CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 38-CP
|
Hà Nội, ngày 04
tháng 5 năm 1994
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 38-CP
NGÀY 4-5-1994VỀ CẢI CÁCH MỘT BƯỚC THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÔNG
VIỆC CỦA CÔNG DÂN VÀ TỔ CHỨC .
Hiện nay, thủ tục hành chính,
trước hết là thủ tục tiếp nhận và giải quyết công việc của công dân và tổ chức
do nhiều ngành, nhiều cấp qui định, vừa thiếu tính đồng bộ, vừa rườm rà phức tạp,
thường xuất phát từ yêu cầu thuận tiện của cơ quan có trách nhiệm giải quyết
công việc mà chưa quan tâm đầy đủ đến nguyện vọng và sự thuận tiện cho dân.
Nhiều cơ quan Nhà nước chưa chấp
hành đúng các quy định về việc tiếp nhận và giải quyết công việc của dân hoặc
đùn đẩy trách nhiệm giải quyết công ciệc giữa các cơ quan, cuối cùng công việc
không ai giải quyết; thậm chí tự đặt ra các thủ tục, các khoản phí, lệ phí
không đúng thẩm quyền hoặc thu phí và lệ phí quá mức qui định; không niêm yết
công khai cho nhân dân biết các qui định về thủ tục hành chính của Nhà nước;
không bố trí cán bộ đủ trình độ và phẩm chất làm công việc tiếp nhận và giải
quyết công việc.
Không ít công chức Nhà nước khi
tiếp và giải quyết công việc của dân có thái độ thiếu tôn trọng nhân dân, cửa
quyền, ban ơn, thậm chí sách nhiễu, đòi hối lộ. Tình hình giải quyết công việc
như vậy không những làm mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc của các cơ
quan, đơn vị, của nhân dân, mà là nguyên nhân chính làm tệ tham nhũng phát triển,
gây bất bình và làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Vì vậy, cải
cách thủ tục hành chính là một đòi hỏi bức xúc, đáp ứng yêu cầu chính đáng của
nhân dân. Đây cũng là một nội dung quan trọng của cải cách một bước nền hành
chính quốc gia.
Yêu cầu đặt ra là phải đạt được
bước chuyển biến căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa các
cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan Nhà nước và các cơ quan, đơn vị khác; giữa cơ
quan Nhà nước với nhân dân trong việc tiếp nhận và giải quyết công việc.
Chính phủ quyết định tiến hành
ngay từ quý II năm 1994 một số công việc sau đây:
1. Trước hết, các thành viên
Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và
thành phố trực thuộc Trung ương phải tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-TTg ngày
29-10-1992 của Thủ tướng Chính phủ qui định một số điểm trong quan hệ làm việc
giữa các đồng chí phụ trách bộ máy hành chính các cấp, với các nội dung chính
sau đây:
a) Luật Tổ chức Chính phủ và Quy
chế làm việc của Chính phủ đã xác định các Phó thủ tướng là người giúp Thủ tướng,
nhân danh Thủ tướng chỉ đạo, điều hành, chịu trách nhiệm trực tiếp giải quyết
công việc thuộc lĩnh vực công tác được phân công, xem đó là được uỷ nhiệm của
Thủ tướng. Các Bộ trưởng quan hệ thường xuyên với Thủ tướng, trực tiếp gặp và
làm việc với Thủ tướng khi có công việc cần thiết, nhưng khi làm việc với Phó
Thủ tướng thì phải chấp hành ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng và coi đó là ý kiến
thay mặt Thủ tướng.
Tinh thần nói trên cũng cần được
thể hiện trong quan hệ làm việc giữa Bộ trưởng với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và giữa các đồng chí phụ trách các cấp hành
chính trong tỉnh (thành phố) nhằm tăng cường trách nhiệm cá nhân, bảo đảm sự chỉ
đạo tập trung, thống nhất, khắc phục tệ quan liêu, phiền hà, trì trệ.
b) Trong quan hệ làm việc giữa Bộ
trưởng và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ
trưởng phải trực tiếp làm việc với các Chủ tịch (hoặc Phó chủ tịch được chủ tịch
uỷ nhiệm) Uỷ ban Nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương để giải quyết
công việc trực tiếp, nhanh và đủ trách nhiệm các vấn đề thuộc thẩm quyền giải
quyết của Bộ trưởng trong thời gian ngắn nhất, chấm dứt tình trạng Bộ trưởng,
Thứ trưởng buộc Chủ tịch (Phó Chủ tịch) Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố phải
làm việc trước với từng Vụ, Cục thuộc Bộ, sau đó Bộ trưởng mới giải quyết công
việc. Trường hợp đề nghị của tỉnh và thành phố có liên quan đến nhiều Bộ, thì Bộ
chuyên ngành phải làm đầu mối bàn với các Bộ liên quan khác, Không nên để Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải đi đến từng Bộ để xin ý kiến giải quyết của
Bộ trưởng sau đó mới đến bộ trưởng chuyên ngành giải quyết.
c) Đối với những việc vượt quá
thẩm quyền của Bộ trưởng thì Chủ tịch (hoặc Phó Chủ tịch) Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương làm việc với Thủ tướng (hoặc phó Thủ tướng).
