ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
58/QĐ-UB
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 4 năm 1978
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH BẢN QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC
THANH TRA CỦA NHÀ NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng
Nhân dân và Ủy ban Hành chánh các cấp ngày 27-10-1962;
Căn cứ điều lệ tổ chức và hoạt động của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ, ban
hành kèm theo nghị định số 01/CP ngày 3-1-1977 của Hội đồng Chính phủ;
Căn cứ thông tư số 04/TT-TTr ngày 20-7-1977 của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ
quy định và hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra ở các
ngành và các địa phương;
Xét đề nghị của các đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra và Trưởng Ban Tổ chức
chánh quyền thành phố,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.
– Nay ban hành kèm theo quyết định này Bản quy định về tổ
chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra của Nhà nước ở thành phố Hồ Chí
Minh.
Điều 2.
– Quyết định này có giá trị thi hành kể từ ngày ban hành.
Những văn bản của thành phố ban hành trước đây trái với Bản quy định này nay
bãi bỏ.
Điều 3. –
Các đồng chí ChánhVăn phòng Ủy ban Nhân dân thành phố,
Trưởng Ban Tổ chức chánh quyền, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra thành phố, thủ trưởng
các sở và cơ quan tương đương sở, và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các quận, huyện
có trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
CHỦ TỊCH
Vũ Đình Liệu
|
BẢN QUY ĐỊNH
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC THANH TRA CỦA NHÀ NƯỚC
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Ban hành kèm theo quyết định số 58/QĐ-UB ngày 17-4-1978 của Ủy ban Nhân dân
thành phố)
Chương 1
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. –
Các tổ chức thanh tra của Nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh gồm có:
- Ủy ban Thanh tra thành phố;
- Ủy ban Thanh tra các quận, huyện;
Ban Thanh tra của các sở (đối với
một số có quản lý nhiều đơn vị sản xuất, kinh doanh hoặc nhiều đơn vị sự nghiệp
phục vụ lợi ích nhân dân, cần thiết phải có Ban Thanh tra do Ủy ban Nhân dân
thành phố xét quyết định thành lập). Riêng đối với các Ban Thanh tra chuyên
trách như Ban Thanh tra tài chánh, Ban Thanh tra ngân hàng, Ban Thanh tra kỹ
thuật an toàn lao động, Ban Thanh tra ngành công an,… sẽ có quy định riêng về tổ
chức và hoạt động theo quy định của Hội đồng Chính phủ và thông tư hướng dẫn của
bộ chủ quản.
Các cơ quan thanh tra nói trên
là cơ quan chuyên trách của Ủy ban Nhân dân cùng cấp (thành phố, quận, huyện),
của các sở, ngành thành phố. Ủy ban Thanh tra thành phố, các quận, huyện (có
trách nhiệm thay mặt Ủy ban Nhân dân cùng cấp), Ban Thanh tra các sở, ngành (có
trách nhiệm tham mưu cho giám đốc sở, ngành) thực hiện chức năng thanh tra một
cách thường xuyên, kịp thời, chính xác việc thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Chính phủ, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước, chủ yếu về mặt
kinh tế; thanh tra việc xét giải quyết các vụ khiếu tố của nhân dân và trực tiếp
xét giải quyết các vụ khiếu tố trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình;
chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra nhân dân thuộc phạm vi mình phụ trách, nhằm
bảo đảm chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách, góp phần gìn giữ kỷ luật,
cải tiến tổ chức, đồng thời giúp cơ quan lãnh đạo kiểm tra lại sự đúng đắn của
các chủ trương, chính sách đã đề ra.
Điều 2. –
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra của Nhà nước ở thành phố theo
nguyên tắc “Hai chiều phụ thuộc”:
- Ủy ban Thanh tra thành phố chịu
sự lãnh đạo toàn diện của Ủy ban Nhân dân thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo
về chuyên môn nghiệp vụ của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ.
- Ủy ban Thanh tra quận, huyện
chịu sự lãnh đạo toàn diện của Ủy ban Nhân dân quận, huyện, đồng thời chịu sự
chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Ủy ban Thanh tra thành phố.
- Ban Thanh tra của các sở chịu
sự lãnh đạo toàn diện của giám đốc sở, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn,
nghiệp vụ của Ủy ban Thanh tra thành phố.
Để thực hiện nhiệm vụ thanh tra,
các cơ quan thanh tra của Nhà nước ở thành phố cần phối hợp chặt chẽ với các
ngành, các cấp, các cơ quan hữu quan (Kiểm tra của Đảng, Công an, Kiểm sát, Tòa
an,…) để cùng nhau bàn bạc, kết luận và giải quyết những vấn đề quan trọng có
liên quan chung. Đồng thời cần có quan hệ chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân,
các cơ quan thông tin báo chí để cùng nhau phối hợp kế hoạch trong công tác
tuyên truyền, vận động tổ chức quần chúng tham gia các hoạt động thanh tra.
Điều 3. –
Các cơ quan Thanh tra của Nhà nước ở thành phố làm việc theo chế độ thủ trưởng,
kết hợp với bàn bạc tập thể.
Ủy ban Thanh tra thành phố và Ủy
ban Thanh tra các quận, huyện có con dấu riêng và được cấp kinh phí để hoạt động.
Ban Thanh tra của các sở không
có con dấu riêng (trong giao dịch cần thiết bằng văn thư thì sử dụng con dấu của
cơ quan chủ quản), kinh phí hoạt động được tính chung vào kinh phí chung của sở
chủ quản.
