BỘ
TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
247/TB-BTP
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 01 năm 2010
|
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA LÃNH ĐẠO BỘ TƯ PHÁP TẠI HỘI NGHỊ TRIỂN KHAI
CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2010
Trong các ngày 11, 12 tháng 01
năm 2010 (tại Hà Nội) và 15, 16 tháng 01 năm 2010 (tại TP. Hồ Chí Minh), Hội
nghị triển khai công tác tư pháp năm 2010 đã được tiến hành dưới sự chủ trì của
các đồng chí Lãnh đạo Bộ. Tham dự Hội nghị có các đồng chí lãnh đạo các đơn vị
thuộc Bộ; Giám đốc, Chánh Văn phòng các Sở Tư pháp; Cục trưởng, Chánh Văn phòng
Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đại diện lãnh
đạo Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng và Thi hành án các Quân khu; đại diện lãnh đạo
các tổ chức pháp chế Bộ, ngành; đại diện các đơn vị và cá nhân được tặng huân
chương, cờ thi đua. Đặc biệt, Hội nghị rất vinh dự được đón đồng chí Trương
Vĩnh Trọng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính
phủ đến dự và có bài phát biểu rất quan trọng.
Sau khi nghe Báo cáo tổng kết
công tác tư pháp năm 2009, phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, dự thảo Chương
trình công tác năm 2010 của ngành Tư pháp; phát biểu chỉ đạo của Phó Thủ tướng
Chính phủ Trương Vĩnh Trọng; Báo cáo tổng kết công tác thi đua năm 2009, phát động
phong trào thi đua năm 2010; các báo cáo chuyên đề về triển khai nhiệm vụ theo
dõi chung về thi hành pháp luật, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, công
tác thống kê trong Ngành và ý kiến phát biểu của các đại biểu tham dự Hội nghị,
Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã kết luận như sau:
I. VỀ CÔNG
TÁC TỔ CHỨC HỘI NGHỊ
Hội nghị triển khai công tác tư
pháp năm 2010 được tổ chức thành công theo đúng sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ: thực chất, hiệu quả, tiết kiệm. Trên tinh thần đổi mới toàn diện, công tác
chuẩn bị Hội nghị được chủ động triển khai, nội dung Hội nghị sát với yêu cầu
thực tiễn công tác của Ngành, thành phần tham dự cơ bản phù hợp với nội dung,
văn kiện Hội nghị có chất lượng, cách thức điều hành Hội nghị dân chủ, cởi mở.
Hội nghị đã tập trung được trí tuệ tập thể để đánh giá đúng kết quả công tác
năm qua; nhận rõ các hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, phân tích sâu nguyên nhân,
nhất là các nguyên nhân chủ quan; xác định cơ bản chính xác phương hướng, nhiệm
vụ trọng tâm năm 2010, đồng thời tìm ra các giải pháp thực hiện, nhất là các giải
pháp mang tính đột phá, để tạo ra những chuyển biến mạnh trong năm 2010, tạo đà
cho những năm tiếp theo.
II. VỀ KẾT QUẢ
CÔNG TÁC NĂM 2009
1. Những kết quả tích cực:
Năm qua, trong khó khăn chung của
cả nước, công tác tư pháp được toàn Ngành triển khai đồng bộ, rộng khắp, có trọng
tâm, trọng điểm, bám sát 5 ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị
triển khai công tác năm 2009; 7 nhóm nhiệm vụ lớn trong Chương trình công tác
trọng tâm của Ngành; nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều
lĩnh vực hoạt động đã có chuyển biến tích cực, sát với yêu cầu thực tiễn, đạt kết
quả cao hơn so với những năm trước, nổi bật như sau:
1.1. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về
xây dựng và thi hành pháp luật được chú trọng triển khai theo đúng quy định của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới và tiếp tục thu được kết quả đáng
khích lệ.
