BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
ỦY BAN KIỂM TRA
*
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
|
Số 324-QĐ/UBKTTW
|
Hà Nội, ngày 15
tháng 11 năm 2021
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN
HÀNH TÀI LIỆU ÔN THI NÂNG NGẠCH CÔNG CHỨC NGÀNH KIỂM TRA ĐẢNG NĂM 2021
- Căn cứ Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương khóa XIII;
- Căn cứ Nghị định số 138/2020/NĐ-CP , ngày
27/11/2020 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;
- Căn cứ Thông tư số 06/2020/TT-BNV , ngày
02/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quy chế tổ chức thi tuyển, xét tuyển
công chức, viên chức, thi nâng ngạch công chức, thi hoặc xét thăng hạng chức
danh nghề nghiệp viên chức; Nội quy thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức,
thi nâng ngạch công chức, thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức;
- Xét đề nghị của Tổ Biên tập sửa đổi, bổ sung
tài liệu ôn thi,
ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết
định này Tài liệu ôn thi nâng ngạch công chức Ngành kiểm tra Đảng năm 2021, sử
dụngta cho các kỳ thi nâng ngạch từ kiểm tra viên lên ngạch kiểm tra viên chính
và từ kiểm tra viên chính lên ngạch kiểm tra viên cao cấp.
Điều 2. Tài liệu ôn thi
nâng ngạch công chức là căn cứ để người dự thi nâng ngạch công chức ôn thi; Hội
đồng thi nâng ngạch chỉ đạo việc xây dựng câu hỏi thi, đề thi và đáp án sử dụng
trong các kỳ thi nâng ngạch công chức Ngành kiểm tra Đảng năm 2021.
Điều 3. Quyết định có hiệu
lực kể từ ngày ký. Ủy ban Kiểm tra các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Trung ương, các vụ, đơn vị thuộc Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Như Điều 3,
- Đồng chí Chủ nhiệm (để b/c),
- Các đồng chí Thành viên Ủy ban,
- Các đồng chí Thư ký Chủ nhiệm,
- Trang thông tin điện tử UBKTTW (để đăng tải),
- Lưu: VT, LT-CNTT, Vụ ĐT-BD (3b).
|
T/M ỦY BAN KIỂM
TRA
PHÓ CHỦ NHIỆM THƯỜNG TRỰC
Trần Văn Rón
|
TÀI LIỆU ÔN THI NÂNG NGẠCH CÔNG CHỨC NGÀNH KIỂM TRA ĐẢNG NĂM
2021
(DÙNG CHO CÁC KỲ THI NÂNG NGẠCH KIỂM TRA VIÊN CHÍNH, KIỂM TRA VIÊN CAO CẤP)
(kèm
theo Quyết định số 324-QĐ/UBKTTW, ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương)
MỤC LỤC
PHẦN A: DANH MỤC TÀI LIỆU ÔN
THI MÔN KIẾN THỨC CHUNG
PHẦN B: CÁC CHUYÊN ĐỀ ÔN THI
MÔN CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ
CHUYÊN ĐỀ 1: CÁC CẤP ỦY LÃNH
ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG ĐẢNG
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NHIỆM
VỤ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
1. Mục tiêu
2. Quan điểm
3. Nhiệm vụ
4. Điều kiện đảm bảo thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
II. CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT CỦA CẤP UỶ CÁC CẤP
1. Lãnh đạo công tác kiểm
tra, giám sát
2. Thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra
3. Thực hiện nhiệm vụ giám
sát
4. Thực hiện các nhiệm vụ
khác theo quy định
III. CÂU HỎI ÔN TẬP
CHUYÊN ĐỀ 2: KIỂM TRA TỔ CHỨC
ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM; GIẢI QUYẾT TỐ CÁO TỔ CHỨC ĐẢNG
VÀ ĐẢNG VIÊN; GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ KỶ LUẬT ĐẢNG
A. KIỂM TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP
DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Dấu hiệu vi phạm, khi có
dấu hiệu vi phạm
2. Phát hiện, xác định dấu
hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
3. Kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
II. Ý NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA KIỂM
TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
III. PHÁT HIỆN, XÁC ĐỊNH DẤU
HIỆU VI PHẠM, QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM ĐỐI VỚI TỔ CHỨC ĐẢNG
CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN
1. Nguyên tắc phát hiện, xác
định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
2. Các tổ chức, cá nhân phát
hiện dấu hiệu vi phạm, các tổ chức đảng xác định, quyết định kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm
3. Phát hiện dấu hiệu vi phạm
4. Xác định dấu hiệu vi phạm
5. Quyết định kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm
6. Trách nhiệm, quyền hạn ủy
ban kiểm tra, thường trực ủy ban kiểm tra, các đơn vị thuộc cơ quan ủy ban kiểm
tra, thành viên ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra trong phát hiện, xác định,
quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
IV- CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG, NỘI
DUNG KIỂM TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI, ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
1. Kiểm tra tổ chức đảng
2. Kiểm tra đảng viên
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
1. Trong chuẩn bị tiến hành
kiểm tra
2. Trong quá trình tiến hành
kiểm tra
B. GIẢI QUYẾT TỐ CÁO ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Tố cáo trong Đảng
2. Người tố cáo, đối tượng bị
tố cáo
3. Đơn tố cáo
4. Giải quyết tố cáo trong Đảng
II. Ý NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA VIỆC
TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
III. THẨM QUYỀN, NGUYÊN TẮC
GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
IV. CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG, NỘI
DUNG TỐ CÁO PHẢI GIẢI QUYẾT
1. Chủ thể giải quyết tố cáo
2. Đối tượng, nội dung tố
cáo phải giải quyết
V. TRÁCH NHIỆM VÀ THẨM QUYỀN
CỦA CHỦ THỂ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1. Trách nhiệm
2. Thẩm quyền
VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
1. Những trường hợp tố cáo
không xem xét, giải quyết
2. Nhận và chuyển đơn tố cáo
3. Phối hợp giải quyết tố
cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý
4. Trong quá trình tiến hành
giải quyết
5. Những hành vi bị nghiêm cấm
trong tố cáo và giải quyết tố cáo
C. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI KỶ
LUẬT ĐẢNG
1. Khái niệm
2.Ý nghĩa, tác dụng của việc
giải quyết khiếu nại
3. Thẩm quyền, trách nhiệm,
nguyên tắc khiếu nại và giải quyết khiếu nại
4. Phạm vi, đối tượng,
phương pháp giải quyết khiếu nại
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
CHUYÊN ĐỀ 3: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
BẢN VỀ THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Một số khái niệm cơ bản
2. Phân biệt thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác điều tra hình sự
và công tác thanh tra của Nhà nước
II. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG
VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
1. Vị trí của thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra, giám sát
2. Ý nghĩa, tác dụng của hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
3. Đặc điểm của thẩm tra,
xác minh
III. NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP THẨM TRA, XÁC MINH
1. Nội dung thẩm tra, xác
minh
2. Đối tượng thẩm tra, xác
minh
3. Phương pháp tiến hành thẩm
tra, xác minh
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN NẮM VỮNG
KHI TIẾN HÀNH THẨM TRA, XÁC MINH
V. CÂU HỎI ÔN TẬP
CHUYÊN ĐỀ 4: KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG
VÀ VIỆC THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG
I. KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG
1. Khái niệm kỷ luật của Đảng
2. Mục đích, ý nghĩa kỷ luật
của Đảng
3. Tính chất kỷ luật của Đảng
4. Nội dung kỷ luật của Đảng
II. VIỆC THI HÀNH KỶ LUẬT
TRONG ĐẢNG
1. Khái niệm thi hành kỷ luật
2. Ý nghĩa, tác dụng
3. Phương hướng thi hành kỷ
luật trong Đảng
4. Phương châm thi hành kỷ
luật đảng
5. Hình thức kỷ luật của Đảng
6. Nguyên tắc, trình tự xem
xét, cách thức bỏ phiếu, một số trường hợp cụ thể trong thi hành kỷ luật trong
Đảng và đình chỉ sinh hoạt đảng
7. Cách tiến hành một vụ kỷ
luật tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm
8. Thẩm quyền thi hành kỷ luật
đảng
III. CÂU HỎI ÔN TẬP
CHUYÊN ĐỀ 5: KIỂM TRA TỔ CHỨC
ĐẢNG CẤP DƯỚI THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KIỂM TRA, GIÁM SÁT
I. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG
VÀ SỰ CẦN THIẾT
1. Khái niệm
2. Ý nghĩa, tác dụng
3. Sự cần thiết phải tăng cường
công tác kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
II. NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG
1. Nội dung
2. Đối tượng
III. CÁCH TIẾN HÀNH
1. Bước chuẩn bị
2. Bước tiến hành
3. Bước kết thúc
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
V. CÂU HỎI ÔN TẬP
CHUYÊN ĐỀ 6: ỦY BAN KIỂM TRA
CÁC CẤP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁM SÁT TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN
I. NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG GIÁM
SÁT
1. Nội dung giám sát
2. Đối tượng giám sát
II. CÁCH TIẾN HÀNH GIÁM SÁT
1. Giám sát thường xuyên
2. Giám sát chuyên đề
III- THẨM QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA ỦY BAN KIỂM TRA, ĐOÀN GIÁM SÁT, CÁN BỘ KIỂM TRA; TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN CỦA ĐỐI
TƯỢNG GIÁM SÁT VÀ CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN CÓ LIÊN QUAN
1. Thẩm quyền và trách nhiệm
của uỷ ban kiểm tra, đoàn giám sát, cán
bộ kiểm tra
2. Trách nhiệm và quyền của
đối tượng giám sát
3. Trách nhiệm và quyền của
tổ chức, cá nhân có liên quan
IV. CÂU HỎI ÔN TẬP
PHẦN A: DANH MỤC TÀI LIỆU ÔN THI MÔN KIẾN THỨC CHUNG
1. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 6 ngày
28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013).
2. Luật Cán bộ, công chức năm
2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức, viên chức
năm 2019 (phần về công chức).
3. Luật Phòng, chống tham nhũng
năm 2018.
4. Nghị định số 112/2020/NĐ-CP
ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
5. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam.
6. Quy định số 24-QĐ/TW, ngày 30/7/2021
của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng.
7. Quy định số 22-QĐ/TW, ngày
28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
của Đảng.
8. Quy định số 37-QĐ/TW, ngày
25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
9. Quy định số 205-QĐ/TW, ngày
23/09/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
và chống chạy chức, chạy quyền.
10. Quy định số 195-QĐ/TW, ngày
18/06/2019 của Ban Bí thư về chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với ủy
ban kiểm tra cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
11. Quy định số 179-QĐ/TW, ngày
25/02/2019 của Bộ Chính trị về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ.
12. Quy định số 08-QĐi/TW, ngày
25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp
hành Trung ương.
13. Quy định số 102-QĐ/TW, ngày
15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
14. Quy định số 07-QĐi/TW, ngày
28/08/2018 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm.