Điều 4. – Điều
khoản chung về tổ chức và cán bộ đối với các cơ quan thanh tra của Nhà nước ở
thành phố:
“Tất cả các tổ chức thanh tra đều
phải tinh, gọn, có hiệu lực”, tùy theo tình hình và khối lượng, nhiệm vụ công
tác cụ thể, biên chế sẽ ấn định hợp lý. “Cán bộ thanh tra mỗi ngành, mỗi cấp
không cần nhiều nhưng phải có năng lực và đạo đức, có trình độ chính trị và
nghiệp vụ, nắm vững chính sách, pháp luật, chế độ, thể lệ, có ý thức tổ chức kỷ
luật, có tinh thần trách nhiệm và tinh thần đấu tranh bảo vệ nguyên tắc, bảo vệ
chân lý. Ủy ban Thanh tra thành phố, thủ trưởng các ngành, sở và các Ủy ban
Nhân dân quận, huyện cần lựa chọn và điều động cán bộ theo tiêu chuẩn như vậy để
kiện toàn các tổ chức thanh tra. Cần có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ thanh tra,
giúp họ không ngừng nâng cao trình độ công tác và khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
Trừ trường hợp đặc biệt, không được chuyển cán bộ thanh tra đi làm công tác
khác. Trong tập thể lãnh đạo của các ngành, sở, Ủy ban Nhân dân các cấp, phải
phân công người phụ trách công tác thanh tra, đi sát chỉ đạo công tác thanh
tra, lắng nghe ý kiến của cán bộ thanh tra, nghiên cứu giải quyết kịp thời những
vấn đề do cán bộ thanh tra đề xuất”. (Theo tinh thần nghị quyết 164-CP ngày
30-8-1970 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn
chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra của Nhà nước).
Việc bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm Chủ
nhiệm và các Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra thành phố phải được thi hành đúng
theo chính sách cán bộ và quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Trung ương Đảng
và Hội đồng Chính phủ.
Việc bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm của
các Chủ nhiệm và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra các quận, huyện và Trưởng, Phó
Ban Thanh tra các ngành, sở, phải được thi hành theo quy định về phân cấp quản
lý cán bộ của Thành ủy và Ủy ban Nhân dân thành phố.
Chương II
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TỔ
CHỨC BỘ MÁY
A. ỦY BAN
THANH TRA THÀNH PHỐ
Điều 5. Ủy
ban Thanh tra thành phố có các nhiệm vụ cụ thể:
a) Thanh tra việc thực hiện các
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước của địa phương theo yêu cầu trọng tâm chỉ đạo từng kỳ
của Ủy ban Nhân dân thành phố; kiến nghị những biện pháp giải quyết cần thiết,
góp phần thúc đẩy hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước của đơn vị được thanh tra và
của địa phương.
b) Thanh tra việc chấp hành các
chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, pháp luật của Nhà nước, các chỉ
thị, nghị quyết của Ủy ban Nhân dân thành phố, chú trọng những vấn đề về quản
lý kinh tế và đời sống nhân dân, qua đó giúp nơi được thanh tra hiểu rõ và làm
đúng các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, phát hiện và đấu tranh chống những
hiện tượng quan liêu, cửa quyền, tham ô, lãng phí, đồng thời có những đề nghị sửa
đổi, bổ sung cần thiết.
c) Hướng dẫn, đôn đốc và thanh
tra thủ trưởng các ngành, sở, các đơn vị trong địa phương về việc xét giải quyết
các vụ khiếu tố của nhân dân, đồng thời trực tiếp xét giải quyết các vụ khiếu tố
thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, góp phần bảo đảm quyền làm chủ tập thể và
quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
d) Chỉ đạo, hướng dẫn về công
tác tổ chức và nghiệp vụ cho các cơ quan thanh tra chuyên trách quận, huyện,
ngành, sở và công tác thanh tra nhân dân ở các đơn vị kinh tế, sự nghiệp và
chánh quyền cơ sở.
Tổ chức, quản lý và sử dụng đội
ngũ cộng tác viên thanh tra của thành phố.
Điều 6. Ủy
ban Thanh tra thành phố có những quyền hạn sau:
a) Dựa theo phương hướng, nhiệm
vụ công tác được Ủy ban Nhân dân thành phố xét duyệt và Ủy ban Thanh tra của
Chính phủ hướng dẫn, lập và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra,
thanh tra việc xét giải quyết khiếu tố, trực tiếp xét giải quyết khiếu tố.
Những cuộc thanh tra hoặc xét
khiếu tố quan trọng, cần có sự phối hợp của nhiều ngành thì do Ủy ban Nhân dân
thành phố ra quyết định.
Ủy ban Thanh tra thành phố được
quyền thanh tra các cơ sở kinh tế, sự nghiệp trực thuộc các bộ, các ngành trung
ương đóng ở thành phố, dựa theo nhiệm vụ, quyền hạn của chánh quyền địa phương
đối với cơ sở đó do nghị định 24-CP ngày 2-2-1976 của Hội đồng Chính phủ đã quy
định, hoặc theo sự ủy nhiệm của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ.
