn thiếu
thì ngân sách Nhà nước sẽ cho vay.
- Di chuyển nhà ở: ngân sách
trung ương trợ giúp bình quân 416đ một hộ (400đ tiền mặt và 16đ để mua 40kg gạo/hộ,
theo giá cung cấp).
Mức trợ giúp đối với từng hợp
tác xã, từng đối tượng bao nhiêu sẽ do Ủy ban hành chính tỉnh, tùy theo mức độ
hư hao vật liệu và chi phí di chuyển, khả năng của từng hợp tác xã, từng đối tượng
trợ cấp quy định cho phù hợp phương châm chính sách trợ giúp là: phát huy tinh
thần tự lực cánh sinh, nhân dân tương trợ lẫn nhau, Nhà nước giúp đỡ một phần để
giảm bớt khó khăn cho hợp tác xã và nhân dân, tránh ỷ lại vào Nhà nước.
Nơi nào không cần thiết phải di
chuyển mà chỉ cần có biện pháp chống lũ lụt như tôn cao nền nhà, làm sàn gác, đắp
thổ mộ, làm chòi cao, chuẩn bị thuyền máng để cất giữ tài sản, trú ngụ và đi lại
khi phân lũ, thì nói chung là vận động hợp tác xã và nhân dân huy động vốn tự
có và vật tư, lao động của địa phương và tương trợ nhân dân để tự làm. Nhà nước
sẽ tùy theo khả năng cân đối vật tư mà bán cung cấp cho một số vật tư như than,
xi măng, vôi, gạch, nứa, lá mà hợp tác xã và nhân dân không tự túc được.
II. VỀ VIỆC
GIẢI QUYẾT CHÍNH SÁCH KHI CÓ PHÂN LŨ
Sau khi Nhà nước đã đầu tư giúp
đỡ hợp tác xã và nhân dân chuyển hướng sản xuất và đời sống rồi mà năm nào có
phân lũ xảy ra những thiệt hại về tài sản, hoa lợi và đời sống thì giải quyết
chính sách trợ giúp tài chính theo đúng như quy định ở điều 3 (Các mục a, b, c,
d, e, g) chỉ thị số 119-CP ngày 14-8-1973 của Hội đồng Chính phủ.
Riêng về việc thi hành chính
sách miễn giảm thuế nông nghiệp, thì giải quyết cụ thể như sau: khi chế độ sản
xuất nông nghiệp được chính thức quy định tại vùng phân lũ thì nghĩa vụ thu nộp
thuế vẫn áp dụng theo chế độ hiện hành, căn cứ vào sản lượng chịu thuế và thuế
suất đã ổn định. Nếu không có phân lũ, thuế sẽ tính và thu theo sản lượng và
thuế suất ổn định cho từng vụ một. Nếu có phân lũ mà vụ mùa có bị thiệt hại ở từng
hợp tác xã mà xét miễn giảm theo những nguyên tắc dưới đây:
- Nếu thu hoạch thực tế chỉ còn
dưới 50% sản lượng chịu thuế của vụ mùa, thì được miễn toàn bộ số thuế vụ mùa;
- Nơi nào nước rút nhanh mà cố gắng
cấy tái giá thì được miễn thuế;
- Sản xuất vụ đông mới hình
thành, thì tạm thời được miễn thuế.
III. THỂ THỨC
LẬP DỰ TOÁN, CẤP PHÁT THANH TOÁN QUYẾT TOÁN NHỮNG KHOẢN VỐN ĐƯỢC NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRỢ CẤP
A. LẬP VÀ XÉT DUYỆT DỰ TOÁN.
1. Phần đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật:
- Công trình nào trung ương quản
lý sẽ do các Bộ, Tổng cục lập dự toán. Công trình nào của địa phương sẽ do các
Sở, Ty có liên quan lập dự toán, trình Ủy ban hành chính xét duyệt và chi phí
do ngân sách địa phương đài thọ.
Ở trung ương cũng như ở địa
phương, các ngành căn cứ vào chỉ thị số 139-CP ngày 14-8-1973 của Hội đồng
Chính phủ và thông tư này của Bộ Tài chính để lập dự toán ngân sách 1974, kịp
thời gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính giải quyết.
