BỘ
TÀI CHÍNH-BỘ THUỶ LỢI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
44-TT/LB/TC/TL
|
Hà
Nội , ngày 16 tháng 9 năm 1987
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ THUỶ LỢI - BỘ TÀI CHÍNH SỐ 44-TT/LB/TC/TL NGÀY
16-9-1987 QUY ĐỊNH VIỆC CẤP PHÁT, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CÁC KHOẢN KINH PHÍ CHI ĐỘT
XUẤT CHO PHÒNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BÃO, LỤT
Để sử
dụng đúng mục đích và có hiệu quả khoản kinh phí phát sinh đột xuất trong việc
phòng chống và khắc phục hậu quả do bão lụt gây ra nhằm nhanh chóng ổn định đời
sống của nhân dân và hoạt động của các cơ quan, đơn vị trong vùng bị bão lụt
tàn phá, liên Bộ Tài chính - Thuỷ lợi quy định việc cấp phát, quản lý và sử dụng
khoản kinh phí này như sau:
I.
NGUYÊN TẮC CHUNG
. Phòng chóng lụt
bão và khắc phục hậu quả bão lụt là nhiệm vụ thường xuyên của mọi ngành, mọi cấp,
kể cả các địa phương không có đê. Hàng năm các cơ quan, đơn vị phải dành một phần
trong số kinh phí đã được cấp phát hoặc từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất,
từ vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản, từ quỹ thuỷ nông tỉnh, từ quỹ dự phòng
của các xí nghiệp thuỷ nông..., để chủ động chi cho việc phòng chống lụt bão và
khắc phục hậu quả khi có bão lụt xảy ra. Việc huy động vật tư và nhân lực để
phòng chống bão, ứng cứu đê điều cũng phải dựa vào lực lượng tại chỗ, sẵn có của
các cơ quan, đơn vị và nhân dân là chính. Trường hợp bão lụt xảy ra nghiêm trọng
mà yêu cầu kinh phí phòng chống và khắc phục hậu quả vượt quá khả năng của đơn
vị, ngân sách Nhà nước sẽ trợ giúp một phần để tạm thời ổn định đời sống của
nhân dân và hoạt động của cơ quan đơn vị.
2. Kinh phí chi đột xuất cho
phòng chống và khắc phục hậu quả bão lụt do ngân sách Nhà nước cấp phát phải sử
dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và các quy định trong thông tư này.
3. Các khoản tiền hay hiện vật ủng
hộ, viện trợ của các ngành, các địa phương, các tổ chức quốc tế, Chính phủ các
nước, đều phải được tập trung quản lý thống nhất qua hệ thống ngân sách Nhà nước.
II.
NỘI DUNG CHI CHO PHÒNG CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BÃO LỤT
1. Chi xử lý đột xuất
các sự cố về đê, kè, cống (sau đây gọi chung là đê) dùng cho việc đối phó với
lũ bão như mua bao tải, rọ thép, vật tư các loại... để chống tràn đê, hàn khẩu
đê vỡ, xử lý các hố sùi, sạt lở đê...
2. Chi trợ giúp đồng bào vùng có
phân lũ.
3. Chi cứu tế xã hội như trợ cấp
chôn cất người chết, cứu chữa người bị nạn, thuốc phòng dịch, vệ sinh môi trường...
ở những vùng bị bão lụt tàn phá nghiêm trọng.
4. Chi tu sửa tài sản cố định,
nhà cửa kho tàng, công trình và xử lý các tổn thất ở các đơn vị, cơ quan Nhà nước.
III.
CẤP PHÁT VÀ QUẢN LÝ KINH PHÍ
1. Nguồn kinh phí:
a) Ngân sách Nhà nước (Trung
ương và địa phương) cấp phát để chi cho các trường hợp:
- Xử lý các sự cố đê điều.
- Trợ giúp đồng bào trong vùng
có phân lũ theo Chỉ thị số 139-CT ngày 14-8-1973 của Hội đồng Chính phủ.
- Cứu tế xã hội ở vùng bão lụt
tàn phá nghiêm trọng.
- Khắc phục hậu quả bão, lụt ở các
đơn vị hành chính sự nghiệp chưa hạch toán kinh tế.
- Khắc phục hậu quả bão lụt ở
các công trình thuỷ nông khi đã sử dụng hết quỹ dự phòng ở các xí nghiệp thuỷ
nông và quỹ thuỷ nông tỉnh mà chưa đủ.
Việc phân biệt nguồn kinh phí giữa
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương căn cứ theo chế độ phân cấp quản
lý ngân sách hiện hành.