Triệu tập, hoặc đề nghị Ủy ban Nhân
dân thành phố triệu tập hội nghị bàn về công tác thanh tra, xét khiếu tố. Cử đại
diện tham dự các cuộc hội nghị có liên quan đến công tác thanh tra của các
ngành, các cấp ở thành phố.
b) Yêu cầu các đơn vị được thanh
tra hoặc có liên quan cử cán bộ tham gia các cuộc thanh tra. Số cán bộ này chịu
sự chỉ đạo của Ủy ban Thanh tra thành phố trong thời gian công tác thanh tra.
Yêu cầu các đơn vị, cá nhân được
tham gia hoặc có liên quan đến công tác thanh tra cung cấp tài liệu, thuyết
minh sự việc, báo cáo tình hình cần thiết hoặc kết luận những vấn đề thuộc
trách nhiệm để phục vụ cho công tác thanh tra, xét khiếu tố; gặp nhân chứng để
xác minh sự việc.
c) Sau mỗi cuộc thanh tra, xét
khiếu tố, ra văn bản nhận xét, kết luận về những việc làm đúng, sai; nêu rõ
nguyên nhân, trách nhiệm, kiến nghị những biện pháp sửa chữa và các hình thức
khen thưởng, kỷ luật cần thiết.
Khi cần kiến nghị sửa đổi, bổ
sung những chỉ thị, nghị quyết đã có của các bộ, các ngành trung ương, của Ủy
ban Nhân dân địa phương, hoặc kiến nghị kỷ luật các cán bộ, nhân viên không thuộc
diện quản lý của thành phố thì phải báo cáo với Ủy ban Nhân dân thành phố hoặc
với Ủy ban Thanh tra của Chính phủ (nếu cuộc thanh tra này do Ủy ban Thanh tra
của Chính phủ ủy nhiệm) để quyết định.
Trong hạn 15 ngày, kể từ khi nhận
được các kết luận, kiến nghị của Ủy ban Thanh tra, đơn vị được thanh tra phải đề
ra biện pháp thực hiện cụ thể. Nếu không đồng ý với kiến nghị đó, cũng trong thời
hạn nói trên, phải kịp thời báo cáo cho Ủy ban Thanh tra thành phố biết để
trình lên Ủy ban Nhân dân thành phố quyết định.
d) Trong khi thanh tra, Chủ nhiệm
Ủy ban Thanh tra thành phố được quyền ra quyết định:
+ Tạm thời đình chỉ thi hành những
chủ trương, việc làm của đơn vị được thanh tra nếu thấy trái với các chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên hoặc của Ủy ban Nhân dân cấp đó và đang trực tiếp gây hoặc sắp
gây nên những thiệt hại nghiêm trọng về chính trị, kinh tế, đời sống cho Nhà nước,
cho tập thể và cho nhân dân.
+ Tạm thời đình chỉ công tác những
cán bộ, công nhân viên chức có hành động cản trở công tác thanh tra ở đơn vị.
+ Tạm thời đình chỉ thi hành quyết
định điều động, kỷ luật đối với những người đang làm việc với cơ quan thanh
tra, tạm thời đình chỉ thi hành quyết định điều động đối với người đang là đối
tượng thanh tra.
Đối với cán bộ Trưởng, Phó các
ngành, sở, các Chánh, Phó Chủ tịch quận, huyện, khi cần tạm đình chỉ công tác
người nào thì Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra thành phố phải báo cáo với Ủy ban Nhân
dân cùng cấp để quyết định. Trường hợp đối tượng thanh tra là các cơ sở kinh tế,
sự nghiệp trực thuộc bộ, ngành trung ương thì phải báo cáo với Ủy ban Nhân dân
thành phố hoặc Ủy ban Thanh tra của Chính phủ (nếu cuộc thanh tra này do Ủy ban
Thanh tra của Chính phủ ủy nhiệm) để quyết định.
Các quyết định tạm thời đình chỉ
nói trên phải đồng thời thông báo cho cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp và cơ
quan có quan hệ công tác trực tiếp biết. Đơn vị được thanh tra và các cơ quan
có quan hệ cần có biện pháp thích đáng, kịp thời, giúp cho sự hoạt động của đơn
vị và cuộc thanh tra tiến hành được tốt.
Điều 7. –
Thành phần Ủy ban Thanh tra thành phố gồm có 1 Chủ nhiệm và từ 3 đến 4 Phó Chủ
nhiệm.
Chủ nhiệm chịu trách nhiệm về
toàn bộ công tác thanh tra của thành phố trước Ủy ban Nhân dân cùng cấp và Ủy
ban Thanh tra cấp trên. Các Phó Chủ nhiệm giúp Chủ nhiệm trong việc lãnh đạo
chung, đồng thời được Chủ nhiệm ủy nhiệm chỉ đạo từng phần công tác của Ủy ban,
có thể kiêm làm trưởng phòng chức năng quan trọng của Ủy ban và được phân công
theo dõi chỉ đạo, kiểm tra công tác của một số tổ chức thanh tra quận, huyện,
ngành, sở. Trong các Phó Chủ nhiệm có 1 Phó Chủ nhiệm thường trực; Phó Chủ nhiệm
thường trực ngoài công việc được phân công phụ trách, có trách nhiệm giúp Chủ
nhiệm đôn đốc, điều hòa, phối hợp chung và giải quyết công việc hàng ngày trong
phạm vi Ủy ban Thanh tra đã quyết định; được Chỉ nhiệm ủy quyền giải quyết một
số việc của Ủy ban khi Chủ nhiệm vắng mặt.