Thực hiện nghiêm ý kiến chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác năm 2010,
công tác văn bản QPPL của Ngành tiếp tục hướng mạnh vào việc tham mưu cho Chính
phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xây dựng hệ thống pháp luật đồng
bộ, đơn giản hơn, chú trọng giảm thiểu sự chồng chéo, thủ tục hành chính rườm
rà, góp phần chống suy giảm kinh tế. Bộ đã được Thủ tướng Chính phủ biểu dương
về thành tích xây dựng văn bản hướng dẫn luật, pháp lệnh. Công tác văn bản của
nhiều cơ quan Tư pháp địa phương và Tổ chức pháp chế Bộ, ngành dần đi vào nề nếp,
rõ nét hơn, đã gắn với việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của địa
phương mình và ngày càng khẳng định được vai trò “Người gác cổng” về thể chế
cho các Bộ, ngành, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Công tác thẩm định văn bản QPPL của
Bộ và các cơ quan Tư pháp địa phương có nhiều tiến bộ, được Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đánh giá cao, thiết thực góp phần bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật.
Công tác kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL ngày càng chính xác, nhuần nhuyễn, mềm dẻo hơn, vừa đảm bảo được nguyên tắc,
vừa tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng và đã để lại nhiều dấu
ấn trong đời sống xã hội.
Nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi
hành pháp luật đang được triển khai tích cực và có những kết quả cụ thể. Đề án
"Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật"
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện tốt nhiệm
vụ mới và hết sức quan trọng này.
1.2. Cơ cấu tổ chức, cán bộ của
cơ quan Thi hành dân sự được kiện toàn một bước căn bản, kết quả thi hành án
cao hơn so với những năm trước và vượt chỉ tiêu Chính phủ đã hứa với Quốc hội.
Việc triển khai thi hành Luật
Thi hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật được thực hiện khá
bài bản với sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương. Việc kiện
toàn cơ quan Thi hành án dân sự theo ngành dọc từ Tổng cục tới Cục, Chi cục và
tổ chức Lễ ra mắt đã nâng cao vị thế của ngành Thi hành án, tạo ra không khí phấn
khởi của toàn Ngành, nâng cao nhận thức của địa phương về vai trò của công tác
tư pháp nói chung, công tác thi hành án dân sự nói riêng.
Tỷ lệ thi hành án xong hoàn toàn
khá cao, đạt 81,05% về việc (vượt 6,05% so với chỉ tiêu Chính phủ đã hứa trước
Quốc hội) và 57,64% về tiền (vượt 2,64% so với chỉ tiêu Chính phủ đã hứa trước
Quốc hội).
1.3. Công tác hành chính tư pháp
tiếp tục đi vào nề nếp và có nhiều chuyển biến tích cực.
Thể chế công tác hành chính tư
pháp được hoàn thiện một bước đáng kể với sự ra đời của Luật Quốc tịch Việt Nam
(sửa đổi), Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Ngành ta tiếp tục được Quốc hội, Chính phủ tin tưởng giao nhiệm vụ giúp Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động lý lịch tư pháp và bổ sung nhiệm vụ
giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước. Quản lý nhà
nước về hộ tịch, chứng thực có chuyển biến, nhất là công tác thống kê sau Hội
nghị giao ban công tác 6 tháng đầu năm 2009.
1.4. Công tác quản lý nhà nước về
hoạt động bổ trợ tư pháp có nhiều khởi sắc, nhất là luật sư, công chứng.
Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các
ngành, các cấp chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần
thứ nhất để thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam; tham mưu cho Ban Bí thư ban
hành Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và
hoạt động của luật sư; việc xã hội hoá hoạt động công chứng tiếp tục được đẩy mạnh
và được xã hội đón nhận; nhiều Sở Tư pháp tích cực tham mưu cho UBND tỉnh chuyển
giao việc chứng thực các giao dịch, hợp đồng liên quan đến nhà, đất từ UBND
sang cho các tổ chức hành nghề công chứng ở những địa bàn mà các tổ chức hành
nghề công chứng có thể đảm đương được nhiệm vụ này. Thể chế công tác giám định
tư pháp tiếp tục được hoàn thiện, góp phần tháo gỡ một số khó khăn trong công
tác này.