15.Quy định số 01-QĐi/TW, ngày
10/05/2018 của Bộ Chính trị về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra
trong công tác phòng, chống tham nhũng.
16. Quy định số 86-QĐ/TW, ngày
01/06/2017 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng.
17. Quy định số 66-QĐ/TW, ngày
06/02/2017 của Ban Bí thư về thể loại, thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản
của Đảng.
18. Quyết định số 388-QĐ/KTTW,
ngày 19/6/2007 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương ban hành Quy định tiêu chuẩn, chức
danh ngạch Kiểm tra Đảng.
PHẦN B: CÁC CHUYÊN ĐỀ ÔN THI MÔN CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ
CHUYÊN ĐỀ 1: CÁC CẤP ỦY LÃNH ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM
VỤ KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG ĐẢNG
I. MỤC
TIÊU, QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM
TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
1. Mục
tiêu
- Các cấp ủy lãnh đạo và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng;
phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của cán bộ, đảng viên; bảo vệ quan điểm, đường
lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân của đảng
cầm quyền, kiểm soát chặt chẽ quyền lực, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng,
các nghị quyết của Trung ương và của các cấp uỷ đảng.
- Tạo sự chuyển biến tích cực về
tư tưởng, nhận thức và hành động trong Đảng đối với công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật của Đảng, trước hết là trong cấp uỷ, đặc biệt là người đứng đầu cấp
uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội các cấp; từng bước hoàn thiện quan điểm, nội dung, phương pháp, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới.
- Kịp thời đánh giá đúng ưu điểm
của cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, bảo vệ cái đúng, bảo vệ điều
tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích
chung; chủ động phát hiện sớm, làm rõ thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc
phục và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phục vụ việc tổng kết thực tiễn, nhân rộng
những nhân tố mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục
bộ, bản vị, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”
và “bệnh thành tích”.
2. Quan điểm
- Kiểm tra, giám sát là những
chức năng lãnh đạo của Đảng, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là
nhiệm vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành. Công
tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận
trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác Đảng; đề cao trách
nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám
sát. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và giám
sát của nhân dân.
- Công tác kiểm tra, giám sát
phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả,
góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
- Thực hiện đồng bộ giữa công
tác kiểm tra và công tác giám sát; giám sát phải “mở rộng", kiểm tra phải
có “trọng tâm, trọng điểm" để chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát
hiện những nhân tố mới để phát huy; những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm để khắc
phục ngay từ lúc mới manh nha, chớm nở.
- Công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật của Đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là cơ bản, chủ
yếu, chống phải hết sức quyết liệt; khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải
xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời để răn đe và giáo dục.
3. Nhiệm
vụ
- Cấp uỷ các cấp tăng cường
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao chất lượng nghiên cứu, quán triệt
các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên
nắm vững và tự giác chấp hành; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng. Cấp uỷ các cấp cần
tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn xảy ra vi phạm hoặc không để tái phạm, góp phần thực hiện có hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và trong cả hệ thống chính trị. Chú trọng
kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn đạo đức, lối sống, không để
người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Tăng cường kiểm tra, giám
sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước,
các đơn vị kinh tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm. Tập trung kiểm tra, giám
sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng về các nội dung, lĩnh vực sau:
+ Lĩnh vực tư tưởng chính trị,
quản lý báo chí: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng,
việc thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong
công tác tư tưởng chính trị nói chung và hoạt động báo chí nói riêng.
+ Về chấp hành các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng: Kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chấp hành quy chế làm việc,
chế độ công tác; thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; về mối
quan hệ giữa cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên với quần chúng; việc giáo dục,
rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
+ Lĩnh vực kinh tế - tài chính:
Kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí
trong các khâu cấp và sử dụng nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách nhà nước, vốn
ODA, tài trợ của nước ngoài; trong xây dựng cơ bản, mua sắm, quản lý tài sản
công, trang thiết bị; quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, công
sản; triển khai thực hiện các dự án trọng điểm.
+ Lĩnh vực hành chính, tư pháp:
Kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành
chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính trong các hoạt động cấp phép đầu tư,
sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những
vụ án nghiêm trọng, tham nhũng, gây bức xúc trong dư luận.
+ Trong công tác tổ chức và cán
bộ: Kiểm tra, giám sát về công tác tuyển dụng, tiếp nhận, quy hoạch, điều động,
luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, nâng ngạch, nhận xét, đánh giá, bố
trí, sử dụng, giới thiệu ứng cử, bầu cử, khen thưởng, kỷ luật cán bộ và thực hiện
chính sách cán bộ; về phẩm chất đạo đức, lối sống và thực hiện chức trách, nhiệm
vụ của cán bộ, đảng viên; việc Học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; về nội dung và chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy, tổ
chức đảng.
+ Kiểm tra, giám sát việc lãnh
đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân dân; việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng gắn với vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính
trị và của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 3 khoá X, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một
số cấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"; Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, gắn
với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Đổi mới phương pháp kiểm tra,
giám sát của Đảng theo hướng đồng bộ, nghiêm minh, có hiệu lực, hiệu quả. Kết hợp
giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
- Tăng thẩm quyền kiểm tra,
giám sát, thi hành kỷ luật đảng cho uỷ ban kiểm tra. Củng cố, kiện toàn uỷ ban
kiểm tra, tổ chức, bộ máy và cán bộ cơ quan uỷ ban kiểm tra đủ số lượng, bảo đảm
chất lượng tương xứng, ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra các cấp. Có
chế độ, chính sách và cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc đối với cán bộ
kiểm tra.
4. Điều kiện
đảm bảo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Thứ nhất, Cấp ủy, tổ
chức đảng, nhất là các đồng chí bí thư, thường trực cấp ủy phải có bản lĩnh
chính trị và có nhận thức đúng về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm
tra, giám sát từ đó chú trọng quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ này.
- Thứ hai, Phải bảo đảm
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cấp trên đối với cấp
uỷ, tổ chức đảng cấp dưới; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm
tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra cấp dưới trong thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
- Thứ ba, cấp uỷ các cấp
chủ động xây dựng, ban hành và chỉ đạo thực hiện quy chế phối hợp giữa ủy ban
kiểm tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ và các cơ quan liên
quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng.
- Thứ tư, các cấp ủy đảng
cần quan tâm kiện toàn uỷ ban kiểm tra, xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban
kiểm tra, bố trí cán bộ đủ số lượng, bảo đảm chất lượng và điều kiện làm việc
nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
- Thứ năm, các cấp uỷ phải
quan tâm xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình, kế hoạch kiểm
tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ.
II. CÔNG
TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA CẤP UỶ CÁC CẤP
Cấp uỷ đảng là cơ quan lãnh đạo
giữa hai kỳ đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên và ban thường vụ cấp uỷ là
cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ họp ban chấp hành có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng
viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
1. Lãnh đạo
công tác kiểm tra, giám sát
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, ban thường vụ cấp uỷ các cấp:
a) Triển khai, quán triệt Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận,
hướng dẫn của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và cấp mình về công tác kiểm tra, giám
sát.
b) Lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra,
giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành pháp luật của Nhà nước.
c) Xây dựng và chỉ đạo các cơ
quan tham mưu, giúp việc cấp uỷ cùng cấp và cấp uỷ cấp dưới xây dựng phương hướng,
nhiệm vụ; phân công cấp uỷ viên, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ
cùng cấp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Chỉ đạo, đôn đốc cấp uỷ cấp dưới
thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát.
d) Ban hành các văn bản theo thẩm
quyền để các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng và để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân tham gia
giám sát, phản biện.
đ) Ban hành và chỉ đạo thực hiện
các quy định phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc
của cấp uỷ; giữa các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ với ban cán sự đảng,
đảng đoàn hoặc các cơ quan liên quan.
e) Nghe báo cáo và chỉ đạo việc
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; giải quyết kiến nghị của
tổ chức đảng cấp dưới; định kỳ sơ kết, tổng kết về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng.
g) Chỉ đạo về tổ chức, hoạt động
của uỷ ban kiểm tra, cơ quan uỷ ban kiểm tra, về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm
tra.
h) Chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
i) Đề xuất với cấp có thẩm quyền
về những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành các văn bản về công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng.
2. Thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra
Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra việc thực hiện Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế,
kết luận của Đảng, của cấp uỷ cấp trên, ban thường vụ cấp uỷ cấp trên và của cấp
mình; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước thuộc
lĩnh vực, địa bàn được phân công phụ trách để có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ,
sâu sát với thực tế. Xác định rõ nội dung, đối tượng, thời gian, phương pháp tiến
hành, tổ chức lực lượng để kiểm tra hoặc phân công cụ thể cho từng cấp uỷ viên
và các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cấp mình tiến hành kiểm tra.
Để việc xây dựng chương trình,
kế hoạch kiểm tra bảo đảm sát hợp, có tính khả thi, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
phải căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra
của cấp ủy cấp trên, mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
công tác xây dựng Đảng và tình hình thực tế của đảng bộ trong từng thời gian.
2.1. Nội dung kiểm tra
a) Đối với tổ chức đảng
- Việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Việc chấp hành các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ, quy chế làm việc, chế độ
công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực
hành tiết kiệm; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; quản lý, rèn luyện phẩm chất,
đạo đức, lối sống của đảng viên.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
- Việc tuyển dụng, tiếp nhận,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, nâng
ngạch, bố trí, sử dụng, giới thiệu ứng cử, bầu cử, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,
thực hiện chính sách cán bộ.
b) Đối với đảng viên
Tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn
cấp ủy viên và việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính
trị, công tác xây dựng Đảng và thực tế của đảng bộ trong từng thời gian mà cấp
uỷ, ban thường vụ cấp uỷ xác định và quyết định nội dung kiểm tra cho phù hợp.
2.2. Đối tượng kiểm tra
- Đối với tổ chức đảng: Tổ chức
đảng thuộc phạm vi quản lý, trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp. Tập
trung kiểm tra các tổ chức đảng ở những lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, phức tạp,
dễ phát sinh vi phạm. Khi cần thiết thì kiểm tra cách cấp tổ chức đảng cấp
dưới.
- Đối với đảng viên: Đảng viên
thuộc phạm vi quản lý, trước hết là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
cấp uỷ các cấp quản lý và cán bộ giữ cương vị chủ chốt hoặc được giao các nhiệm
vụ quan trọng.
2.3. Thẩm quyền và trách
nhiệm
- Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
các cấp căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng và tình hình
thực tế để xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, xác định rõ nội dung, đối
tượng, thời gian, phương pháp tiến hành, tổ chức thành phần đoàn kiểm tra.
- Yêu cầu các tổ chức đảng và đảng
viên có liên quan báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu theo nội dung kiểm tra
và phải giữ bí mật thông tin, tài liệu.