Điều 8. – Tổ
chức bộ máy của Ủy ban Thanh tra thành phố gồm có:
a) 5 phòng Thanh tra chuyên
ngành
- Phòng Thanh tra công nghiệp,
- Phòng Thanh tra giao thông,
bưu điện và xây dựng cơ bản,
- Phòng Thanh tra nông, lâm, ngư
nghiệp,
- Phòng Thanh tra thương nghiệp,
- Phòng Thanh tra nội chính,
văn, xã.
Các phòng Thanh tra chuyên ngành
có trách nhiệm giúp Ủy ban Thanh tra thực hiện chức năng thanh tra việc thực hiệm
kế hoạch Nhà nước chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết và pháp luật của
Đảng, Chính phủ và của Ủy ban Nhân dân thành phố.
b) Phòng Thanh tra xét khiếu tố
Phòng này có trách nhiệm giúp Ủy
ban Thanh tra thành phố thực hiện 3 phần việc quan trọng: một là tiến hành
thanh tra việc xét giải quyết các vụ khiếu tố của nhân dân ở tất cả các ngành,
các cấp thuộc thành phố; hai là trực tiếp xét, giải quyết các vụ khiếu tố thuộc
trách nhiệm; ba là tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn các hoạt động và nghiệp vụ
thanh tra chuyên trách và các Ban Thanh tra nhân dân trong toàn thành phố.
c) Phòng Quản lý công tác thanh
tra nhân dân
Phòng này có trách nhiệm giúp Ủy
ban Thanh tra thành phố chỉ đạo, hướng dẫn và quản lý màng lưới tổ chức và hoạt
động của các Ban Thanh tra nhân dân ở các đơn vị cơ sở chánh quyền, kinh tế và
sự nghiệp trong toàn thành phố, nhằm tạo điều kiện tốt để nhân dân thực sự phát
huy quyền làm chủ tập thể, trực tiếp tham gia vào việc kiểm tra và giám sát mọi
hoạt động của xã hội, của chánh quyền.
d) Phòng Tổ chức và đào tạo cán
bộ
Phòng này có trách nhiệm giúp Ủy
ban Thanh tra thành phố xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về tổ chức và về
đào tạo bồi dưỡng lực lượng cán bộ cho toàn ngành thanh tra thành phố.
e) Văn phòng tổng hợp
Văn phòng tổng hợp có trách nhiệm
làm tham mưu giúp Ủy ban Thanh tra thành phố thực hiện chức năng chỉ đạo toàn bộ
hệ thống tổ chức thanh tra, công tác và nghiệp vụ thanh tra một cách toàn diện
về các mặt quản lý kinh tế, xã hội và đời sống, giúp Ủy ban Thanh tra chỉ đạo
công tác pháp chế, thi đua toàn ngành và quản lý công tác hành chánh quản trị
trong nội bộ cơ quan; làm báo sơ kết, tổng kết về công tác thanh tra, xét khiếu
tố.
Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra thành
phố sẽ quy định nhiệm vụ cụ thể, mối quan hệ công tác, chế độ, lề lối làm việc
cho văn phòng và từng phòng nêu trên, kể cả xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ
thể cho mỗi cán bộ.
Điều 9.
– Để bảo đảm chức năng, nhiệm vụ của ngành thanh tra
thành phố, bảo đảm phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị và công tác trọng tâm của
lãnh đạo trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội
của thành phố, Ủy ban Nhân dân thành phố quy định biên chế năm 1978 cho Ủy ban
Thanh tra thành phố là 80 (tám mươi) cán bộ, công nhân viên. Ủy ban Thanh tra
thành phố có trách nhiệm xây dựng kế hoạch biên chế hàng năm trình Ủy ban Nhân
dân thành phố xét duyệt.
B. ỦY BAN
THANH TRA QUẬN, HUYỆN
Điều 10. – Ủy
ban thanh tra quận, huyện có các trách nhiệm cụ thể sau đây:
a) Thanh tra việc thực hiện chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước của địa phương theo yêu cầu trọng tâm chỉ đạo từng kỳ của
Ủy ban Nhân dân quận, huyện; kiến nghị những biện pháp giải quyết cần thiết,
góp phần thúc đẩy hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước của đơn vị được thanh tra và
của địa phương.
b) Thanh tra việc chấp hành các
chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, pháp luật của Nhà nước, các chỉ
thị, nghị quyết của Ủy ban Nhân dân thành phố và của chính quyền địa phương,
chú trọng những vấn đề quản lý kinh tế và đời sống nhân dân. Qua đó giúp nơi được
thanh tra hiểu rõ và làm đúng các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, phát hiện
và đấu tranh chống những hiện tượng quan liêu, cửa quyền, tham ô, lãng phí, đồng
thời có những đề nghị sửa đổi, bổ sung cần thiết.
c) Hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở
các ngành, các đơn vị của quận, huyện về việc xét giải quyết các vụ khiếu tố của
nhân dân. Tích cực theo dõi nắm tình hình và chủ động mở các cuộc kiểm tra việc
xét giải quyết khiếu tố của các ngành, các đơn vị nói trên, nhằm từng bước đưa
công tác này vào nề nếp thường xuyên, có chất lượng và đúng chức năng của
ngành, góp phần thúc đẩy toàn bộ công tác xét giải quyết khiếu tố của ngành
thanh tra và các ngành khác không ngừng tiến lên. Đồng thời Ủy ban Thanh tra quận,
huyện cần đề cao trách nhiệm của mình trong việc trực tiếp xét giải quyết các vụ
khiếu tố của nhân dân thuộc phạm vi trách nhiệm của cấp mình, góp phần bảo đảm
quyền làm chủ tập thể và quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
d) Chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng
về tổ chức, công tác và nghiệp vụ cho các Ban Thanh tra nhân dân ở phường, xã
và các Ban Thanh tra nhân dân ở đơn vị cơ sở kinh tế và sự nghiệp thuộc địa
phương.