1.5. Phổ biến giáo dục pháp luật,
hòa giải cơ sở và trợ giúp pháp lý được tiến hành dưới nhiều hình thức phong
phú, đã đi vào thực chất hơn.
Việc triển khai Đề án quy hoạch
mạng lưới trợ giúp pháp lý khá bài bản, 100% Trung tâm Trợ giúp pháp lý đã thực
hiện việc đánh giá, thẩm định chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; hoạt động trợ
giúp pháp lý lưu động đến các địa bàn vùng sâu, vùng xa tiếp tục được đẩy mạnh.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật tiến hành khá bài bản. Hoạt động hoà giải ở cơ sở được quan tâm và thu được
nhiều kết quả tích cực, góp phần duy trì sự ổn dịnh xã hội, giảm bớt công việc
cho Toà án và chính quyền địa phương.
1.6. Cải cách tư pháp, cải cách
hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Ngành tiếp tục được đẩy mạnh.
Toàn Ngành đã tiến hành sơ
kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 49, được Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung
ương đánh giá cao. Bộ đã tham mưu cho Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chuẩn
bị sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 48–NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Bộ Tư
pháp là 01 trong 03 Bộ đầu tiên hoàn thành việc thống kê và công bố Bộ thủ tục
hành chính của Ngành Tư pháp.
1.7. Thể chế, tổ chức bộ máy,
cán bộ của Bộ, của Ngành từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được kiện toàn.
Đã ban hành, tham mưu ban hành
Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 25/27
đơn vị thuộc Bộ; 55 Sở Tư pháp. Nhiều Sở đã cơ cấu lại các đơn vị trực thuộc để
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới (có 45 Sở Tư pháp đã tách riêng Phòng Bổ trợ tư
pháp và Phòng Hành chính tư pháp). Có thể nói đây là lần đầu tiên trong gần 65
năm thể chế về tổ chức của Ngành được kiện toàn khá đầy đủ, đồng bộ. Nhận thức
của địa phương về vị trí, vai trò của cơ quan tư pháp được nâng lên. Một số tỉnh
bố trí Giám đốc Sở Tư pháp là tỉnh uỷ viên; đã luân chuyển, bố trí Bí thư huyện
uỷ làm Giám đốc Sở; Chủ tịch UBND huyện làm Cục trưởng Cục Thi hành án.
Bên cạnh những nhiệm vụ trọng
tâm, các mặt công tác khác của Ngành trong năm qua (như: pháp luật quốc tế, hợp
tác quốc tế về tư pháp và pháp luật; đào tạo, nghiên cứu khoa học; công nghệ thông
tin, xuất bản, báo chí; thi đua, khen thưởng, v.v...) cũng đạt được nhiều kết
quả tích cực; Báo Pháp luật Việt Nam đã có sự khởi sắc mới.
Nói tóm lại, công tác tư pháp
năm 2009 đã có sự trưởng thành hơn; một số lĩnh vực công tác bắt đầu đi vào chiều
sâu; công tác tư pháp đã gắn hơn với nhiệm vụ chung của đất nước và địa phương;
phối kết hợp tốt hơn, chủ động hơn với các Bộ, ngành, đặc biệt là cấp uỷ, chính
quyền địa phương. Kết quả công tác tư pháp đã có những đóng góp thiết thực vào
thành tựu chung của đất nước và từng địa phương về phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng - an ninh, tăng cường vị thế đối ngoại của đất nước, xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, tổ chức, người dân. Từ đó, vị trí, vai trò của công tác tư pháp trong
đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước tiếp tục được khẳng định; vị
thế của Ngành từ Trung ương đến địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường.