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp uỷ
trực tiếp kiểm tra hoặc giao uỷ ban kiểm tra tiến hành kiểm tra khi phát hiện
có dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên; xem xét, xử lý theo thẩm quyền
đối với các vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật; quyết định bãi bỏ theo thẩm quyền
hoặc yêu cầu, kiến nghị tổ chức đảng, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ, thu hồi các văn bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền
giám định chuyên môn, kỹ thuật liên quan đến nội dung kiểm tra.
Chi bộ xây dựng kế hoạch và tiến
hành kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Tập
trung kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của chi bộ, nhiệm vụ do chi bộ phân
công và quy định về trách nhiệm nêu gương, những điều đảng viên không được làm.
3. Thực
hiện nhiệm vụ giám sát
Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện giám sát tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của cấp mình. Xác định rõ
nội dung, đối tượng, phương pháp tiến hành, tổ chức lực lượng, phân công cấp uỷ
viên, uỷ ban kiểm tra và các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ thực hiện
nhiệm vụ giám sát.
Để việc xây dựng chương trình,
kế hoạch giám sát bảo đảm sát hợp, có tính khả thi, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
phải căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch công tác giám sát
của cấp uỷ cấp trên, mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
công tác xây dựng Đảng và tình hình thực tế của đảng bộ trong từng thời gian.
3.1. Nội dung giám sát
a) Đối với tổ chức đảng: Như
nội dung kiểm tra của cấp uỷ đã nên tại Điểm a, Khoản 2.1
nêu trên.
b) Đối với đảng viên: Tiêu
chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
3.2. Đối tượng giám sát
Tổ chức đảng và đảng viên thuộc
phạm vi quản lý.
3.3. Thẩm quyền và trách
nhiệm giám sát
a) Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
các cấp căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng và tình hình
thực tế để xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát, xác định rõ nội dung, đối
tượng, thời gian, phương pháp tiến hành, tổ chức thành phần đoàn giám sát.
b) Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
phân công cấp uỷ viên, uỷ ban kiểm tra và các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
uỷ thực hiện việc giám sát.
c) Cấp uỷ viên khi thực hiện
nhiệm vụ giám sát được yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan báo cáo, cung
cấp thông tin, tài liệu, văn bản theo nội dung giám sát và chịu trách nhiệm về
các nội dung, thông tin, tài liệu giám sát; có trách nhiệm báo cáo kết quả giám
sát bằng văn bản cho ban thường vụ hoặc cho cấp uỷ.
d) Qua giám sát, cấp uỷ, ban
thường vụ cấp uỷ nhận xét, đánh giá về ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân; rút
kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, về tổ chức thực hiện; bổ sung, sửa đổi những
vấn đề cần thiết; cử cấp uỷ viên trực tiếp chỉ đạo, giám sát tổ chức đảng cấp
dưới, đảng viên sửa chữa, khắc phục yếu kém, khuyết điểm, vi phạm.
đ) Nếu phát hiện tổ chức đảng hoặc
đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì kiểm tra hoặc giao uỷ ban kiểm tra tiến hành
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
e) Nếu phát hiện đối tượng giám
sát không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc ban hành các văn bản trái quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì quyết định bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc yêu
cầu, kiến nghị tổ chức đảng, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ,
thu hồi các văn bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3.4. Hình thức giám sát
a) Giám sát thường xuyên
- Thông báo cho đối tượng giám
sát biết về thành viên của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp
việc của cấp uỷ hoặc cán bộ được giao thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Đầu nhiệm kỳ hoặc khi có sự
thay đổi, chủ thể giám sát phải thông báo bằng văn bản việc phân công cấp ủy
viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy hoặc cán bộ kiểm tra theo dõi địa bàn, lĩnh
vực thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên cho đối tượng giám sát.
- Thực hiện giám sát thường
xuyên bằng phương pháp giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp:
+ Giám sát trực tiếp: Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; cấp ủy các cấp, ban thường vụ cấp ủy
từ cấp cơ sở trở lên giám sát trực tiếp bằng cách:
* Thực hiện đối thoại, chất vấn
tại các kỳ hội nghị của cấp ủy.
* Nghe tổ chức đảng cấp dưới trực
tiếp báo cáo.
* Qua sinh hoạt kiểm điểm, tự
phê bình và phê bình của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ cấp ủy các cấp.
* Cử thành viên cấp mình dự các
cuộc họp, hội nghị của đối tượng giám sát.
* Các đồng chí Ủy viện Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, ủy viên ban thường vụ cấp ủy từ cấp cơ sở trở lên gặp
gỡ, trao đổi, góp ý với đối tượng giám sát.
+ Giám sát gián tiếp bằng cách:
* Xem xét báo cáo hoạt động của
tổ chức đảng cấp dưới giữ hai kỳ hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy.
* Nghiên cứu, xem xét các văn bản
báo cáo; thông báo kết luận về các cuộc kiểm tra, thông báo về kết quả giám
sát; kết quả tự phê bình và phê bình, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao của
cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao.
* Ý kiến trao đổi, phản ánh, kiến
nghị, báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra, giám sát của các tổ chức nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế; phản ánh của các
phương tiện thông tin đại chúng.
* Xem xét đơn tố cáo của đảng
viên và quần chúng, khiếu nại, phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân đối với
tổ chức đảng, đảng viên.
b) Giám sát chuyên đề
- Xây dựng chương trình, kế hoạch
giám sát hằng năm, kế hoạch giám sát đột xuất và thông báo cho đối tượng giám
sát.
Trong chương trình, kế hoạch
giám sát, chủ thể giám sát xác định rõ nội dung, đối tượng, phương pháp, tiến
hành giám sát, tổ chức lực lượng, phân công tổ chức cá nhân thực hiện.
- Thành lập đoàn giám sát hoặc
tổ giám sát (gọi chung là đoàn giám sát); ban hành kế hoạch giám sát cụ thể đối
với tổ chức đảng hoặc đảng viên.
+ Kế hoạch giám sát cụ thể đối
với tổ chức đảng hoặc đảng viên phải nêu rõ nội dung, đối tượng giám sát,
phương pháp, mốc thời điểm, thời gian giám sát. Thời gian giám sát được tính từ
ngày chủ thể giám sát nhận được báo cáo theo gợi ý giám sát của đối tượng giám
sát. Thời gian giám sát đối với cấp Trung ương không quá 45 ngày làm việc; cấp
tỉnh, thành và tương đương không quá 30 ngày làm việc; cấp huyện, quận và tương
đương không quá 25 ngày làm việc; cấp cơ sở không quá 20 ngày làm việc. Trường
hợp đặc biệt, chủ thể giám sát có thể quyết định gia hạn thời gian giám sát
nhưng không quá 1/3 thời gian giám sát đối với từng cấp theo quy định.
+ Chủ thể giám sát thông báo
quyết định, kế hoạch giám sát chuyên đề cho đối tượng giám sát biết trong vòng
5 ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định giám sát.
- Triển khai quyết định, kế hoạch
giám sát, yêu cầu đối tượng giám sát báo cáo bằng văn bản và cung cấp thông
tin, tài liệu, văn bản liên quan đến nội dung giám sát.
- Đoàn giám sát nghiên cứu báo
cáo, tài liệu; làm việc với các tổ chức, cá nhân có liên quan. Khi cần thiết
thì thực hiện thẩm tra, xác minh (nếu đoàn giám sát nhận thấy còn có nội dung
giám sát chưa rõ, chưa đủ cơ sở để xem xét, đánh giá thì trưởng đoàn giám sát
quyết định thẩm tra, xác minh).
- Chuẩn bị dự thảo báo cáo kết
quả giám sát.
- Chủ thể giám sát yêu cầu tổ
chức đảng được giám sát hoặc tổ chức đảng có đảng viên được giám sát tổ chức hội
nghị để đối tượng giám sát báo cáo, đoàn giám sát trình bày dự thảo báo cáo kết
quả giám sát; hội nghị thảo luận.
- Thông báo kết quả giám sát bằng
văn bản đến tổ chức đảng, đảng viên được giám sát và tổ chức, cá nhân có liên
quan.
+ Đại diện chủ thể giám sát
thông báo kết quả giám sát.
+ Nếu đối tượng giám sát có dấu
hiệu vi phạm thì chủ thể giám sát xem xét, quyết định kiểm tra theo thẩm quyền
hoặc đề nghị ủy ban kiểm tra tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Theo dõi, đôn đốc đối tượng
giám sát thực hiện thông báo kết quả giám sát.
- Đoàn giám sát họp rút kinh
nghiệm và nộp lưu trữ hồ sơ giám sát.
3.5. Xử lý kết quả giám
sát
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư; cấp uỷ các cấp, ban thường vụ cấp uỷ từ cấp cơ sở trở
lên:
- Kịp thời nhắc nhở, lưu ý, cảnh
báo bằng các hình thức thích hợp theo thẩm quyền với đối tượng giám sát về những
vấn đề cần thiết.
+ Chủ thể giám sát gửi văn bản
cho tổ chức đảng, đảng viên được giám sát để lưu ý, nhắc nhở, cảnh báo hoặc yêu
cầu thực hiện những vấn đề cần thiết.
+ Cấp ủy viên, thành viên ủy
ban kiểm tra, đảng viên được chủ thể giám sát phân công phụ trách, theo dõi
lĩnh vực, địa bàn được gặp, trao đổi với đại diện tổ chức đảng hoặc đảng viên
được giám sát.
- Nhận xét, đánh giá kết quả
giám sát; xem xét trách nhiệm của đối tượng giám sát; xử lý theo thẩm quyền hoặc
đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý.
- Yêu cầu đối tượng giám sát chấn
chỉnh, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm và khắc phục hậu quả (nếu có).
- Đề ra hoặc điều chỉnh các chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chức
trách được giao.
- Yêu cầu tổ chức đảng, đảng
viên có liên quan chỉ đạo đối tượng giám sát chấp hành thông báo kết quả giám
sát.
- Qua giám sát, quyết định kiểm
tra chấp hành hoặc yêu cầu uỷ ban kiểm tra kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Trực tiếp thực hiện hoặc chỉ
đạo tuyên truyền, thông báo kết quả hoạt động giám sát theo quy định của Đảng.
4. Thực
hiện các nhiệm vụ khác theo quy định
4.1. Thi hành kỷ luật trong Đảng,
giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, đình chỉ sinh hoạt đảng của
đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên và đình chỉ hoạt động của
tổ chức đảng theo thẩm quyền.
4.2. Kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên ở lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, quan trọng
hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành.
III. CÂU
HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Đồng chí hãy nêu
nội dung lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng các cấp. Liên hệ
việc thực hiện nội dung này ở cấp ủy địa phương, đơn vị đồng chí?
Câu 2: Đồng chí hãy nêu
hình thức giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề. Liên hệ việc thực
hiện nhiệm vụ này ở cấp ủy nơi đồng chí công tác?
Câu 3: Đồng chí hãy nêu
những điều kiện để đảm bảo thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Liên hệ với
việc thực hiện của cấp ủy đảng ở địa phương, đơn vị đồng chí?
Câu 4: Nêu trách nhiệm
và quyền của chủ thể giám sát. Việc thực hiện trách nhiệm và quyền của chủ thể
giám sát ở địa phương, đơn vị đồng chí có những thuận lợi, khó khăn gì và giải
pháp khắc phục?