Điều 11. Ủy
ban Thanh tra quận, huyện có những quyền hạn sau:
a) Dựa theo phương hướng, nhiệm
vụ công tác được Ủy ban Nhân dân quận, huyện xét duyệt và Ủy ban Thanh tra
thành phố hướng dẫn, lập và tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch thanh tra,
xét khiếu tố và thanh tra việc xét khiếu tố. Những cuộc thanh tra hoặc xét khiếu
tố quan trọng, cần có sự phối hợp của nhiều ngành thì do Ủy ban Nhân dân quận,
huyện ra quyết định.
Triệu tập hoặc đề nghị Ủy ban
Nhân dân quận, huyện triệu tập hội nghị bàn về công tác thanh tra, xét khiếu tố,
cử đại diện tham gia dự các cuộc hội nghị có liên quan đến công tác thanh tra của
các ngành, các cấp ở địa phương.
b) Yêu cầu các đơn vị được thanh
tra hoặc có liên quan cử cán bộ tham gia các cuộc thanh tra; số cán bộ này chịu
sự chỉ đạo của Ủy ban Thanh tra quận, huyện trong thời gian tiến hành cuộc
thanh tra.
Yêu cầu các đơn vị được thanh
tra hoặc có liên quan đến công tác thanh tra cung cấp tài liệu, thuyết minh sự
việc, báo cáo tình hình cần thiết hoặc kết luận những vấn đề thuộc trách nhiệm
để phục vụ cho công tác thanh tra hoặc xét khiếu tố; gặp nhân chứng để xác minh
sự việc.
c) Sau mỗi cuộc thanh tra, xét
khiếu tố, ra văn bản nhận xét, kết luận về những việc làm đúng, sai, nếu rõ
nguyên nhân, trách nhiệm, kiến nghị những biện pháp sửa chữa và các hình thức
khen thưởng, kỷ luật cần thiết.
Khi cần kiến nghị sửa đổi, bổ
sung những chỉ thị, nghị quyết đã có của cấp trên và của chánh quyền địa
phương, hoặc kiến nghị kỷ luật các cán bộ, nhân viên không thuộc diện quản lý của
quận, huyện thì phải báo cáo với Ủy ban Nhân dân quận, huyện hoặc với Ủy ban
Thanh tra thành phố (nếu cuộc thanh tra này do Ủy ban Thanh tra thành phố ủy
nhiệm) để quyết định.
Trong hạn 15 ngày, kể từ khi nhận
được các kết luận, kiến nghị của Ủy ban Thanh tra, đơn vị được thanh tra phải đề
ra biện pháp thực hiện cụ thể. Nếu không đồng ý với kiến nghị đó, cũng trong thời
hạn nói trên, phải kịp thời báo cáo cho Ủy ban Thanh tra quận, huyện biết để
trình lên Ủy ban Nhân dân quận, huyện quyết định.
d) Trong khi tiến hành thanh tra
ở một đơn vị nhất định, nếu thấy đơn vị ấy có ra những quyết định gì không có lợi
cho cuộc thanh tra như quyết định điều động, quyết định kỷ luật đối với cán bộ,
nhân viên của đơn vị đó đang có nhiệm vụ tham gia công tác thanh tra với cơ
quan thanh tra, hoặc quyết định điều động cán bộ, nhân viên của đơn vị được
thanh tra là đối tượng của cuộc thanh tra, và Ủy ban Thanh tra quận, huyện xét
thấy cần thiết phải tạm đình chỉ thi hành một số hoặc tất cả quyết định đó, thì
nhất thiết Ủy ban Thanh tra quận, huyện phải báo cáo với Ủy ban Nhân dân cùng cấp
xét và quyết định.
Mặt khác, trong khi tiến hành
thanh tra, nếu Ủy ban Thanh tra quận, huyện thấy cần thiết cần tạm thời đình chỉ
công tác những cán bộ, công nhân viên chức nào thuộc đơn vị thanh tra có những
hành động cản trở cuộc thanh tra thì Ủy ban Thanh tra quận, huyện phải báo cáo
với Ủy ban Nhân dân cùng cấp xét và quyết định.
Điều 12. –
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, vai trò, vị trí và đặc điểm tình hình, nhiệm vụ
chính trị và khối lượng công việc thực tế của Ủy ban Thanh tra các quận, huyện,
Ủy ban Nhân dân thành phố quy định tổ chức bộ máy biên chế như sau:
- Thành phần Ủy ban Thanh tra quận,
huyện gồm có:
1 Chủ nhiệm và 1 Phó Chủ nhiệm,
nơi cần thiết có thể có 2 Phó Chủ nhiệm.
- Ủy ban thanh tra quận, huyện
không cần tổ chức ra các phòng, ban mà chỉ cần phân công một số cán bộ đảm nhiệm
từng phần việc như tổng hợp, thanh tra, thanh tra xét khiếu tố, trực tiếp xét
khiếu tố và hướng dẫn chỉ đạo tổ chức, bồi dưỡng hoạt động của các Ban Thanh
tra nhân dân trong địa phương. Tùy theo yêu cầu chỉ đạo từng thời gian mà tập
trung cán bộ để thực hiện nhiệm vụ.