2. Phần trợ giúp cho nhân dân và
hợp tác xã:
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
có trách nhiệm chỉ đạo giúp các Ủy ban hành chính huyện lập dự toán kinh phí về
giải quyết chính sách đối với vùng phân lũ, tạo điều kiện cho nhân dân chuyển
hướng về sản xuất và đời sống.
- Trợ giúp cho việc di chuyển cơ
sở vật chất và kỹ thuật của hợp tác xã và của xã (nếu có);
- Trợ giúp cho việc di chuyển
nhà ở của nhân dân.
Ủy ban hành chính, tỉnh, thành
phố xét duyệt dự toán và gửi về Bộ Tài chính xin ngân sách trung ương trợ cấp. Phần
trợ giúp cho ngân sách xã (nếu có) sẽ do ngân sách địa phương trợ cấp.
B. TỔ CHỨC VIỆC XÉT DUYỆT, CẤP
PHÁT, THANH TOÁN CÁC KHOẢN TRỢ CẤP CHO HỢP TÁC XÃ VÀ NHÂN DÂN.
Việc xét duyệt các khoản trợ cấp
theo tinh thần chỉ thị số 139-CP của Hội đồng Chính phủ và thông tư hướng dẫn
thi hành này của Bộ Tài chính phải được Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố chỉ đạo
chặt chẽ đúng chính sách, đúng đối tượng, tránh gây tâm lý ỷ lại vào Nhà nước
hay suy bì mất đoàn kết trong nhân dân. Vì vậy:
- Trước hết phải tổ chức tốt việc
phổ biến, truyền đạt tốt, đầy đủ nội dung chính sách để hợp tác xã và nhân dân
vùng phân lũ chấp hành nghiêm chỉnh việc chuyển hướng sản xuất và đời sống
trong vùng phân lũ.
- Đề cao tinh thần trách nhiệm của
các cơ quan Nhà nước ở tỉnh, huyện, xét duyệt và cấp phát thật công bằng, kịp
thời đến tận tay nhân dân, hợp tác xã hoặc xã được trợ giúp. Các Sở, Ty tài
chính phải hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể cho các Phòng tài chính huyện phối hợp với
các ngành có liên quan ở huyện giúp Ủy ban hành chính huyện chỉ đạo tốt việc di
chuyển cơ sở sản xuất và nhà ở, thẩm tra danh sách các đơn vị và cá nhân được
giải quyết chính sách về trợ giúp và tổ chức cấp phát chu đáo tại trụ sở Ủy ban
hành chính các xã.
C. QUYẾT TOÁN
Đối với những chi phí được ngân
sách trung ương trợ cấp, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố có trách nhiệm quyết
toán với Bộ Tài chính theo đúng chế độ quyết toán hiện hành. Nếu thừa phải nộp
trả lại ngân sách trung ương. Nếu thiếu, được xét cấp thêm.
Đối với những chi phí được ngân
sách tỉnh trở cấp sẽ quyết toán vào ngân sách tỉnh trong năm kế hoạch.
Các Sở, Ty tài chính có trách
nhiệm giúp Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố xét duyệt quyết toán của các Ủy
ban hành chính huyện và tổng hợp báo cáo quyết toán với Bộ Tài chính (về phần
ngân sách trung ương trợ cấp).
Thông tư này hướng dẫn thi hành
chỉ thị số 139-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 14-8-1973 về một số chính sách cụ
thể đối với vùng phân lũ. Trước mắt nhằm tạo điều kiện để các địa phương, các
ngành tập trung sức kiên quyết và khẩn trương hoàn thành tốt việc chuyển hướng
sản xuất và đời sống của nhân dân tại mỗi vùng phân lũ, cố gắng đảm bảo xong những
mặt công tác chính trước mùa lũ năm 1974.
Bộ Tài chính đề nghị các ngành ở
trung ương có liên quan và các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố chỉ đạo tốt việc
xây dựng dự toán chi phí năm 1974 để giúp cho các vùng phân lũ có kinh phí kịp
thời triển khai việc thi hành chỉ thị trên đây của Hội đồng Chính phủ ngay từ đầu
năm 1974. Đề nghị xin trợ cấp ngân sách trung ương của các tỉnh, thành phố phải
do đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố ký và phải cử cán bộ có
đủ thẩm quyền về Bộ Tài chính báo cáo trong tháng 12-1973 kèm theo những tài liệu
cần thiết.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Hoàng Văn Diệm
|