CHUYÊN ĐỀ 2: KIỂM TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN
KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM; GIẢI QUYẾT TỐ CÁO TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN; GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI VỀ KỶ LUẬT ĐẢNG
A. KIỂM
TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm của uỷ ban kiểm tra
các cấp được quy định tại Điều 32, Điều lệ Đảng; việc thực
hiện tốt nhiệm vụ này có vị trí rất quan trọng đối với uỷ ban kiểm tra, cán bộ
kiểm tra các cấp và cán bộ, đảng viên.
I. MỘT SỐ
KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Dấu hiệu vi phạm, khi có
dấu hiệu vi phạm
a) Dấu hiệu vi phạm của tổ chức
đảng hoặc đảng viên là những hiện tượng, biểu hiện qua những thông tin, tài liệu,
hiện vật cho thấy tổ chức đảng hoặc đảng viên không tuân theo, không làm hoặc
làm trái với Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy chế,
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
b) Khi có dấu hiệu vi phạm của
tổ chức đảng, đảng viên là khi có những thông tin, tài liệu, phản ánh, đối chiếu
cho thấy tổ chức đảng hoặc đảng viên không tuân theo, không làm hoặc làm trái với
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy chế, quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Phát hiện, xác định dấu
hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
a) Phát hiện dấu hiệu vi phạm của
tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên là việc tổ chức, cá nhân thông qua công tác nắm
tình hình việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và bằng nhận
thức, trách nhiệm của mình tiến hành nhận diện, phân tích, khoanh vùng tìm ra
những thông tin, tài liệu, hiện vật cho thấy tổ chức đảng và đảng viên đó không
tuân theo, không làm hoặc làm trái một hoặc một số điều quy định của Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
b) Xác định dấu hiệu vi phạm của
tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên là việc tổ chức đảng có thẩm quyền căn cứ chức
năng, nhiệm vụ, quy định của Đảng về phân cấp quản lý cán bộ, các thông tin,
tài liệu phản ảnh về dấu hiệu vi phạm đã thu thập, phát hiện được, thông qua
các phương pháp nghiệp vụ kiểm tra để phân tích, sàng lọc, đánh giá, lựa chọn,
xác định cụ thể, chính xác về đối tượng, nội dung có dấu hiệu vi phạm, xem xét,
quyết định việc kiểm tra.
c) Quyết định kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên là việc tổ chức đảng có
thẩm quyền căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, các quy định của Đảng, đề nghị
của cán bộ kiểm tra hoặc đơn vị thuộc cơ quan ủy ban kiểm tra để ban hành quyết
định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
3. Kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
khi có dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra khi tổ chức
đảng có biểu hiện không tuân theo, không làm hoặc làm trái quy định để xem xét,
đánh giá, kết luận có hay không có vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm là việc tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra khi đảng viên có biểu
hiện không tuân theo, không làm hoặc làm trái quy định để xem xét, đánh giá, kết
luận có hay không có vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và
trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
- Khi chưa được cấp có thẩm quyền
kiểm tra, kết luận thì các hành vi có biểu hiện sai trái của tổ chức đảng, đảng
viên chỉ được coi là "có dấu hiệu vi phạm".
- Sự khác nhau giữa kiểm tra
tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm và kiểm tra chấp
hành:
+ Kiểm tra chấp hành được tiến
hành thường xuyên hoặc theo định kỳ nhằm làm rõ ưu điểm, phát huy nhân tố tích
cực để biểu dương, nhân rộng và thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, sửa chữa, khắc
phục; điều chỉnh những hạn chế, yếu kém trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện của tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên.
Đối tượng, nội dung kiểm tra chấp
hành rộng hơn so với kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra chấp hành chủ yếu
thực hiện trong việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quy chế, quyết định, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm chỉ được tiến hành khi đã phát hiện, có căn cứ, cơ sở xác định cụ thể,
chính xác đối tượng và nội dung có dấu hiệu vi phạm; nội dung kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm cụ thể hơn nội dung kiểm tra chấp hành; qua kiểm tra, kết luận tổ
chức đảng, đảng viên có vi phạm hay không có vi phạm, vi phạm đến mức phải xử
lý hay chưa đến mức phải xử lý.
II. Ý
NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA KIỂM TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU
VI PHẠM
1. Kết luận rõ đúng, sai, xác định
rõ vi phạm (nếu có) của tổ chức đảng, đảng viên để xem xét, xử lý kịp thời, giữ
nghiêm kỷ cương, kỷ luật đảng; bảo đảm cho Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc.
2. Giúp cho tổ chức đảng, đảng
viên được kiểm tra thấy được ưu điểm để phát huy; thiếu sót, hạn chế, yếu kém,
khuyết điểm, vi phạm (nếu có) để khắc phục, sửa chữa.
3. Góp phần chủ động giáo dục,
phòng ngừa, "răn đe"; ngăn chặn kịp thời, không để khuyết điểm trở
thành vi phạm hoặc vi phạm nhỏ, tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng,
vi phạm của một người trở thành vi phạm của nhiều người, của tổ chức.
4. Giúp tổ chức đảng quản lý đảng
viên được kiểm tra thấy rõ trách nhiệm của mình, rút ra bài học kinh nghiệm
trong việc quản lý, giáo dục, rèn luyện và kiểm tra, giám sát đảng viên, góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
5. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới,
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm chỉ tập trung vào những lĩnh vực trọng tâm,
những nơi trọng điểm giúp cho công tác kiểm tra có chất lượng, hiệu quả cao, tiết
kiệm thời gian và vật chất, góp phần tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; đấu
tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm và các tiêu cực
khác.
6. Giúp tổ chức đảng, tổ chức
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội thấy được những hạn
chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc trong trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều
hành và trong hoạt động của mình; thấy được những quy định không còn phù hợp hoặc
còn thiếu để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp
có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định cho chặt chẽ, đầy đủ, phù hợp với
tình hình thực tế.
7. Góp phần thực hiện tốt quan điểm:
Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; giám sát phải “mở
rộng”, kiểm tra phải có “trọng tâm, trọng điểm" để chủ động phòng ngừa vi
phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót,
khuyết điểm, vi phạm từ khi mới manh nha.
III.
PHÁT HIỆN, XÁC ĐỊNH DẤU HIỆU VI PHẠM, QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN
1. Nguyên
tắc phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm
- Căn cứ vào Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết
định, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; điều lệ, nghị quyết,
chỉ thị, quy định của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Thực hiện đúng nguyên tắc,
phương pháp công tác đảng, đúng quy trình, thủ tục.
- Phát hiện, xác định dấu hiệu
vi phạm đầy đủ, chính xác, kịp thời, thận trọng, khách quan; quyết định và tiến
hành kiểm tra đúng nội dung, đối tượng, đúng thẩm quyền, trách nhiệm của chủ thể
kiểm tra.
2. Các tổ
chức, cá nhân phát hiện dấu hiệu vi phạm, các tổ chức đảng xác định, quyết định
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
a) Các tổ chức, cá nhân phát hiện
dấu hiệu vi phạm:
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy,
thường trực cấp ủy; ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc, đơn vị sự
nghiệp của cấp ủy các cấp; ban cán sự đảng, đảng đoàn; chi bộ, đảng viên.
- Các tổ chức nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Cơ quan thông tin đại chúng
và quần chúng nhân dân.
b) Các tổ chức xác định, quyết
định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm:
- Thường trực uỷ ban kiểm tra
các cấp.
- Ủy ban kiểm tra (đối với nơi
không có thường trực ủy ban kiểm tra).
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp uỷ
các cấp và chi bộ (khi thật sự cần thiết).
3. Phát
hiện dấu hiệu vi phạm
3.1. Căn cứ phát hiện dấu
hiệu vi phạm
a) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra của các cấp uỷ, tổ
chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức kinh tế và giám sát của nhân dân.
b) Báo cáo, kiến nghị của cấp uỷ,
tổ chức đảng cấp dưới.
c) Tự phê bình và phê bình của
tổ chức đảng và đảng viên; việc bình xét, phân tích chất lượng đảng viên, tổ chức
đảng.
d) Tố cáo, khiếu nại, phản ánh,
kiến nghị của đảng viên và nhân dân.
đ) Phản ánh của các phương tiện
thông tin đại chúng đã được kiểm chứng.
3.2. Phương pháp phát hiện
dấu hiệu vi phạm
Cấp ủy viên, thành viên tổ chức
đảng, thành viên uỷ ban kiểm tra được phân công phụ trách, cán bộ kiểm tra được
phân công theo dõi lĩnh vực, địa bàn phát hiện dấu hiệu vi phạm thông qua:
a) Nghiên cứu, thu thập thông
tin, tài liệu, hiện vật về dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng
viên thông qua các nguồn thông tin.
b) Thực hiện việc giám sát thường
xuyên đối với cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; dự các cuộc họp, hội
nghị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới.
c) Nghiên cứu thông tin, tài liệu,
hiện vật thu thập qua các cuộc kiểm tra và do tổ chức, cá nhân có liên quan
cung cấp. Qua tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát, đoàn công tác của cấp uỷ,
các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ; tham gia các đoàn thanh tra, kiểm
tra, giám sát, của các tổ chức nhà nước; trao đổi trực tiếp đối với tổ chức đảng
hoặc đảng viên; kết quả thực hiện, thảo luận, chất vấn, đối thoại tại các kỳ họp
của cấp ủy; thực hiện chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
d) Kết quả giám sát chuyên đề;
báo cáo kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra đối với tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên.
4. Xác định
dấu hiệu vi phạm
4.1. Căn cứ xác định dấu
hiệu vi phạm
a) Các căn cứ nêu tại Tiết 3.1, Điểm 3 (nêu trên).
b) Các quy định của Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội mà đảng viên tham gia
đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên có
dấu hiệu vi phạm.
4.2. Điều kiện để xác định
dấu hiệu vi phạm
a) Tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng
viên được xác định là có dấu hiệu vi phạm khi nội dung thông tin, tài liệu, hiện
vật phản ảnh về dấu hiệu vi phạm đã có căn cứ, cơ sở thể hiện rõ:
- Tên, địa chỉ, thời điểm, nội
dung dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới hoặc họ tên, địa chỉ, thời điểm,
nội dung dấu hiệu vi phạm của đảng viên.
- Tên, địa chỉ, thời điểm, nội
dung dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới có liên quan hoặc họ tên, địa
chỉ, thời điểm, nội dung dấu hiệu vi phạm của đảng viên có liên quan.
b) Trường hợp nội dung dấu hiệu
vi phạm đã có cơ sở xác định nhưng đối tượng vi phạm chưa rõ thì căn cứ vào các
quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước để xác định, làm rõ đối tượng có dấu hiệu
vi phạm.