- Về biên chế: Ủy ban Nhân dân
các quận, huyện căn cứ đặc điểm tình hình, nhiệm vụ chính trị, kinh tế và yêu cầu
công tác thanh tra mà xây dựng biên chế của Ủy ban Thanh tra quận, huyện trình Ủy
ban Nhân dân thành phố xét duyệt. Riêng năm 1978, Ủy ban Nhân dân thành phố quy
định biên chế cho mỗi Ủy ban Thanh tra quận, huyện không quá 11 cán bộ nhân
viên.
C. – BAN
THANH TRA CÁC SỞ, NGÀNH
Điều 13. –
Ban Thanh tra các sở, ngành có nhiệm vụ cụ thể như sau:
a) Thanh tra việc thực hiện kế
hoạch Nhà nước của các đơn vị trực thuộc sở, ngành theo yêu cầu trọng tâm chỉ đạo
của từng thời kỳ của thủ trưởng sở, ngành góp phần đề ra những biện pháp thiết
thực thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch.
b) Thanh tra việc chấp hành các
chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và của Ủy ban Nhân dân thành phố đề
ra cho ngành, sở và các chế độ, thể lệ của ngành, sở đã quy định. Qua đó kiến
nghị những biện pháp sửa chữa cần thiết, những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi, góp
phần bảo đảm chấp hành đúng đắn các chỉ thị, nghị quyết.
c) Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra
việc xét giải quyết các vụ khiếu tố ở các đơn vị trực thuộc ngành, sở; xét và đề
nghị các biện pháp giải quyết những vụ khiếu tố thuộc trách nhiệm của thủ trưởng
ngành, sở.
d) Giúp thủ trưởng ngành, sở thực
hiện chế độ kiểm tra của thủ trưởng; đôn đốc thực hiện chế độ đó ở các đơn vị
trực thuộc ngành, sở.
e) Giúp đỡ các đơn vị cơ sở của
ngành, sở trong việc tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn các Ban Thanh tra nhân dân
hoạt động, khi cần, can thiệp giải quyết những kiến nghị của Ban Thanh tra nhân
dân đưa lên.
Điều 14. –
Ban Thanh tra các ngành, sở có quyền hạn sau đây:
a) Căn cứ vào nhiệm vụ và yêu cầu
của công tác thanh tra, xét khiếu tố hàng năm và từng thời kỳ đã được thủ trưởng
xét duyệt và căn cứ vào chủ trương, phương hướng thanh tra chung của Ủy ban
Thanh tra thành phố, lập và tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch thanh tra;
quyết định cử những đoàn hoặc cán bộ tiến hành những cuộc thanh tra cần thiết.
b) Tham dự các hội nghị kiểm điểm
công tác từng thời kỳ, hoặc các hội nghị bàn về những vấn đề có liên quan đến
công tác thanh tra của các đơn vị trong ngành, sở và của lãnh đạo ngành, sở.
Triệu tập hoặc đề nghị thủ trưởng
triệu tập các cuộc hội nghị có liên quan đến công tác thanh tra; đề nghị thủ
trưởng trưng tập cán bộ của ngành để làm công tác thanh tra, số cán bộ này chịu
sự lãnh đạo của Ban Thanh tra trong suốt thời gian làm nhiệm vụ thanh tra.
c) Cử cán bộ nắm tình hình, gặp
gỡ các nhân chứng, nghiên cứu tài liệu của đơn vị được thanh tra, yêu cầu các
đơn vị, cán bộ có trách nhiệm cung cấp tài liệu, báo cáo tình hình, thuyết minh
sự việc cần thiết cho công tác thanh tra.
d) Sau mỗi cuộc thanh tra hoặc
xét một vụ khiếu tố, có văn bản kết luận đối với các đơn vị được thanh tra về
những vấn đề, sai, xác định nguyên nhân, trách nhiệm; kiến nghị những biện pháp
sửa chữa, khen thưởng, kỷ luật; yêu cầu đơn vị được thanh tra trả lời trong thời
hạn cần thiết; làm báo cáo trình thủ trưởng xét và ra quyết định, theo dõi, đôn
đốc việc thực hiện những quyết định đó.
e) Ban Thanh tra của ngành, sở nếu
thấy cần phải tạm thời đình chỉ thi hành một quyết định nào hoặc tạm thời đình
chỉ công tác người đó trong lúc thanh tra thì báo cáo với thủ trưởng ngành, sở
để quyết định.
Điều 15. –
Thành phần của Ban Thanh tra ở các sở, ngành gồm có một Trưởng ban, 1 Phó ban,
nơi nào cần thiết có thể có 2 Phó Ban:
Về cơ cấu bộ máy: Tổ chức bộ máy
Ban Thanh tra ở các sở, ngành sẽ tùy theo nhiệm vụ, tính chất công tác, khối lượng
công việc và điều kiện cán bộ của từng ngành, sở mà quy định, bố trí bộ máy cho
thật thích hợp.