Có được thành tích đó là nhờ nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi lên hai nguyên nhân cơ bản là: Thứ nhất, việc
triển khai nhiệm vụ khá bài bản, vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, lựa
chọn đúng khâu đột phá, xác định đúng các “điểm nghẽn” đồng thời có biện pháp
tích cực để tháo gỡ và khi đã xác định được những công việc có lợi cho đất nước,
cho nhân dân thì cần phải quyết tâm làm đến cùng. Thứ hai, Ngành đã tranh thủ
được sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; đặc biệt sự phối kết
hợp của các Bộ, ngành, cấp uỷ, chính quyền địa phương trong năm 2009 là bài học
cần được tiếp tục phát huy mạnh nữa trong toàn Ngành.
2. Những hạn chế, bất cập, yếu
kém:
Bên cạnh những kết quả tích cực
nêu trên, công tác của Ngành cũng còn một số hạn chế, bất cập, thậm chí yếu
kém, nổi lên trong một số lĩnh vực như sau:
2.1. Số lượng án tồn đọng, chưa
có khả năng thi hành còn quá lớn; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy có nhiều
cố gắng nhưng một số vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài vẫn chưa giải quyết
dứt điểm; quản lý của Tổng cục còn nhiều bất cập.
2.2. Chất lượng công tác giám định
tư pháp còn nhiều bất cập, yếu kém, chưa đáp ứng được các yêu cầu của cải cách
tư pháp, không những làm chậm quy trình xét xử các vụ án kinh tế, nhất là các vụ
án tham nhũng, gây bức xúc trong dư luận xã hội, mà thậm chí còn có thể tác động
tiêu cực đến kết quả xét xử các vụ án.
2.3. Công tác thi đua, khen thưởng
chưa được tiến hành bài bản, kết quả còn khiêm tốn, chưa kịp thời và vẫn còn
hình thức.
2.4. Một số chỉ tiêu cụ thể đề
ra tại Hội nghị giao ban 6 tháng đầu năm 2009 thực hiện chưa quyết liệt.
Những hạn chế, bất cập nêu trên
bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi lên một số nguyên nhân
chủ quan như sau: Thứ nhất, nhận thức về trách nhiệm của Bộ, Ngành trong quản
lý nhà nước về công tác tư pháp chưa cao; sự phối hợp với các Bộ, ngành hữu
quan, nhất là trong việc ban hành các thông tư liên tịch còn chưa hiệu quả. Thứ
hai, một số Sở Tư pháp chưa chủ động, tích cực tham mưu cho Thường vụ cấp uỷ, Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân giúp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho công
tác tư pháp; chưa tranh thủ được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh uỷ,
HĐND, UBND. Thứ ba, một số cơ quan, đơn vị trong Ngành chưa quan tâm đúng mức đến
việc xây dựng kế hoạch công tác cụ thể, bám sát nhiệm vụ trọng tâm của Ngành;
chưa chủ động, sát sao, quyết liệt trong triển khai nhiệm vụ trọng tâm để tạo
bước đột phá; chưa tập trung cao cho công tác quản lý, điều hành. Thứ tư, tổ chức
bộ máy, cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ, cơ cấu nhân sự của nhiều cơ
quan Tư pháp không hợp lý, biên chế nhìn chung thiếu; đội ngũ cán bộ tư pháp cấp
huyện và cấp xã chưa được kiện toàn một bước căn bản. Một bộ phận cán bộ, công
chức trong Ngành còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỷ cương, kỷ luật chưa
nghiêm, lề lối làm việc chưa được đổi mới mạnh mẽ.