4.3. Phương pháp xác định
dấu hiệu vi phạm
Cán bộ kiểm tra theo dõi lĩnh vực,
địa bàn căn cứ vào các thông tin, tài liệu về dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên đã phát hiện và nhận được để tiến hành các công việc sau:
a) Phân tích, sàng lọc, phân loại,
tổng hợp những thông tin có đủ căn cứ, cơ sở, điều kiện xác định dấu hiệu vi phạm.
b) Đối chiếu nội dung thông
tin, tài liệu, hiện vật về dấu hiệu vi phạm đã phát hiện, nhận biết được với
các quy định cụ thể của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội có liên quan trực tiếp đến đối tượng và nội dung dấu hiệu vi phạm.
c) Xây dựng và báo cáo đề xuất
việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trình thường trực uỷ ban kiểm tra hoặc uỷ
ban kiểm tra xem xét, quyết định có hay không kiểm tra (đối với cấp huyện và
tương đương trở xuống).
Đối với Ủy ban Kiểm tra Trung
ương hoặc ủy ban kiểm tra cấp tỉnh, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương thì
cán bộ kiểm tra báo cáo vụ trưởng hoặc trưởng phòng xem xét, xin ý kiến thành
viên ủy ban phụ trách trước khi trình thường trực uỷ ban kiểm tra hoặc uỷ ban
kiểm tra xem xét, quyết định.
5. Quyết định
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
5.1. Điều kiện quyết định
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
a) Báo cáo đề xuất quyết định
kiểm tra của cán bộ kiểm tra (đối với cấp huyện và tương đương trở xuống), của
vụ (thuộc Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương) hoặc phòng (thuộc cơ quan ủy ban
kiểm tra cấp tỉnh và tương đương) hoặc do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban thường
vụ, thường trực cấp ủy giao ủy ban kiểm tra cùng cấp có đủ cơ sở để xác định cấp
ủy, tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên có dấu hiệu vi phạm và các tài liệu liên
quan.
b) Việc phát hiện, xác định dấu
hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên bảo đảm đúng nguyên tắc,
thẩm quyền, quy trình, thủ tục theo quy định của Đảng.
c) Các quy định của Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, quy định của cơ quan,
đơn vị còn hiệu lực thi hành tại thời điểm tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên
thực hiện hành vi vi phạm quy định đó.
d) Tình hình cụ thể về hoạt động,
sinh hoạt của tổ chức đảng, đảng viên dự kiến được kiểm tra và tình hình, điều
kiện thực tế của ủy ban kiểm tra, năng lực cán bộ kiểm tra.
5.2. Thẩm quyền quyết định
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
Ủy ban kiểm tra (nơi không có
thường trực uỷ ban kiểm tra) hoặc thường trực uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền quyết
định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên
6. Trách
nhiệm, quyền hạn ủy ban kiểm tra, thường trực uỷ ban kiểm tra, các đơn vị thuộc
cơ quan ủy ban kiểm tra, thành viên ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra trong
phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi
có dấu hiệu vi phạm
6.1. Trách nhiệm
a) Trách nhiệm của cán bộ kiểm
tra được phân công theo dõi lĩnh vực, địa bàn:
- Báo cáo kịp thời, khách quan,
trung thực, đầy đủ kết quả nắm tình hình, thu thập thông tin, tài liệu, hiện vật
về dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên.
- Phát hiện dấu hiệu vi phạm và
đề xuất với lãnh đạo vụ (thuộc Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương) hoặc phòng
(thuộc cơ quan ủy ban kiểm tra cấp tỉnh) hoặc ủy ban kiểm tra (ở cấp huyện và
tương đương trở xuống) về việc đề nghị ủy ban kiểm tra hoặc thường trực ủy ban
kiểm tra xác định và quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên, kể cả
cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm.
b) Trách nhiệm của lãnh đạo vụ
(thuộc Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương) hoặc lãnh đạo phòng (thuộc cơ quan ủy
ban kiểm tra cấp tỉnh uỷ, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương) được phân
công theo dõi địa bàn, lĩnh vực hoặc ủy ban kiểm tra cấp huyện và tương đương
trở xuống:
- Chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc cán bộ kiểm tra được phân công theo dõi lĩnh vực, địa bàn trong việc:
thu thập thông tin, tài liệu, hiện vật về dấu hiệu vi phạm; phát hiện nội dung
dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên đề xuất việc xác định và
quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Báo cáo xin ý kiến thành viên
ủy ban phụ trách đơn vị về đề xuất việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm để đề nghị thường trực ủy ban hoặc ủy ban kiểm tra
xác định và xem xét, quyết định kiểm tra.
c) Trách nhiệm của thành viên Ủy
ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra cấp tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực
thuộc Trung ương phụ trách đơn vị theo dõi lĩnh vực, địa bàn:
- Chỉ đạo đơn vị được phân công
phụ trách phát hiện, nhận biết, đề xuất việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối
với tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên đúng quy định.
- Cho ý kiến về đề xuất kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên của
đơn vị theo dõi lĩnh vực, địa bàn hoặc của cán bộ kiểm tra trước khi trình thường
trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra xem xét, quyết định.
- Báo cáo những vấn đề cần thiết
trước khi ủy ban kiểm tra hoặc thường trực ủy ban kiểm tra quyết định kiểm tra.
d) Trách nhiệm của thường trực ủy
ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra:
- Chỉ đạo thực hiện việc phát
hiện dấu hiệu vi phạm và đề xuất việc xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng
cấp dưới hoặc đảng viên đúng quy định.
- Quyết định kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên đúng thẩm quyền và chịu
trách nhiệm về quyết định đó.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương, uỷ
ban kiểm tra các cấp chỉ đạo việc kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên
thuộc diện cấp uỷ cấp dưới quản lý khi có dấu hiệu vi phạm; trực tiếp kiểm tra
khi thấy cần thiết. Trường hợp có ý kiến khác nhau, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
và cấp uỷ liên quan có trách nhiệm báo cáo các ý kiến khác nhau đó để Bộ Chính
trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định; uỷ ban kiểm tra các cấp và cấp uỷ liên
quan có trách nhiệm báo cáo các ý kiến khác nhau đó để cấp uỷ cùng cấp của uỷ
ban kiểm tra xem xét, quyết định.
6.2. Quyền hạn
a) Quyền hạn của thành viên uỷ
ban kiểm tra phụ trách, cán bộ kiểm tra được phân công theo dõi lĩnh vực, địa
bàn:
- Đề nghị các cấp ủy, tổ chức đảng,
tổ chức Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ
quan, đơn vị và đảng viên có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, hiện vật về
dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên thuộc lĩnh vực, địa
bàn được phân công phụ trách hoặc theo dõi.
- Đề xuất lãnh đạo đơn vị hoặc
đề nghị thường trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra quyết định kiểm tra
khi đã có cơ sở, căn cứ, điều kiện xác định chính xác, cụ thể dấu hiệu vi phạm
của tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên.
b) Quyền hạn của lãnh đạo vụ
(thuộc Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương) hoặc phòng (thuộc cơ quan ủy ban kiểm
tra cấp tỉnh uỷ, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương) được phân công theo
dõi lĩnh vực, địa bàn:
- Yêu cầu cán bộ kiểm tra được
giao theo dõi lĩnh vực, địa bàn thực hiện và báo cáo định kỳ, đột xuất về kết
quả phát hiện dấu hiệu vi phạm, đề xuất việc kiểm tra đúng nội dung và đối tượng
kiểm tra.
- Báo cáo xin ý kiến thành viên
ủy ban kiểm tra phụ trách đơn vị về việc đề nghị kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
- Đề nghị thường trực ủy ban kiểm
tra hoặc ủy ban kiểm tra xác định và quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
đối với tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên khi thấy có cơ sở, căn cứ, điều kiện.
c) Quyền hạn của thường trực ủy
ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra:
- Yêu cầu tổ chức đảng quản lý
tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên dự kiến được kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm phối hợp, tạo điều kiện cho việc chuẩn bị kế hoạch và tiến hành kiểm tra.
- Đề nghị các tổ chức đảng, tổ
chức Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan,
đơn vị và đảng viên có liên quan phối hợp cung cấp thông tin, tài liệu về nội
dung kiểm tra đối với tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên được kiểm tra.
- Yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới,
đảng viên được kiểm tra thực hiện nghiêm quyết định kiểm tra.
IV- CHỦ THỂ,
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG KIỂM TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI, ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU
VI PHẠM
1. Kiểm tra tổ chức đảng
a) Chủ thể kiểm tra
Chủ thể kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới khi có dấu hiệu vi phạm là uỷ ban kiểm tra các cấp; khi cần thiết thì cấp
uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ có thể trực tiếp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
Có thể trực tiếp kiểm tra tổ chức
đảng cấp dưới cách nhiều cấp khi có dấu hiệu vi phạm.
b) Đối tượng kiểm tra
Các tổ chức đảng cấp dưới, trước
hết là cấp dưới trực tiếp; cấp uỷ, tổ chức đảng thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý
của cấp uỷ cùng cấp, khi cần thiết thì kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều
cấp.
Khi kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới khi có dấu hiệu vi phạm có thể kết hợp kiểm tra đảng viên là thành viên của
tổ chức đảng đó.
c) Nội dung kiểm tra
Chủ thể kiểm tra phải căn cứ
vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các dấu hiệu vi phạm của từng tổ
chức đảng cấp dưới và yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác
xây dựng Đảng của tổ chức mình để xác định nội dung kiểm tra cho phù hợp, có
tác dụng thiết thực và đạt hiệu quả. Tập trung vào những nội dung sau đây:
- Việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Việc chấp hành các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ, quy chế làm việc, chế độ
công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng.
- Việc thực hành tiết kiệm,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Việc quản lý, giáo dục, rèn
luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Việc tuyển dụng, tiếp nhận,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, từ
chức, miễn nhiệm, bố trí, sử dụng, giới thiệu ứng cử, bầu cử, nâng ngạch, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ.
2. Kiểm tra đảng viên
a) Chủ thể kiểm tra
Chủ thể kiểm tra đảng viên khi
có dấu hiệu vi phạm là uỷ ban kiểm tra các cấp; khi cần thiết đối với những vi
phạm của đảng viên có chức vụ, quyền hạn, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành
nếu giao cho uỷ ban kiểm tra sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả vụ việc kiểm tra thì cấp
uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ có thể trực tiếp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
b) Đối tượng kiểm tra
- Đối tượng kiểm tra là đảng
viên, trước hết là cấp uỷ viên cùng cấp, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ
cùng cấp quản lý; khi cần thiết thì kiểm tra đảng viên do tổ chức đảng cấp dưới
quản lý.
- Khi xác định đối tượng kiểm
tra, phải thực hiện đúng quy định đối với một số đối tượng sau:
+ Cấp uỷ viên cùng cấp thuộc diện
cấp uỷ cấp trên quản lý khi có dấu hiệu vi phạm thì ủy ban kiểm tra cấp dưới
báo cáo để uỷ ban kiểm tra cấp trên chủ trì và phối hợp kiểm tra.
+ Cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng
cấp quản lý nhưng trước khi bổ nhiệm phải có ý kiến của các ban có liên quan của
cấp uỷ cấp trên (theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Chính trị và của
cấp ủy các cấp) thì khi kiểm tra do uỷ ban kiểm tra cùng cấp chủ trì, có sự chỉ
đạo, phối hợp của uỷ ban kiểm tra cấp trên.
+ Đảng viên giữ cương vị chủ chốt
trong tổ chức đảng cấp dưới, có thể là đối tượng kiểm tra khi tiến hành kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng đó.
c) Nội dung kiểm tra
Kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên, trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên. Chủ thể kiểm tra căn cứ chức trách, nhiệm vụ được giao và
tính chất, dấu hiệu vi phạm của đảng viên để xác định, quyết định nội dung kiểm
tra; tập trung phát hiện và kiểm tra các dấu hiệu vi phạm trên các nội dung
sau:
- Việc chấp hành các quy định của
Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước; đặc biệt là việc tuân thủ các văn bản pháp quy trong từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể.
- Việc thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao; thực hiện nhiệm vụ cấp ủy viên, nhiệm vụ đảng viên.
- Việc chấp hành quy chế làm việc,
chế độ công tác, các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc
tập trung dân chủ.
- Việc giữ gìn phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng, lối sống.
- Đoàn kết thống nhất nội bộ.
- Việc thực hiện quy định về những
điều đảng viên không được làm.
V. MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên, nhất là kiểm tra cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ chủ chốt khi có dấu
hiệu vi phạm là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và gặp nhiều trở ngại vì đối tượng
kiểm tra ngại bị kiểm tra, sợ ảnh hưởng đến uy tín, thành tích, do đó thường xuất
hiện tâm lý mặc cảm, đối phó, phản ứng, thiếu cộng tác. Tổ chức đảng có liên
quan thường e ngại, không muốn cộng tác trong quá trình kiểm tra. Một bộ phận uỷ
ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra thiếu bản lĩnh, dũng khí, tính chiến đấu, nên
có biểu hiện né tránh, nể nang, ngại va chạm. Để khắc phục tình trạng trên phải
thực hiện tốt một số nội dung sau:
1. Trong chuẩn bị tiến hành
kiểm tra
a) Thường trực ủy ban kiểm tra
(uỷ ban kiểm tra) phải chỉ đạo thành viên Uỷ ban phụ trách đơn vị theo dõi địa
bàn, lĩnh vực tăng cường chỉ đạo cán bộ kiểm tra chủ động thông qua các hình thức,
biện pháp theo quy định để nắm tình hình, thu thập thông tin, tài liệu có biểu
hiện về dấu hiệu vi phạm; kết hợp nghiên cứu các thông tin, tài liệu, báo cáo từ
các kênh thông tin khác để nhận diện, sàng lọc, lựa chọn, phát hiện kịp thời,
chính xác dấu hiệu vi phạm; báo cáo lãnh đạo đơn vị xem xét, báo cáo thành viên
uỷ ban kiểm tra phụ trách để đề xuất thường trực uỷ ban kiểm tra (ủy ban kiểm
tra) xem xét, cân nhắc quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi
có dấu hiệu vi phạm bảo đảm đúng nội dung, đối tượng và đúng thời điểm.
b) Cán bộ kiểm tra, các đơn vị
giúp việc cơ quan ủy ban kiểm tra phải khắc phục sự nể nang, né tránh, ngại va
chạm, không chủ động, tích cực phát hiện, đề xuất, quyết định kiểm tra tổ chức
đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
c) Thường trực ủy ban kiểm tra
(uỷ ban kiểm tra) phải kịp thời, chủ động xác định, quyết định kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm theo thẩm quyền, chủ động báo cáo đề nghị cấp uỷ tạo điều kiện
cho ủy ban kiểm tra trong việc quyết định và tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm, nhất là kiểm tra đối với uỷ viên ban thường vụ, cấp uỷ viên cùng cấp.
d) Khi ủy ban kiểm tra cấp dưới
gặp khó khăn, lúng túng trong việc xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, phải chủ động báo cáo, đề nghị ủy ban
kiểm tra cấp trên chỉ đạo, hỗ trợ, hoặc phối hợp tiến hành kiểm tra.
2. Trong quá trình tiến hành
kiểm tra
a) Phải bảo đảm dân chủ, chú trọng
công tác tư tưởng thông qua việc cảm hoá, thuyết phục, động viên giúp đối tượng
kiểm tra tránh mặc cảm, định kiến để tích cực cộng tác, phối hợp, chấp hành tốt
yêu cầu của đoàn kiểm tra; nêu cao ý thức tự giác của tổ chức đảng, đảng viên
được kiểm tra trong việc chuẩn bị và báo cáo, giải trình đầy đủ, trung thực các
nội dung kiểm tra, thấy được ưu điểm để phát huy, thiếu sót, hạn chế, yếu kém,
khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có); tự nhận hình thức kỷ luật đúng với nội dung,
mức độ, tính chất, tác hại và nguyên nhân của vi phạm; không tranh công, đổ lỗi
cho khách quan hoặc "lộ đến đâu nhận đến đó".
b) Cán bộ kiểm tra phải bình
tĩnh, kiên quyết, nhạy bén, thể hiện bản lĩnh, chính kiến khi tiếp cận, làm việc
với đối tượng kiểm tra để việc kiểm tra đạt chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Tránh hai khuynh hướng:
Một là, thiếu công tâm,
thiếu ý chí chiến đấu, thiếu thận trọng, khách quan, thiếu dân chủ trong quá
trình giải quyết công việc.
Hai là, có tác phong,
hành động hù dọa, gây khó khăn cho đối tượng kiểm tra, để tổ chức đảng cấp dưới,
đảng viên được kiểm tra hiểu lầm, mặc cảm, thiếu tin tưởng.
c) Đoàn kiểm tra phải thực hiện
đúng nguyên tắc, thủ tục, quy trình; bảo đảm khách quan, trung thực, dân chủ,
chuẩn xác. Khi tiếp xúc với đối tượng kiểm tra hoặc tổ chức, cá nhân có liên
quan phải có ít nhất hai cán bộ kiểm tra để đảm bảo tính khách quan.
d) Những trường hợp phức tạp,
không đủ khả năng xem xét, làm rõ thì đoàn kiểm tra cần chủ động phối hợp với
các cơ quan chức năng để làm rõ và tham khảo ý kiến đánh giá về nội dung kiểm
tra.
đ) Nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm
mới thì có thể bổ sung đối tượng, nội dung kiểm tra. Việc bổ sung đối tượng, nội
dung kiểm tra phải được thực hiện đúng quy trình kiểm tra.
e) Tổ (đoàn) kiểm tra, cán bộ
kiểm tra phải hết sức coi trọng thực hiện công tác nắm tình hình diễn biến của
đối tượng kiểm tra, tổ chức đảng quản lý đối tượng kiểm tra hoặc tổ chức đảng
có đối tượng được kiểm tra và các nhân tố tác động khác trong suốt quá trình tiến
hành kiểm tra để chủ động làm tốt công tác tư tưởng, động viên, thuyết phục đối
tượng kiểm tra; dự kiến các tình huống nảy sinh, các phương án cần giải quyết để
không bị động, lúng túng, bảo đảm việc kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý có chất
lượng, hiệu quả.
B. GIẢI
QUYẾT TỐ CÁO ĐỐI VỚI TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN
Giải quyết tố cáo đối với tổ chức
đảng và đảng viên là nhiệm vụ của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, uỷ ban kiểm tra
các cấp được quy định trong Điều lệ Đảng, đồng thời là trách nhiệm của các tổ
chức đảng có liên quan.
Sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội cũng như công tác xây dựng Đảng hiện nay, bên cạnh những mặt thuận lợi
cũng còn nhiều khó khăn, thách thức; tình hình vi phạm của tổ chức đảng, đảng
viên và tố cáo đối với tổ chức đảng, đảng viên ngày càng đa dạng, phức tạp; vì
vậy, công tác giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên càng quan trọng
với yêu cầu ngày càng cao hơn, đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải nắm vững những nội
dung cơ bản của công tác giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên để
vận dụng thực hiện tốt nhiệm vụ này.
I. MỘT SỐ
KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Tố cáo trong Đảng
Tố cáo trong Đảng là việc công
dân, đảng viên báo cho tổ chức đảng hoặc cán bộ, đảng viên có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước của tổ chức
đảng hoặc đảng viên mà người tố cáo cho là gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại đến lợi ích của Đảng, Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức hoặc cá nhân.
2. Người tố cáo, đối tượng bị
tố cáo
- Người tố cáo: Là cán bộ, đảng
viên hoặc công dân Việt Nam thực hiện quyền tố cáo;
- Đối tượng bị tố cáo: Tổ chức
đảng hoặc đảng viên.
3. Đơn tố cáo
- Đơn tố cáo: Là văn bản do đảng
viên, công dân viết và ký tên hay điểm chỉ hoặc văn bản, băng, đĩa ghi âm, ghi
hình được ghi lại khi đảng viên, công dân trực tiếp phản ánh với tổ chức đảng,
đảng viên có trách nhiệm về hành vi của tổ chức đảng hoặc đảng viên mà người tố
cáo cho là vi phạm, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; nội dung tố cáo, họ,
tên, địa chỉ, chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo.
- Đơn phản ánh, kiến nghị: Là
đơn của công dân, đảng viên cung cấp thông tin, trình bày ý kiến, nguyện vọng,
đề xuất giải pháp với cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những
vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công tác lãnh đạo, quản lý
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
đó.
Đơn phản ánh, kiến nghị không
được coi là đơn tố cáo; tuy nhiên nếu trong đơn có nội dung tố cáo thì được xác
định là đơn tố cáo.
Trường hợp không phải là tố
cáo: Khi cơ quan, tổ chức cung cấp các thông tin, báo cáo cho tổ chức đảng, đảng
viên có trách nhiệm về hành vi được cho là có dấu hiện vi phạm của tổ chức đảng
hoặc đảng viên; khi đảng viên báo cáo tổ chức đảng những thông tin, dư luận
nhưng chưa được kiểm chứng; khi đảng viên, cấp uỷ viên phát biểu trong hội nghị
cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ phản ảnh những thông tin có
liên quan đến khuyết điểm, sai phạm của đảng viên, nhưng không yêu cầu tổ chức
đảng, đảng viên có trách nhiệm ghi âm, ghi hình hoặc ghi lại thành văn bản, có
chữ ký xác nhận hoặc điểm chỉ của người phát biểu.
4. Giải quyết tố cáo trong Đảng
Giải quyết tố cáo là việc tổ chức
đảng có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết theo đúng quy định của Đảng về
nguyên tắc, phương pháp, quy trình, thủ tục, thẩm quyền để có cơ sở kết luận,
làm rõ đúng, sai, có hay không có khuyết điểm, vi phạm đối với tổ chức đảng hoặc
đảng viên bị tố cáo.
