SẮC LỆNH
VỀ
TỔ CHỨC TƯ PHÁP CÔNG AN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 131
NGÀY 20 THÁNG 7 NĂM 1946
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu Sắc lệnh số
13 ngày 24-1-46 tổ chức các Toà án và ngạch Thẩm phán;
Chiểu Sắc lệnh số 51 ngày
17-4-46 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong
toà án;
Chiểu Sắc lệnh số 23 ngày
21-2-46 thành lập Việt Nam Cộng an vụ;
Sau khi đã hỏi ý kiến của Ban
Thường trực Quốc hội và sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả thuận,
RA
SẮC LỆNH:
Điều thứ 1
Cách tổ chức Tư pháp công an ấn
định như sau này:
Điều thứ 2
Tư pháp công an có nhiệm vụ truy
tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các
tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho các Toà án xét xử trong phạm vi luật
pháp ấn định.
Điều
thứ 3
Tư pháp công an gồm có những phụ
trách Tư pháp công an và những Uỷ viên Tư pháp công an.
Phụ trách tư pháp công an là Dự
thẩm, Biện lý và Phó Biện lý.
Uỷ viên Tư pháp công an là:
a) Về bên Toà án: Thẩm phán sơ cấp
b) Về bên Công an: Chủ sự và Phó
chủ sự phòng Chính trị và phòng tư pháp: Trưởng ban chính trị và ban tư pháp
cùng quận trưởng các quận Công an ở Hà Nội, Hai Phòng, Huế, Sài Gòn Chợ Lớn;
Trưởng Ty Công an tỉnh, hay ở những tỉnh nhiều việc do Bộ Trưởng Bộ Nội vụ chỉ
định, một Trưởng ban trong ty Công an sẽ thay Trưởng Ty công an.
c) Kiểm soát viên Kiểm lâm, Hoả
xã, Thương chính và tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó cho nhiệm vụ tư
pháp công an đối với những việc phạm pháp riêng cho từng ngành.
Điều
thứ 4
Ở trong đại hạt làng thì ban tư
pháp xã phải thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán theo như Điều 3 - đoạn
3, Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 và được khám xét nhà các tư nhân
theo như Điều thứ 6 Sắc lệnh số 13 kể trên.
Điều
thứ 5
Tất cả các phụ trách Tư pháp
công an và Uỷ viên Tư pháp công an về phương diện tư pháp công an đều đặt dưới
quyền kiểm soát trực tiếp của Chưởng lý Toà Thượng phẩm.
Trong quản hạt một tỉnh, những uỷ
viên tư pháp công an về phương diện Tư pháp công an đều đặt dưới quyền kiểm
soát trực tiếp của biện lý hay Thẩm phán viên nào giữ chức Biện lý ở những tỉnh
không có Biện lý.
Biện lý có quyền ra chỉ thị và
kiểm soát công việc của tất cả các Uỷ viên Tư pháp công an.
Điều thứ 6
Phụ trách Tư pháp công an và Uỷ
viên Tư pháp công an chỉ có quyền điều tra trong quản hạt của mình mà thôi. Nếu
muốn điều tra về một việc gì ở ngoài quản hạt của mình thì phải gửi phái uỷ trạng.
Nếu uỷ viên tư pháp công an lưu
động hay người được mệnh lệnh viết của uỷ viên tư pháp công an lưu động đi điều
tra, thì 24 giờ sau khi điều tra ở một nơi nào phải gửi bản sao khám xét nhà và
tịch thu tang vật cho Biện lý tỉnh mà mình vừa đi điều tra biêt.
Người được uỷ đi điều tra bên
Công an phải là ở cấp khu trưởng hoặc tiểu đội trưởng giở lên.
Điều
thứ 7
Muốn khám nhà ngoài trường hợp
phạ pháp quả tang thì phải khám sau 6 giờ sáng và trước 6 giờ chiều. Nếu đã bắt
đầu khám trước 6 giờ chiều thì vẫn có quyền tiếp tục việc khám nhà đến khi
xong.
Trong các nhà mở cho công chúng tự
do xuất nhập, thí dụ cao, hàng cà phê, nhà hay gá cờ bạc vân vân, thì giờ có thể
khám nhà lùi đến lúc khách hàng hoặc người làm việc phạm pháp ra về hết.
Ngời ra phải gặp
một trong ba trường hợp đặc biệt sau này, được vào nhà tư nhân ban đêm: cháy
nhà, lụt hoặc có tiếng cầu cứu ở trong nhà phát ra.
Điều thứ 8
Biên bản khám nhà sẽ có hiệu lực
nếu:
a) Dự thẩm đi cùng với lục sự;
Biện lý hoặc Phó biện lý đi cùng với một viên chức trong công tố viên.
b) Uỷ viên tư pháp công an đi
cùng với hai người công dân. Hai người này nên chọn trong các người thân thích
với người bị khám nhà hay người lân lân bang thì hơn;
c) Các khu trưởng hoặc tiểu đội
trưởng giở lên phải đi cùng với một uỷ viên trong uy ban khu phố hay thị xã và
hai người công dân chọn trong các người thân thích người mà nhà bị khám hay người
hàng xóm;
d) Đối với các ngành như Kiểm
lâm, Thương chính, vân vân, thì uỷ viên tư pháp công an vẫn theo luật hiện hành
cho từng ngành.
e) Ban tư pháp xã đi khám nhà phải
có đủ ba người như đã định trong Điều thứ 2 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm
1946.
Điều thứ 9
Sau khi khám nhà, nếu bắt được
hay không bắt được tang vật, đều phải có biên bản.
Biên bản này phải kê rõ đã tịch
thu những tang vật gì, niêm phong như thế nào, giao cho ai.
Chủ nhà bị khám sẽ ký vào biên bản;
chủ nhà vắng mặt thì thân nhân ký thay. Nếu chủ nhà hoặc thân nhân không chịu
ký, không biết ký hoặc không thể ký được thì nói rõ trong biên bản.
Điều
thứ 10
Bao nhiêu đơn khiếu nại, tố cáo,
sau khi đã lập xong biên bản, đều phải gửi sang ông Biện lý. Chỉ có ông Biện lý
mới có quyền tạm đình cứu một việc hay đưa việc phạm pháp ra phiên toà.
Dự thẩm có quyền nhận đơn của
người bị thiệt hại đứng dân sự nguyên cáo về tiểu hình và đại hình; Thẩm phán
sơ cấp có quyền nhận đơn của người bị thiệt hại đứng dân sự nguyên cáo về vi cảnh.
Điều thứ 11
Trước khi nhân việc, Uỷ viên Tư
pháp công an phải tuyên thệ trước Toà án.
Điều thứ 12
Để thi hành nhiệm vụ của mình,
các phụ trách tư pháp công an và các Uỷ viên Tư pháp công an có quyền trưng cầu
binh lực trong những trường hợp và theo những thủ tục do luật pháp ấn định.
Điều thứ 13
Việc bổ sung, thăng thưởng và trừng
phạt hành chính những Uỷ viên Tư pháp công an không phải là Thẩm phán viên để
làm sau khi hỏi ý kiến của Biện lý và Chưởng lý.
Điều thứ 14
Các luật lệ nào trái với Sắc lệnh
này đều bãi bỏ.
Điều
thứ 15
Các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ
trưởng Bộ Tư pháp chịu uỷ nhiệm thi hành Sắc lệnh này.