III. VỀ
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC NĂM 2010:
Năm 2010 là năm diễn ra nhiều sự
kiện trọng đại của đất nước. Đối với ngành Tư pháp thì năm 2010 còn là năm kỷ niệm
65 năm Ngày truyền thống. Trong bối cảnh chung của đất nước, nhiệm vụ công tác
tư pháp năm nay được triển khai với những thuận lợi và khó khăn đan xen lẫn
nhau. Về thuận lợi: thể chế, tổ chức, cán bộ của Ngành đã được kiện toàn một bước;
vị trí, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước tiếp tục được khẳng định; vị thế của Ngành từ Trung ương đến địa
phương ngày càng được củng cố, tăng cường; chúng ta đã có một số kinh nghiệm
trong hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp. Về khó khăn: khối
lượng công việc, yêu cầu về chất lượng, tiến độ công việc chắc chắn sẽ tăng nhiều
so với năm qua; tổ chức bộ máy, cán bộ trong những năm qua đã có nhiều trưởng
thành nhưng vẫn chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ; việc triển khai các đạo luật
mới như Luật Lý lịch nhà nước, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đang đặt
ra cho Ngành ta nhiều vấn đề mới, hết sức phức tạp cần giải quyết.
Để hoàn thành kế hoạch công tác năm,
toàn Ngành cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác quản
lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật; đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất
lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, góp
phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam phục vụ sự nghiệp xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế bền vững và hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.1. Tham mưu cho Chính phủ triển
khai đến các Bộ, ngành, địa phương việc sơ kết thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW
và đánh giá nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020.
1.2. Tạo chuyển biến mạnh về tiến
độ và chất lượng công tác thẩm định và kiểm tra văn bản QPPL.
1.3. Tham mưu cho Chính phủ và
các cấp chính quyền địa phương triển khai Đề án "Triển khai thực hiện công
tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật" đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
1.4. Tiếp tục đẩy mạnh việc rà
soát các văn bản QPPL nhằm đảm bảo thực thi các cam kết của Việt Nam với Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
2. Tập trung củng cố mạnh về tổ
chức, cán bộ cho hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự theo ngành dọc, từ Tổng cục
tới các Chi cục; hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thi hành án mà Quốc hội,
Chính phủ đã đặt ra (80% về việc và 60% về tiền; giảm từ 5 đến 10% án tồn đọng).
2.1. Nhanh chóng kiện toàn mọi mặt
Tổng cục, các Cục Thi hành án dân sự, nhất là văn phòng và tổ chức cán bộ để thực
hiện tốt việc quản lý cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, thi đua, khen thưởng
theo sự phân cấp của Bộ.
2.2. Rà soát các vụ việc tồn đọng,
tiến hành kiểm tra, thanh tra ở một số địa bàn có lượng án không có điều kiện
thi hành, án tồn đọng quá cao. Tổng cục THADS nghiên cứu, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng góp phần hạn chế việc ra những bản án,
quyết định không khả thi. Tập trung chỉ đạo tổ chức các đợt cao điểm thi hành
án; đẩy nhanh tiến độ giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo về công tác thi
hành án dân sự; chú trọng công tác dân vận.
2.3. Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện
tốt vai trò giúp Chủ tịch UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác thi hành án
dân sự trên địa bàn; tiếp tục phối hợp, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm và tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ quan Thi hành án hoàn thành nhiệm vụ.
3. Tăng cường vai trò quản lý
nhà nước, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động trong lĩnh vực hành chính tư
pháp.
3.1. Triển khai thực hiện tốt Luật
Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi), Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước; phối hợp với các tổ chức hữu quan chỉnh lý dự án Luật Nuôi con
nuôi; chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Trung tâm lý lịch
tư pháp quốc gia, đơn vị giúp Bộ quản lý nhà nước về bồi thường Nhà nước; chú
trọng việc bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch
tư pháp.
3.2. Tăng cường hoạt động thanh
tra, kiểm tra, hướng dẫn công tác chứng thực, hộ tịch, con nuôi; nghiên cứu đề
xuất đưa việc xây dựng các dự án Luật Hộ tịch, Luật Chứng thực vào Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội.