Giải quyết tố cáo là trách nhiệm
của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ; là nhiệm vụ trực tiếp và thường xuyên của uỷ
ban kiểm tra các cấp được quy định tại Điều 32, Điều lệ Đảng
và là trách nhiệm của các tổ chức đảng khác có liên quan.
II. Ý
NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA VIỆC TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
- Bảo đảm quyền làm chủ của
công dân theo qui định của pháp luật. Khi tố cáo, công dân thực hiện đúng, đầy
đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Bảo đảm quyền dân chủ của đảng
viên đã được qui định trong Điều lệ Đảng và nguyên tắc tổ chức sinh hoạt trong
nội bộ Đảng. Theo quy định của Điều lệ Đảng, đảng viên có quyền phê bình, chất
vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức;
báo cáo, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức đảng có trách nhiệm và yêu cầu được
trả lời.
- Tố cáo là một trong những nguồn
thông tin để tổ chức đảng, đảng viên nâng cao chất lượng tự phê bình và phê
bình, sửa chữa, khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm trong công tác. Trong mối
quan hệ với nhân dân, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Do vậy, việc đảng viên và quần chúng phản ảnh sai lầm, khuyết điểm của tổ chức
đảng và đảng viên là cung cấp nguồn thông tin cần thiết để tổ chức đảng có thẩm
quyền có điều kiện xem xét, hiểu rõ hơn ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm hoặc vi
phạm (nếu có) của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý.
- Thực hiện tốt việc giải quyết
tố cáo là thể hiện sự tiếp thu nghiêm túc ý kiến góp ý phê bình, báo cáo, phản ảnh,
kiến nghị đúng đắn của đảng viên và quần chúng, không những giúp cho tổ chức đảng
hoặc đảng viên bị tố cáo nhận rõ sai lầm, khuyết điểm (nếu có) để sửa chữa, tiến
bộ, mà còn có tác dụng cải chính, minh oan, bảo vệ cán bộ, đảng viên trong trường
hợp bị tố cáo sai, bị vu cáo; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống
suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
- Qua giải quyết tố cáo, các tổ
chức đảng giải quyết tố cáo quyết định, chỉ đạo hoặc kiến nghị tổ chức đảng có
thẩm quyền xem xét, quyết định các biện pháp chấn chỉnh, khắc phục hoặc xử lý
phù hợp để xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh.
- Kịp thời đề xuất các cấp có
thẩm quyền của Đảng, Nhà nước xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định, cơ chế, chế
độ, chính sách không còn phù hợp, ban hành mới những quy định còn thiếu để tổ
chức đảng, đảng viên có căn cứ, cơ sở, điều kiện chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng,
thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời có căn cứ, cơ sở và điều
kiện thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
- Góp phần tăng cường năng lực
lãnh đạo của Đảng và củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, bảo
đảm quyền dân chủ và lợi ích chính đáng của công dân; bảo đảm dân chủ trong
sinh hoạt Đảng, tăng cường tính chiến đấu, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận của nhân dân.
III. THẨM
QUYỀN, NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1. Thẩm quyền giải quyết tố
cáo
a) Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ,
uỷ ban kiểm tra có nhiệm vụ giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên
thuộc phạm vi quản lý của cấp uỷ cùng cấp. Tổ chức đảng có nhiệm vụ giải quyết
tố cáo đối với tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi phụ trách. Chi bộ có nhiệm
vụ giải quyết tố cáo đối với đảng viên thuộc phạm vi quản lý.
b) Trường hợp đảng viên là cấp
uỷ viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý đã nghỉ hưu, nếu
bị tố cáo vi phạm khi đang công tác thì thẩm quyền giải quyết tố cáo được thực
hiện như đang đương chức.
2. Nguyên tắc giải quyết tố
cáo
a) Khi nhận được tố cáo, cơ
quan nhận đơn phải phân loại, giải quyết các trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm
hoặc phối hợp với các tổ chức đảng có thẩm quyền để giải quyết; nếu không thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì chuyển đến các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền giải quyết các đơn tố cáo.
b) Thời hạn giải quyết tố cáo:
Chậm nhất 90 ngày đối với cấp tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương trở xuống;
180 ngày đối với cấp Trung ương, kể từ ngày nhận được tố cáo (gửi, tố cáo trực
tiếp hoặc theo dấu bưu điện chuyển đến).
Trường hợp vụ việc phức tạp thì
có thể gia hạn giải quyết tố cáo nhưng không quá 30 ngày, đồng thời phải thông
báo cho người tố cáo, người bị tố cáo, tổ chức có liên quan biết. Sau khi giải
quyết xong, phải thông báo cho người tố cáo biết kết quả giải quyết tố cáo bằng
hình thức thích hợp.
c) Trường hợp tố cáo có liên
quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, uỷ ban kiểm tra báo cáo cấp uỷ cùng cấp chỉ đạo
phối hợp giải quyết.
d) Trường hợp người tố cáo xin
rút nội dung tố cáo thì tổ chức đảng giải quyết tố cáo không xem xét, giải quyết
nội dung tố cáo đó, trừ trường hợp có căn cứ xác định người tố cáo bị đe doạ,
ép buộc, mua chuộc.
đ) Tổ chức đảng quản lý đối tượng
bị tố cáo phải bảo đảm quyền dân chủ của đảng viên và quần chúng trong việc
giám sát, tố cáo, phản ảnh về tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Phối
hợp và thực hiện yêu cầu của tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Trong thời gian đang giải quyết, chưa kết luận thì tổ chức đảng quản lý đảng
viên phải bảo đảm các quyền của đảng viên, của tổ chức đảng bị tố cáo; giáo dục
và tạo điều kiện để đảng viên, tổ chức đảng thực hiện nghiêm các yêu cầu của tổ
chức đảng giải quyết tố cáo.
e) Những người lợi dụng việc tố
cáo để xuyên tạc sự thật, vu khống, tố cáo bịa đặt, đả kích, chia rẽ bè phái,
gây rối nội bộ, tố cáo nhiều lần có dụng ý xấu phải được xem xét, xử lý nghiêm
theo quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước.
g) Không giải quyết đơn tố cáo
nặc danh, giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ, không rõ nội dung và đơn tố cáo
có tên đã được cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận hoặc đã có thông báo không
xem xét, giải quyết; đơn tố cáo do người tố cáo đã tự nguyện rút đơn nay tiếp tục
tố cáo lại nhưng không có thêm nội dung, tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi bản
chất sự việc; đơn tố cáo có tên nhưng nội dung không cụ thể, không có căn cứ để
thẩm tra, xác minh; đơn tố cáo có tên nhưng trong nội dung của đơn không chứa đựng,
phản ánh nội dung tố cáo đối với đảng viên, tổ chức đảng; đơn tố cáo không phải
do người tố cáo trực tiếp ký tên; đơn tố cáo có từ hai người trở lên cùng ký
tên; đơn tố cáo của người không có năng lực hành vi dân sự.
Nếu đơn tố cáo giấu tên, mạo
tên nhưng rõ địa chỉ, đối tượng và nội dung tố cáo thì tổ chức đảng có thẩm quyền
nắm tình hình để làm cơ sở kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên bị
tố cáo.
h) Tổ chức đảng và đảng viên nhận
được tố cáo phải bảo đảm bí mật cho người tố cáo, hướng dẫn người tố cáo thực
hiện đúng quy định của Đảng, Nhà nước và có biện pháp bảo vệ người tố cáo.
Không để người bị tố cáo chủ trì giải quyết tố cáo đối với mình. Không để người
tố cáo hoặc người có liên quan đến tố cáo giải quyết tố cáo.
i) Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ,
uỷ ban kiểm tra các cấp giải quyết tố cáo phải xử lý hoặc đề nghị xử lý nghiêm
những trường hợp sau: Truy tìm, trù dập, trả thù người tố cáo; cản trở, không
xem xét, giải quyết tố cáo; bao che những việc làm sai trái của đối tượng bị tố
cáo; để lộ tên người tố cáo cho đối tượng bị tố cáo biết, để lộ tên người tố
cáo, nội dung tố cáo cho người không có trách nhiệm biết; lợi dụng tố cáo để
xuyên tạc sự thật, vu khống, tố cáo mang tính bịa đặt, đả kích, gây dư luận xấu
đối với người khác.
IV. CHỦ
THỂ, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG TỐ CÁO PHẢI GIẢI QUYẾT
1. Chủ thể giải quyết tố cáo
- Ở Trung ương: Bộ Chính trị,
Ban Bí thư; Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; các cơ quan tham mưu, giúp việc của
Trung ương Đảng, các tổ chức đảng và Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao giải quyết, chỉ đạo giải quyết
hoặc chủ trì giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính
trị, Ban Bí thư quản lý.
- Ở cấp tỉnh, thành uỷ và tương
đương trở xuống: Cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ, ủy ban kiểm tra của cấp uỷ;
các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ, các tổ chức đảng và Ban Thường vụ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ giao
giải quyết hoặc chủ trì giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện
cấp uỷ cùng cấp quản lý.
2. Đối tượng, nội dung tố
cáo phải giải quyết
2.1. Đối tượng bị tố cáo
phải giải quyết
Việc giải quyết tố cáo đối với
tổ chức đảng, đảng viên thực hiện theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định
của Đảng và quy định của Bộ Chính trị, cấp uỷ các cấp về phân cấp quản lý cán bộ
và giới thiệu cán bộ, cụ thể là:
a) Giải quyết tố cáo đối với tổ
chức đảng
- Các tổ chức đảng bị tố cáo đều
phải được giải quyết; tập trung giải quyết tố cáo các tổ chức đảng cấp dưới trực
tiếp.
- Trường hợp tố cáo tổ chức đảng
cấp dưới cách nhiều cấp thì chuyển tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền xem xét,
giải quyết.
- Trường hợp tố cáo cấp uỷ, ban
thường vụ cấp ủy hoặc thường trực cấp uỷ cùng cấp và cấp trên, uỷ ban kiểm tra
không có thẩm quyền xem xét, giải quyết; khi nhận được tố cáo này, uỷ ban kiểm
tra phải kịp thời làm thủ tục chuyển cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ hoặc uỷ ban
kiểm tra cấp trên có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
b) Giải quyết tố cáo đối với đảng
viên
- Mọi đảng viên bị tố cáo đều
phải giải quyết; tập trung giải quyết các tố cáo cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ
thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý; người bị tố cáo có liên quan đến công tác
nhân sự của cấp uỷ cấp mình.
- Trường hợp tố cáo cấp uỷ viên
cấp dưới, đồng thời là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý thì uỷ ban kiểm
tra cấp trên chủ trì giải quyết, có sự phối hợp của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp
dưới.
- Trường hợp tố cáo cán bộ do cấp
ủy cấp dưới quản lý, nhưng khi bổ nhiệm hoặc bầu cử phải có ý kiến của các ban
có liên quan của cấp uỷ cấp trên thì do uỷ ban kiểm tra cấp dưới chủ trì giải
quyết và báo cáo để có sự chỉ đạo hoặc phối hợp của uỷ ban kiểm tra cấp trên.