Cơ quan tài chính các cấp cần
dành một tỷ lệ ngân sách thích đáng để dự phòng chi cho việc phòng chống lụt
bão. Trường hợp thiên tai xảy ra nghiêm trọng mà quỹ dự phòng ở các địa phương
không đủ chi, thì ngân sách Trung ương sẽ xem xét và hỗ trợ thêm.
b) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
chi để khắc phục hậu quả đối với các công trình xây dựng cơ bản chưa bàn giao.
c) Quỹ dự phòng của các xí nghiệp
thuỷ nông và quỹ thuỷ nông tỉnh để khắc phục hậu quả bão lụt ở các công trình
thuỷ nông.
đ) Kinh phí khắc phục và xử lý hậu
quả bão lụt ở các đơn vị hạch toán kinh tế (theo quy định tại công văn số
217-TC/CNKT ngày 10-12-1968 của Bộ Tài chính).
2. Căn cứ để cấp phát:
a) Xử lý sự cố đê điều:
Khi có sự cố vỡ đê hoặc đe doạ vỡ
đê, ngoài việc huy động vật tư dự trữ hộ đê phòng lụt quy định trong thông tư
liên Bộ Tài chính - Thuỷ lợi số 13- TT/LB ngày 18-5-1973, Ban chỉ huy chống lụt
chống bão tỉnh, thành phố có thể huy động vật tư, nhân lực, phương tiện của các
cơ quan Nhà nước, của nhân dân để ứng cứu kịp thời (trường hợp khẩn cấp Ban chỉ
huy chống lụt chống bão huyện có thể ra lệnh huy động, nhưng sau đó phải được
Ban chỉ huy chống lụt chống bão tỉnh, thành phố chấp thuận).
Sau đó phải lập các chứng từ cần
thiết để làm cơ sở xin ngân sách Nhà nước cấp phát để thanh toán. Các chứng từ
làm cơ sở cấp phát gồm:
- Lệnh huy động.
- Biên bản mô tả sự cố đê do đội
quản lý đê lập có đại diện của Ban chỉ huy chống lụt chống bão từ cấp huyện trở
lên và ý kiến xác nhận của Ban chỉ huy chống lụt chống bão tỉnh, kèm theo biên
bản có bản vẽ sơ bộ minh hoạ sự cố đê, ước tính khối lượng phải xử lý.
- Phiếu xác nhận số lao động, vật
tư đã huy động và đã sử dụng do đội quản lý đê lập có chữ ký của Ban chỉ huy chống
lụt chống bão từ cấp huyện trở lên. Kèm theo phiếu xác nhận có phiếu xuất kho
(nếu là vật tư huy động của cơ quan Nhà nước) hoặc xác nhận của Uỷ ban Nhân dân
xã (nếu là vật tư huy động của nhân dân).
- Biên bản nghiệm thu khối lượng
xử lý do đội quản lý đê lập có xác nhận của Sở Thuỷ lợi.
- Tờ trình xin kinh phí của Sở
Thuỷ lợi và ý kiến của Uỷ ban Nhân dân tỉnh.
b) Chi trợ giúp đồng bào vùng
phân lũ khi xảy ra lũ lớn có phân lũ, việc trợ giúp đồng bào vùng phân lũ được
thực hiện theo quy định tại Chỉ thị số 139-CP ngày 14-8-1973 của Hội đồng Chính
phủ và Thông tư số 14-TC/NLTL ngày 8-10-1973 của Bộ Tài chính. Riêng về mức trợ
giúp cho hộ nhân dân, cơ sở tập thể, tuỳ theo mức độ thiệt hại do phân lũ gây
ra Nhà nước sẽ có chủ trương cụ thể.
c) Chi về cứu tế xã hội:
Tuỳ theo tình hình cụ thể về mức
độ thiệt hại và khả năng ngân sách địa phương (huyện, tỉnh), chính quyền địa
phương có quy định mức trợ cấp cho phù hợp. Căn cứ để cấp phát là:
- Báo cáo thiệt hại của Uỷ ban
Nhân dân xã, huyện, tỉnh.
- Quyết định của Uỷ ban Nhân dân
huyện, tỉnh về mức trợ giúp.
d) Chi sửa chữa tài sản cố định,
nhà cửa, công trình và xử lý các tổn thất do bão lụt gây ra gồm:
- Biên bản của Hội đồng đánh giá
thiệt hại được lập ngay sau khi bão lụt gây tổn thất gồm có các thành phần:
Đại diện của Ban chỉ huy chống lụt
chống bão từ cấp huyện trở lên,
Đại diện của cơ quan tài chính từ
cấp huyện trở lên,
Đại diện của công an từ cấp huyện
trở lên,
Đại diện của cơ quan, xí nghiệp.