3.3. Tiếp tục hoàn thiện thể chế
về đăng ký giao dịch bảo đảm, tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức
năng trong hoạt động đăng ký tài sản, giao dịch, đồng thời cải cách mạnh mẽ thủ
tục đăng ký, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc đăng ký, cung cấp
thông tin về đăng ký giao dịch bảo đảm.
4. Tăng cường năng lực cho các
cơ quan bổ trợ tư pháp; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh
xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp.
4.1. Hoàn thành việc xây dựng Đề
án quy hoạch các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn cả nước, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
4.2. Triển khai thực hiện hiệu
quả Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và
hoạt động của luật sư; triển khai Đề án đào tạo luật sư phục vụ hội nhập; xây dựng
Chiến lược và quy hoạch phát triển đội ngũ luật sư đến năm 2020.
4.3. Phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan hữu quan tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về chế độ, chính sách
trong hoạt động giám định tư pháp nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt
động giám định tư pháp; xây dựng, trình phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức, tăng
cường năng lực cho cơ quan giám định tư pháp; tích cực, chủ động chuẩn bị việc
xây dựng Luật Giám định tư pháp.
5. Tiếp tục nâng cao chất lượng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải ở cơ sở và trợ giúp pháp lý.
5.1. Tố chức thực hiện tốt hơn nữa
Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, nhân dân; chuẩn bị tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị; tiếp tục
xây dựng dự án Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, đề xuất việc xây dựng dự án Luật
Hoà giải.
5.2. Tập trung mạnh vào hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức để họ thực thi
công vụ đúng pháp luật, hướng dẫn cho người dân thực hiện pháp luật, giảm thiểu
những khiếu nại, bức xúc và bất bình trong nhân dân.
5.3. Công tác trợ giúp pháp lý
phải hướng mạnh vào nhiệm vụ “xóa đói, giảm nghèo về pháp luật”, nhất là đối với
62 huyện nghèo.
6. Kiện toàn mạnh về tổ chức,
cán bộ của Ngành, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; chú trọng
công tác nghiên cứu khoa học pháp lý; tạo chuyển biến thực sự về chất lượng đào
tạo cán bộ pháp luật, nhất là đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp; tạo
đột phá trong công tác đào tạo cán bộ ở trình độ trung cấp luật.
6.1. Công tác tổ chức, cán bộ
năm 2010 phải hướng mạnh về cơ sở, với quyết tâm xây dựng hệ thống cơ quan Tư
pháp, Thi hành án dân sự và đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ cán bộ tư
pháp cấp huyện, cấp xã và pháp chế các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng
nhân dân, doanh nghiệp nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức đảm đương
các nhiệm vụ được giao. Phân cấp mạnh cho Tổng cục, Cục THADS trong quản lý cán
bộ, ngân sách, quản lý tài sản.
6.2. Đưa hoạt động nghiên cứu
khoa học pháp lý đi vào chiều sâu, góp phần lý giải thấu đáo các vấn đề đã và
đang đặt ra trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, vấn đề sở hữu,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, gắn với phát triển bền vững, đẩy mạnh cải
cách tư pháp, cải cách pháp luật và hội nhập quốc tế.
6.3. Triển khai thực hiện các đề
án tăng cường năng lực cho Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp sau
khi được phê duyệt, góp phần tạo chuyển biến mạnh về chất lượng hoạt động đào tạo
luật, đào tạo các chức danh tư pháp. Tiến hành đào tạo cán bộ ở trình độ trung
cấp luật một cách bài bản, chính quy tại Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuật;
phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan và chính quyền tỉnh Hậu Giang chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để thành lập Trường Trung cấp Luật tại tỉnh Hậu Giang và ở
một số địa phương khác.
7. Tiếp tục lộ trình cải cách tư
pháp, cải cách hành chính; đổi mới phương thức chỉ đạo điều hành công tác tư
pháp.
7.1. Chủ động thực hiện hiệu quả
các nhiệm vụ của Ngành trong Chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm 2010 của
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương.