Về biên chế cán bộ: Căn cứ vào vị
trí, đặc điểm, tình hình thành phố, tình hình nhân sự, đầu mối quản lý, tính chất
công việc chung và công việc thanh tra theo từng thời kỳ của ngành và điều kiện
cán bộ của từng ngành, sở mà quy định biên chế trên tinh thần tinh giản bộ máy,
tăng cường cán bộ có chất lượng cho Ban Thanh tra. Ủy ban Nhân dân thành phố
quy định biên chế năm 1978 cho Ban Thanh tra các sở, ngành theo 3 loại sau:
LOẠI 1. – Có thể bố trí cao nhất
là 13 cán bộ, nhân viên cho Ban Thanh tra các Sở: Giao thông vận tải, Công nghiệp,
Thương nghiệp và Nông nghiệp.
LOẠI 2. – Có thể bố trí cao nhất
là 11 cán bộ, nhân viên thanh tra cho các Sở: Xây dựng, Giáo dục, Y tế, Quản lý
nhà đất, Quản lý công trình công cộng, Ban Vận động hồi hương xây dựng vùng
kinh tế mới.
LOẠI 3. – Có thể bố trí cao nhất
là 9 cán bộ, nhân viên thanh tra cho các Sở: Thủy lợi, Thủy sản, Ngoại thương,
Thương binh xã hội và những ngành, sở khác còn lại, khi được Ủy ban Nhân dân
thành phố cho phép thành lập Ban Thanh tra.
Chương III
CÁC MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC
TRONG NGÀNH THANH TRA VÀ GIỮA NGÀNH THANH TRA VỚI CÁC CƠ QUAN CÓ LIÊN QUAN KHÁC
A. – QUAN HỆ
CÔNG TÁC TRONG NGÀNH THANH TRA
Điều 16. –
Đối với Ủy ban Thanh tra của Chính phủ:
- Ủy ban Thanh tra thành phố chịu
sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Ủy ban Nhân dân thành phố, đồng thời chịu
sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác thanh tra, thanh tra xét khiếu tố và thanh
tra nhân dân, công tác tổ chức và nghiệp vụ của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ.
- Ủy ban thanh tra thành phố căn
cứ vào yêu cầu chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân thành phố, yêu cầu nhiệm vụ công tác
thanh tra và căn cứ vào sự hướng dẫn của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ mà xây
dựng phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác thích hợp đáp ứng được yêu cầu
chính trị chung cả nước và riêng thành phố.
- Ủy ban Thanh tra thành phố hợp
tác và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các cuộc thanh tra do Ủy ban
Nhân dân của Chính phủ thực hiện ở các đơn vị thuộc phạm vi trách nhiệm và ở tại
thành phố.
- Ủy ban thanh tra thành phố bảo
đảm thực hiện chế độ báo cái định kỳ, bất thường, báo cáo sơ kết, tổng kết và
chế độ báo cáo thỉnh thị đối với Ủy ban Thanh tra của Chính phủ về những vấn đề
thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Đối với Ban Thanh tra các Bộ:
Ủy ban Thanh tra thành phố trong
quá trình thực hiện chức năng chỉ đạo, hướng dẫn của mình đối với các Ban Thanh
tra ngành, sở, khi cần thiết nên có sự bàn bạc nhất trí với Ban Thanh tra bộ,
nhằm tạo điều kiện cho Ban Thanh tra ngành, sở làm tốt nhiệm vụ. Trường hợp hai
bên có những vấn đề không nhất trí quan trọng thì mỗi bên báo cáo lên cấp lãnh
đạo của mình xét giải quyết, đồng thời báo cáo cho Ủy ban Thanh tra của Chính phủ
biết.
Ủy ban thanh tra thành phố cần
thực hiện sự phối hợp với Ban Thanh tra bộ trên một số mặt như: tùy từng cuộc
thanh tra, thông báo cho nhau biết chủ trương, kế hoạch thanh tra các ngành, sở;
giúp mỗi bên nắm thêm được tình hình, có sự phối hợp công tác, cùng nhau trao đổi,
bàn bạc những kết luận, kiến nghị trong các cuộc thanh tra, nhất là về những vấn
đề có liên quan đến sự chỉ đạo, quản lý của Ủy ban Nhân dân thành phố hoặc của
bộ; bàn giao lại cho nhau những vấn đề thuộc trách nhiệm của mỗi bên phải theo
dõi giải quyết khi kết thúc cuộc thanh tra.
Đối với Ban Thanh tra của các
đơn vị trực thuộc ngành trung ương đóng ở thành phố:
Ủy ban thanh tra thành phố không
có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức thanh tra ở các đơn vị trực thuộc
ngành trung ương đóng ở thành phố, nhưng có nhiệm vụ và quyền hạn thanh tra các
đơn vị đó.
Khi tiến hành cuộc thanh tra ở
các đơn vị nói trên, Ủy ban Thanh tra thành phố có quyền đề ra kế hoạch và phân
công, chỉ đạo các Ban Thanh tra chuyên trách ở đó thực hiện (dựa theo nhiệm vụ,
quyền hạn của chánh quyền địa phương đối với cơ sở đó do nghị định số 24-CP
ngày 2-2-1976 của Hội đồng Chính phủ và thông tư số 04/TT-TTr của Ủy ban Thanh
tra của Chính phủ đã quy định, hoặc theo sự ủy nhiệm của Ủy ban Thanh tra của
Chính phủ.
Điều 17. –
Quan hệ giữa Ủy ban Thanh tra thành phố với Ủy ban Thanh tra quận, huyện và Ban
Thanh tra ngành, sở:
Theo thông tư 04/TT-TTr của Ủy
ban Thanh tra của Chính phủ quy định thì Ủy ban Thanh tra thành phố có trách
nhiệm thay mặt Ủy ban Nhân dân cùng cấp thực hiện việc tổ chức, chỉ đạo và hướng
dẫn các hoạt động thanh tra chuyên trách và thanh tra nhân dân của các Ủy ban
Thanh tra quận, huyện và các Ban Thanh tra ở ngành, sở theo phương hướng nhiệm
vụ công tác của cấp ủy Đảng, chánh quyền địa phương và của Ủy ban Thanh tra của
Chính phủ.