Biên bản phải đánh giá đúng số
thiệt hại về hiện vật và giá trị, phân tích rõ phần thiệt hại do nguyên nhân
khách quan, phần do khuyết điểm chủ quan của đơn vị.
- Phương án và dự toán khắc phục
tạm thời được cơ quan chủ quản xét duyệt.
- Văn bản của cơ quan chủ quản gửi
cơ quan tài chính đồng cấp đề nghị giải quyết kinh phí hoặc phương án xử lý tổn
thất.
3. Cấp phát và quyết toán:
a) Những đơn vị nói ở tiết a, điểm
1, mục III trên đây nếu bị bão lụt làm thiệt hại nghiêm trọng phải tu sửa lại mới
tạm thời ổn định được hoạt động và đời sống, sau khi đã sử dụng hết các nguồn
như đã nêu ở mục I (sử dụng loại vốn tự có nào được quyết toán giảm loại vốn đó
ngay trong niên độ kế toán) mà khả năng đơn vị không thể tự sắp xếp kinh phí được
và có đủ các căn cứ nói ở điểm 2, mục III trên đây, Ngân sách Nhà nước sẽ xét cấp
phát qua cơ quan chủ quản. Riêng kinh phí xử lý sự cố đê điều, sau khi có
phương án khắc phục được Bộ Thuỷ lợi duyệt, nếu cần kinh phí để mua vật tư, bảo
đảm điều kiện làm việc cho người lao động... có thể đề nghị ngân sách Nhà nước ứng
trước một phần kinh phí.
b) Các đơn vị nhận kinh phí và vật
tư phải mở sổ sách để theo dõi số kinh phí, vật tư được cấp và việc sử dụng
theo từng mục đích, khi công việc hoàn thành phải căn cứ vào chứng từ sổ sách kế
toán lập lại các quyết toán với cơ quan chủ quản cấp trên theo quy định sau
đây:
- Đơn vị được cấp vốn, vật tư
quyết toán với cơ quan chủ quản, cơ quan chủ quản xét duyệt có sự nhất trí của
Ban chỉ huy chống lụt chống bão cùng cấp và quyết toán với cơ quan tài chính đồng
cấp.
- Đối với các đơn vị thuộc trung
ương quản lý và khoản kinh phí đột xuất xử lý sự cố đê điều (thuộc tuyến đê
trung ương quản lý) khi các đơn vị quyết toán với Bộ chủ quản phải có ý kiến
xác nhận của Sở Tài chính.
c) Cơ quan chủ quản có trách nhiệm
quản lý chặt chẽ việc chi tiêu các khoản kinh phí được cấp ở từng đơn vị, bảo đảm
việc sử dụng các khoản kinh phí đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng chính sách
chế độ, tiết kiệm, có hiệu quả, kịp thời phát hiện và có biện pháp xử lý những
trường hợp vi phạm. Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm quyết toán với ngân sách
Nhà nước về toàn bộ số kinh phí được cấp thuộc phạm vi quản lý của mình.
d) Hàng năm, trên cơ sở quyết
toán khoản vốn và vật tư khắc phục hậu quả lụt bão, Ban chỉ huy chống lụt chống
bão và cơ quan Tài chính phải thống nhất lập một báo cáo, nhận xét đánh giá về
tình hình quản lý cấp phát, sử dụng vốn và vật tư khắc phục hậu quả chống lụt
bão trong năm trình Uỷ ban Nhân dân cùng cấp đồng thời trình Ban chỉ huy chống
lụt chống bão và cơ quan Tài chính cấp trên.
IV.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Thông tư này thi
hành từ ngày ký và chỉ áp dụng đối với những khoản chi phát sinh đột xuất cho
phòng chống và khắc phục hậu quả bão lụt.
Các cơ quan, đơn vị không được
dùng khoản kinh phí này để bổ sung kinh phí chi thường xuyên hoặc để chi cho
các nhu cầu khác. Đơn vị, cá nhân nào sử dụng khoản kinh phí này sai mục đích
phải bồi hoàn và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Các quy định của các Bộ, các
ngành về cấp phát, quản lý và sử dụng các khoản kinh phí chi đột xuất cho phòng
chống và khắc phục hậu quả bão lụt trái với quy định trong Thông tư này đều
không có hiệu lực thi hành. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, các Bộ,
các ngành, các địa phương phản ánh kịp thời cho liên Bộ Tài chính - Thuỷ lợi để
nghiên cứu giải quyết.
Hồ
Tế
(Đã
ký)
|
Trần
Nhơn
(Đã
ký)
|