7.2. Thực hiện tốt các nhiệm vụ
thuộc Kế hoạch cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Bộ, Ngành, địa phương.
Tiếp tục rà soát, loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo gây phiền
hà cho nhân dân, chuẩn hóa các quy trình giải quyết công việc, ứng dụng mạnh mẽ
công nghệ thông tin phục vụ cải cách hành chính.
7.3. Tiếp tục đổi mới toàn diện,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp.
Các cơ quan Tư pháp, Thi hành án dân sự địa phương, tổ chức pháp chế Bộ, ngành cần
chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc Bộ để kịp thời giải quyết những
khó khăn, vướng mắc phát sinh. Tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị.
7.4. Đổi mới căn bản công tác
thi đua, khen thưởng của Ngành; tiến hành xếp hạng các cơ quan Tư pháp, cơ quan
Thi hành án các tỉnh; tổ chức bình chọn 10 sự kiện nổi bật trong năm của ngành
Tư pháp.
7.5. Triển khai công tác kế hoạch
của toàn Ngành, đổi mới căn bản công tác thống kê. Chú trọng nâng cao hiệu quả
công tác kiểm tra, nhất là kiểm tra chéo trong các lĩnh vực công tác của Ngành.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, nhất
là trong công tác thi hành án dân sự, quốc tịch, hộ tịch và lý lịch tư pháp.
7.6. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách thực chất, hiệu
quả, đặc biệt là trong khối cơ quan Thi hành án dân sự.
8. Tích cực đóng góp vào quá
trình chuẩn bị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; tổ chức tốt các
hoạt động kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp.
8.1. Tiến hành thắng lợi Đại hội
Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; tham gia
tích cực đóng góp ý kiến cho các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng XI như:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển);
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020; bổ sung, sửa đổi Điều
lệ Đảng; Báo cáo chính trị..., nhất là những vấn đề liên quan đến xây dựng Nhà
nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách
tư pháp...
8.2. Tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch
kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp và Đại hội thi đua yêu nước
Ngành Tư pháp lần thứ III.
IV. VỀ CÁC
CÔNG VIỆC CẦN LÀM SAU HỘI NGHỊ
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ,
Tổ chức pháp chế Bộ, ngành, Giám đốc Sở Tư pháp, Cục trưởng Cục Thi hành án
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao có trách nhiệm tổ chức
triển khai công tác năm 2010 phù hợp với phương hướng, nhiệm vụ công tác của Bộ,
ngành, địa phương mình.
Mỗi đơn vị cần xác định trọng
tâm, trọng điểm, lộ trình, trách nhiệm thực hiện, các giải pháp áp dụng, nhất
là các giải pháp đột phá để tạo chuyển biến mạnh trong các lĩnh vực công tác của
Ngành; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, đánh giá chính xác kết quả công việc của từng đơn vị, từng cá nhân.
Văn phòng Bộ có trách nhiệm tập
hợp kết quả Hội nghị; hoàn thiện Báo cáo kết quả công tác năm 2009 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2010; dự thảo Chương trình công tác của ngành Tư pháp năm 2010
theo ý kiến đóng góp của Hội nghị, trình Bộ trưởng ký ban hành ngay sau khi kết
thúc Hội nghị tổ chức ở khu vực phía Nam; giúp Bộ trưởng theo dõi, đôn đốc các
đơn vị thực hiện Chương trình công tác, định kỳ báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Trên đây là kết luận của Bộ trưởng
Hà Hùng Cường tại Hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2010, Văn phòng xin
thông báo để các đơn vị biết và thực hiện./.
Nơi nhận:
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để báo cáo);
- Các đơn vị thuộc Bộ; các Sở Tư pháp, Cục THADS các tỉnh, TP. trực thuộc TW
(để thực hiện);
- Cổng thông tin điện tử BTP;
- Lưu: VT, BTK.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
CHÁNH VĂN PHÒNG
Lê Hồng Sơn
|