Trong trường hợp này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm đứng
ra tổ chức để Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng làm việc trực tiếp với Chủ tịch (hoặc
phó Chủ tịch) Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
Những quy định nói ở điểm b và c
nói trên cũng được thực hiện đối với Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ.
d) Trong quan hệ làm việc giữa
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố) với giám đốc các Sở, các Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân huyện (quận) cũng phải xử lý công việc theo tinh thần nói trên.
e) Trong quan hệ làm việc giữa
Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện (quận) với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã (phường)
cũng phải quán triệt tinh thần nói trên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Huyện (quận)
phải dành phần lớn thời gian đi sát các xã (phường) để giải quyết công việc tại
chỗ, giảm đến mức thấp nhất việc giải quyết công việc thông qua hội nghị.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức một đợt soát xét lại toàn bộ các quy định
hiện hành về thủ tục hành chính, về phí và lệ phí thuộc lĩnh vực mình phụ
trách, kể cả những quy định do cấp dưới ban hành nhằm bãi bỏ ngay những quy định
thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền và bổ sung, sửa đổi những thủ tục
không phù hợp với thực tế, đã và đang trở ngại cho hoạt động của các cơ quan,
đơn vị khác và gây phiền hà cho nhân dân.
Nếu có những quy định do cấp
trên ban hành xét thấy cần phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ thì báo cáo, kiến nghị
để cơ quan đã ban hành xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Công việc này phải
được tiến hành trong tất cả các khâu và các lĩnh vực mà trọng tâm là thủ tục cấp
giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư, xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấp đất;
đăng ký kinh doanh, hành nghề; sở hữu và sử dụng phương tiện giao thông; hộ khẩu;
xuất cảnh, nhập cảnh; trước bạ mua bán chuyển nhượng các loại tài sản; cho vay
vốn; công chứng; thanh tra doanh nghiệp.
Đối với những thủ tục đã quy định
trước, nay còn phù hợp nhưng được quy định phân tán ở nhiều văn bản, nay cần được
hệ thống hoá lại bằng một văn bản thống nhất theo thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ để thuận tiện cho
việc thi hành và kiểm tra, giám sát. Những thủ tục liên quan đến nhiều Bộ,
ngành thì Bộ có chức năng quản lý Nhà nước chính có trách nhiệm phối hợp để ban
hành quy định liên Bộ.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương phải trực tiếp kiểm tra và chỉ đạo triển khai
công việc này ngay từ quý II năm 1994, coi đây là một trong những công tác trọng
tâm của Bộ, ngành và địa phương từ nay đến cuối năm 1994.
Sau khi các thủ tục hành chính
được soát xét lại, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, trong phạm vi quản lý của mình, phải công bố công khai hệ thống
các văn bản qui định thủ tục mới bằng nhiều hình thức để mọi cơ quan, đơn vị, mọi
người dân được biết và thực hiện. Hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung loại thủ tục
nào thì kịp thời công bố ngay loại thủ tục đó, nhưng chậm nhất công việc này phải
xong trong năm 1994. Đồng thời, thông qua công tác kiểm tra, soát xét các thủ tục
hành chính của ngành mà kiện toàn ngay các bộ phận tiếp nhận, giải quyết công
việc của các cơ quan, đơn vị khác, của công dân, kiên quyết xử lý và đưa những
cán bộ vi phạm hoặc không đủ tiêu chuẩn ra khỏi vị trí công tác đó.
3. Ngoài luật, pháp lệnh và các
văn bản pháp quy của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, chỉ có Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ mới có thẩm quyền
quy định các thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình và chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về các qui định đó. Việc quy định mới hoặc bổ sung, sửa đổi,
bãi bỏ các quy định về thủ tục hành chính đã có phải được thể hiện bằng văn bản,
bảo đảm tính đồng bộ; chính xác, không được trái với luật, pháp lệnh và các văn
bản pháp quy của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ. Các quy định về thủ tục
hành chính phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và phải được công bố công khai
để mọi cơ quan, đơn vị và nhân dân biết.
Đối với một số quy định thủ tục
hành chính thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành Trung ương, nhưng cần phải có quy định
riêng để phù hợp với đặc điểm của một số địa phương thì các Bộ, ngành Trung
ương có văn bản uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương ban hành quy định. Các quy định này của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải
có sự thống nhất của Bộ, ngành quản lý về lĩnh vực đó và phải được công bố công
khai như quy định thủ tục hành chính của Bộ, ngành.