Trong quá trình chỉ đạo, Ủy ban
Thanh tra thành phố có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn và kịp thời
phát hiện những việc làm tốt hoặc thiếu sót của các tổ chức thanh tra, những
khó khăn, lung túng đang gặp phải, để có sự uốn nắn, giúp đỡ khi cần thiết nhằm
thúc đẩy công tác chung của toàn ngành.
- Ủy ban thanh tra thành phố
theo định kỳ phổ biến cho các Ủy ban Thanh tra quận, huyện và các Ban Thanh tra
ngành, sở về phương hướng nhiệm vụ và nội dung công tác thanh tra của thành phố,
về yêu cầu và nội dung sơ kết, tổng kết công tác. Các tổ chức thanh tra quận,
huyện, ngành, sở căn cứ vào sự hướng dẫn đó, căn cứ vào nhiệm vụ công tác và
yêu cầu riêng của mỗi quận, huyện, ngành, sở mà xây dựng chương trình kế hoạch
công tác cho địa phương hoặc ngành, sở mình.
- Khi Ủy ban Thanh tra thành phố
tiến hành công tác thanh tra ở quận, huyện hoặc ngành, sở nào thì cơ quan thanh
tra ở đó cần tích cực hợp tác và tạo điều kiện cho cuộc thanh tra tiến hành thuận
lợi. Khi cần thiết, Ủy ban Thanh tra thành phố phân công và chỉ đạo các cơ quan
thanh tra nói trên thực hiện một phần việc trong kế hoạch thanh tra của mình.
- Ủy ban Thanh tra thành phố có
trách nhiệm phổ biến, hướng dẫn các tổ chức thanh tra quận, huyện, ngành, sở nắm
vững những quan điểm, nguyên tắc, phương châm, phương pháp trong công tác thanh
tra, trong việc xử lý các vụ khiếu tố.
- Ủy ban Thanh tra thành phố có
thể sửa đổi hoặc bãi bỏ các quyết định của các tổ chức thanh tra quận, huyện,
ngành, sở nếu thấy không phù hợp với những quy định chung của Chính phủ và Ủy
ban Nhân dân thành phố hoặc của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ. Đối với các kết
luận, kiến nghị của các tổ chức thanh tra nói trên, nếu thấy chưa thỏa đáng thì
Ủy ban Thanh tra thành phố có thể yêu cầu sửa đổi lại hoặc tự mình tổ chức phúc
tra để có kết luận, kiến nghị chính xác hơn.
B. – MỐI QUAN
HỆ VỚI CÁC CƠ QUAN CÓ LIÊN QUAN
Điều 18. –
Một số điểm khái quát mà các tổ chức thanh tra ở thành phố cần quán triệt và thực
hiện trong quan hệ với các cơ quan có liên quan.
a) Với các cơ quan kiểm sát, Tòa
án và Ủy ban Kiểm tra của Đảng
Các tổ chức thanh tra cần chú ý
đặt mối quan hệ phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan nói
trên, cùng nhau bàn bạc, kết luận và giải quyết những vấn đề quan trọng có liên
quan chung trên cơ sở chức năng của mỗi bên.
Trong các cuộc thanh tra, xét
khiếu tố, nếu có cán bộ, nhân viên Nhà nước vi phạm chính sách, chế độ, pháp luật
của Nhà nước thì cơ quan thanh tra có trách nhiệm kiến nghị những biện pháp giải
quyết với những cơ quan có liên quan để các cơ quan đó quyết định.
b) Với các đoàn thể nhân dân, cơ
quan thông tin, báo chí
Cơ quan thanh tra cần quan hệ chặt
chẽ với các đoàn thể nhân dân và cơ quan thông tin, báo chí để:
- Phối hợp tổ chức và động viên,
giáo dục mọi người tham gia các hoạt động kiểm tra, giám sát công việc của các
cơ quan Nhà nước.
- Có kế hoạch tuyên truyền, giải
thích sâu rộng trong nhân dân về mục đích, ý nghĩa của công tác thanh tra nói
chung, giới thiệu về một số hoạt động thanh tra, xét khiếu tố cụ thể, nếu thấy
cần thiết.
- Khi cần, được các tổ chức nói
trên thực sự phối hợp giúp đỡ (cung cấp tài liệu, tình hình, dư luận quần chúng
về sự hoạt động của các cơ quan Nhà nước…) để có thêm căn cứ lập chương trình
và thực hiện kế hoạch thanh tra.
c) Với các ngành quản lý chức
năng, các Ban kinh tế của Đảng
Các cơ quan thanh tra cần tranh
thủ sự giúp đỡ, phối hợp của các ngành này, tạo điều kiệm nắm vững được các chủ
trương và phương hướng nhiệm vụ công tác của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ
và để cùng nhau bàn bạc giải quyết tốt những vấn đề có liên quan trong các cuộc
thanh tra.
Điều 19.
– Việc bổ sung, sửa đổi Bản quy định này do Chủ nhiệm Ủy
ban Thanh tra thành phố đề nghị Ủy ban Nhân dân thành phố xét và quyết định.