4. Các Bộ, các ngành và các địa
phương có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh Quyết định số 276-CT ngày
28-7-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc
thống nhất quy định, quản lý các loại phí, lệ phí trong cả nước. Nghiêm cấm các
cơ quan và công chức Nhà nước tự đặt ra các khoản phí, lệ phí ngoài những quy định
trong Quyết định này.
Bộ Tài chính có trách nhiệm phối
hợp với các cơ quan hữu quan thống nhất hướng dẫn chế độ quản lý đối với từng
khoản thu phí, lệ phí.
5. Tại địa điểm tiếp nhận hồ sơ,
giấy tờ, đơn thư và giải quyết công việc của dân phải niêm yết công khai các
quy định, thủ tục giải quyết từng loại công việc (sau khi đã được các Bộ, ngành
soát xét, sửa đổi, bổ sung theo tinh thần trên đây). Phải xác định rõ từng loại
việc do cơ quan nào là đầu mối giải quyết công việc đến cùng. Nếu có quy định về
phí, lệ phí thì cũng phải được niêm yết công khai.
Những công chức được giao nhiệm
vụ tiếp xúc, nhận hồ sơ và giải quyết việc của dân phải là những người có
chuyên môn, liêm khiết, có tác phong thái độ nghiêm chỉnh, đeo thẻ có ảnh ghi
rõ họ tên, chức danh công tác và chỉ được giải quyết công việc tại công sở.
Khi nhận hồ sơ yêu cầu giải quyết
công việc của dân, phải có phiếu hẹn thời gian trả lời. Những công việc đã có đủ
hồ sơ, thủ tục, thì cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết kịp thời theo quy định
của pháp luật, không được trì hoãn dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả trường hợp
không giải quyết được cũng phải nói rõ lý do để dân biết. Nếu hồ sơ thủ tục
chưa đầy đủ, thì phải hướng dẫn cụ thể để đương sự không phải đi lại nhiều lần.
Những công việc liên quan đến nhiều bộ phận trong cơ quan thì Thủ trưởng cơ
quan phải đề ra quy chế phối hợp giải quyết trong nội bộ cơ quan để công dân, tổ
chức có yêu cầu giải quyết công việc chỉ phải làm việc với một công chức được
giao nhiệm vụ làm đầu mối tiếp xúc, nhận hồ sơ và giải quyết công việc.
6. Người yêu cầu giải quyết công
việc có quyền khiếu nại, tố cáo với Thủ trưởng phụ trách trực tiếp, với thủ trưởng
cơ quan cấp trên hoặc kiện trước toà án những việc làm sai trái, gây phiền hà của
công chức Nhà nước như không theo đúng thủ tục, có thái độ cửa quyền, hống hách
hoặc vòi vĩnh khi giải quyết công việc. Người đứng đầu tổ chức được giao nhiệm
vụ giải quyết công việc và cá nhân công chức trực tiếp giải quyết công việc nếu
vi phạm đều phải bị xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh; trước mắt, không để
cán bộ có vi phạm các quy định trên làm công tác đó; mặt khác, cần xử lý theo
pháp luật những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để làm rối trật tự, kỷ
cương, vu cáo làm mất uy tín người thi hành công vụ và cơ quan Nhà nước.
7. Để việc soát xét lại hệ thống
thủ tục hành chính hiện hành cũng như quy định mới hoặc bổ sung, sửa đổi, bãi bỏ
thủ tục hành chính được nhanh chóng, giao Văn phòng Chính phủ chủ trì phối hợp
với các ngành tổ chức tiếp thu ý kiến các cơ quan, đoàn thể về những thủ tục
hành chính đã lỗi thời hoặc trái với luật pháp, gây phiền hà cho các cơ quan,
đơn vị, cho nhân dân và tạo kẽ hở cho những người xấu lợi dụng. Thư góp ý của
các cơ quan, đơn vị và của nhân dân về những thủ tục hành chính cần sửa đổi,
bãi bỏ gửi về Văn phòng Chính phủ không phải trả cước phí bưu điện. Văn phòng
Chính phủ chịu trách nhiệm tổng hợp, phân loại ý kiến đóng góp và thông báo cho
các Bộ, ngành liên quan xử lý.
8. Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ chủ trì có sự phối hợp với Bộ trưởng, Trưởng ban
Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng Thanh tra Nhà nước
giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các ngành, các địa phương trong việc thực hiện
Nghị quyết này.
Đề nghị các cơ quan Trung ương của các đoàn thể, các phương
tiện thông tin đại chúng phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương và Uỷ
ban nhân dân các cấp tuyên truyền sâu rộng các chủ trương trên đây nhằm thực hiện
nghiêm túc có hiệu quả Nghị quyết này.