- Đối với tố cáo đảng viên khác
thì căn cứ quy định về phân cấp quản lý cán bộ của cấp uỷ để chuyển đến cấp ủy,
tổ chức đảng hoặc uỷ ban kiểm tra cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
2.2. Nội dung tố cáo phải
giải quyết
- Đối với tổ chức đảng: Những
nội dung liên quan đến việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng;
đoàn kết nội bộ.
- Đối với đảng viên: Những
nội dung liên quan đến tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc
thực hiện nhiệm vụ đảng viên; việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng;
về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền
hạn và phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Những nội dung tố cáo mà uỷ ban
kiểm tra chưa đủ điều kiện xem xét thì kiến nghị cấp uỷ hoặc phối hợp hay yêu cầu
tổ chức đảng ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
Tố cáo có nội dung liên quan đến
lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện hành của đảng viên thì báo cáo cấp uỷ và
chuyển cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét, giải quyết và thông báo cho người
tố cáo biết.
V. TRÁCH
NHIỆM VÀ THẨM QUYỀN CỦA CHỦ THỂ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1. Trách nhiệm
a) Tiếp nhận, phân loại, xử lý
đơn tố cáo thuộc trách nhiệm giải quyết; chuyển đơn tố cáo hoặc trích nội dung
tố cáo không thuộc trách nhiệm giải quyết cho cơ quan, đơn vị, tổ chức, có
trách nhiệm giải quyết theo quy định.
b) Chỉ đạo, tổ chức thực hiện
hoặc phối hợp giải quyết tố cáo đối với đảng viên theo quy định.
c) Hướng dẫn, giải thích cho đảng
viên bị tố cáo hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết tố cáo về
những vấn đề cần thiết theo quy định.
d) Không được để lộ họ, tên, địa
chỉ, nơi công tác của người tố cáo, họ, tên, địa chỉ của người bị tố cáo, nội
dung tố cáo cho tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm biết. Không để người bị tố
cáo chủ trì giải quyết tố cáo đối với mình. Không được giao cho người tố cáo hoặc
người có liên quan đến tố cáo giải quyết tố cáo. Không được sao chụp các biên bản
làm việc gửi cho người tố cáo và tổ chức, cá nhân không liên quan đến giải quyết
tố cáo.
2. Thẩm quyền
a) Ban hành các văn bản để giải
quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp
uỷ các cấp quản lý.
b) Thành lập đoàn giải quyết tố
cáo và thông báo cho tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo và tổ chức đảng có đảng
viên bị tố cáo biết để chấp hành; nắm tình hình liên quan đến đối tượng, nội
dung giải quyết tố cáo.
c) Yêu cầu đảng viên bị tố cáo,
người tố cáo và tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết tố cáo cung cấp
đầy đủ thông tin, tài liệu, văn bản, hiện vật, trả lời, báo cáo, trao đổi về những
nội dung liên quan đến việc tố cáo và giải quyết tố cáo; yêu cầu đảng viên bị tố
cáo, người tố cáo và tổ chức đảng có đảng viên bị tố cáo phối hợp và thực hiện
đúng trách nhiệm, quyền của mình trong quá trình giải quyết tố cáo.
d) Qua chỉ đạo, giải quyết tố
cáo, chủ thể giải quyết tố cáo xem xét, kết luận, xử lý theo thẩm quyền hoặc đề
nghị cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận, xử lý; thông báo kết luận giải quyết
tố cáo đến đảng viên bị tố cáo để chấp hành và đề nghị với tổ chức đảng quản lý
đảng viên bị tố cáo về những vấn đề cần thiết.
- Trường hợp kết luận đảng viên
bị tố cáo không vi phạm hoặc bị vu cáo, tố cáo sai sự thật thì phải thông báo bằng
văn bản cho đảng viên bị tố cáo, cơ quan quản lý đảng viên bị tố cáo biết, khôi
phục quyền, lợi ích hợp pháp của đảng viên bị tố cáo bị xâm hại do việc tố cáo
không đúng sự thật gây ra; đồng thời xử lý nghiêm theo quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đối với người tố cáo có dụng ý xấu, vu cáo hoặc tố cáo sai sự
thật.
- Trường hợp hành vi vi phạm của
đảng viên bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan
pháp luật có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.
đ) Báo cáo kết quả giải quyết tố
cáo với cấp có thẩm quyền hoặc thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho tổ chức,
cơ quan, cá nhân có liên quan theo quy định.
e) Chỉ đạo hoặc tổ chức tuyên
truyền, phổ biến kết quả giải quyết tố cáo theo quy định.
VI. MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
1. Những
trường hợp tố cáo không xem xét, giải quyết
- Trường hợp tố cáo tổ chức đảng,
đảng viên không xem xét, giải quyết theo quy định thì uỷ ban kiểm tra và cán bộ
kiểm tra phải căn cứ vào các quy định, hướng dẫn của Trung ương để hướng dẫn,
giải thích cho tổ chức, cá nhân hiểu và thực hiện.
- Trường hợp đơn tố cáo giấu
tên, mạo tên không phải giải quyết, tuy nhiên trong đơn tố cáo có nội dung, đối
tượng cụ thể và có cơ sở để giải quyết thì tổ (đoàn) kiểm tra kết hợp với nguồn
thông tin khác để báo cáo uỷ ban kiểm tra xem xét, quyết định việc kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm và chịu trách nhiệm về quyết định kiểm tra, không được tùy
tiện loại bỏ.
2. Nhận
và chuyển đơn tố cáo
- Các cấp uỷ, cơ quan tham mưu,
giúp việc của cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
chính trị - xã hội các cấp và đảng viên khi nhận đơn tố cáo đối với đảng viên
là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ cùng cấp quản lý thì phải
chuyển đến ủy ban kiểm tra cùng cấp để tổng hợp, nghiên cứu, phân loại, đề xuất
hướng xử lý và chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Những nội dung tố cáo không
thuộc trách nhiệm trực tiếp giải quyết của mình thì trong vòng 10 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận, ủy ban kiểm tra chuyển đơn tố cáo hoặc trích nội dung tố cáo
có liên quan gửi đến cơ quan, tổ chức có trách nhiệm để kịp thời xem xét, giải
quyết.
3. Phối hợp
giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản
lý
a) Ủy ban kiểm tra chủ trì giải
quyết tố cáo, trực tiếp xem xét những nội dung thuộc trách nhiệm của mình; hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm
vụ giải quyết tố cáo; báo cáo, đề xuất ban thường vụ cấp uỷ xem xét, chỉ đạo giải
quyết những tố cáo phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, đến trách
nhiệm giải quyết tố cáo của nhiều cơ quan, tổ chức; tổng hợp kết quả giải quyết
tố cáo đối với cán bộ, báo cáo ban thường vụ cấp ủy.
b) Các tổ chức đảng có trách
nhiệm phối hợp với ủy ban kiểm tra và các tổ chức đảng có liên quan giải quyết
những nội dung tố cáo đảng viên thuộc cấp uỷ mình quản lý. Trường hợp có ý kiến
khác nhau thì ủy ban kiểm tra báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban thường vụ cấp
uỷ cùng cấp xem xét, quyết định.
c) Khi trực tiếp giải quyết hoặc
chủ trì giải quyết hoặc chỉ đạo giải quyết và sau khi kết luận về những nội
dung tố cáo thuộc trách nhiệm của mình, các tổ chức đảng thông báo cho đảng
viên bị tố cáo và người tố cáo theo quy định; đồng thời thông báo cho ủy ban kiểm
tra để xem xét, xử lý. Uỷ ban kiểm tra khi xem xét, giải quyết và sau khi kết
luận về những nội dung tố cáo thuộc trách nhiệm của mình thì thông báo cho đảng
viên bị tố cáo và người tố cáo theo quy định; đồng thời thông báo cho tổ chức đảng
có liên quan và cho những tổ chức, cá nhân nhận được đơn tố cáo. Nếu nội dung tố
cáo đã được đăng, phát trên các phương tiện thông tin đại chúng thì phải yêu cầu
đăng cải chính theo quy định của Luật Báo chí.
d) Trường hợp cần thiết, ủy ban
kiểm tra và các tổ chức đảng có trách nhiệm báo cáo để ban thường vụ cấp uỷ
giao cho một cơ quan chủ trì, có sự phối hợp của các cơ quan có liên quan hoặc
ban thường vụ cấp uỷ quyết định lập đoàn giải quyết tố cáo.
đ) Qua giải quyết, hoặc chủ trì
giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, cấp uỷ cùng cấp quản lý, nếu thấy có vấn đề phải xem xét thi hành kỷ luật
đảng, kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể hoặc xử lý bằng pháp luật, thì tổ chức
đảng báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp qua ủy ban
kiểm tra. Uỷ ban kiểm tra có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp với tổ chức đảng
có liên quan yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới tổ chức kiểm điểm, báo cáo; quyết định
hoặc đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định thi hành kỷ luật đối với đảng
viên bị tố cáo có vi phạm theo thẩm quyền.
4. Trong
quá trình tiến hành giải quyết
a) Không để người có quan hệ với
người tố cáo hoặc với đảng viên bị tố cáo (người thân trong gia đình, người có
quan hệ về nghiệp vụ như chủ tài khoản và kế toán, là người bị tố cáo hoặc cùng
là đối tượng bị tố cáo trong một vụ việc, nội dung hoặc vấn đề tố cáo…), giải
quyết tố cáo nhằm đảm bảo tính khách quan khi giải quyết.
b) Làm việc với người tố cáo,
người bị tố cáo:
- Làm việc với người tố cáo: Phải
chuẩn bị chu đáo về nội dung làm việc để người tố cáo có cơ sở tin cậy cán bộ
kiểm tra; động viên, thuyết phục người tố cáo chuẩn bị, cung cấp tài liệu, hiện
vật, chứng cứ có liên quan đến nội dung tố cáo. Có thái độ cương quyết, phương
pháp phù hợp đối với người tố cáo trong những trường hợp đã thấy rõ nội dung vu
cáo, động cơ tố cáo là nhằm bôi nhọ, hãm hại người bị tố cáo; xác định rõ trách
nhiệm của người tố cáo. Cán bộ kiểm tra không được để lộ, lọt hoặc trao đổi thông
tin về quá trình giải quyết tố cáo cho người tố cáo biết.
- Làm việc với người bị tố cáo:
Phải chuẩn bị chu đáo nội dung yêu cầu người bị tố cáo báo cáo giải trình; gợi
ý giải trình đúng nội dung yêu cầu giải quyết tố cáo; động viên người bị tố cáo
bình tĩnh, nghiêm túc tự kiểm tra trong quá trình giải quyết tố cáo; động viên,
thuyết phục người bị tố cáo chuẩn bị, cung cấp đầy đủ, chính xác tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến nội dung tố cáo; tự giác, trung thực trong giải trình, tự
giác nhận khuyết điểm, vi phạm (nếu có); tự nhận hình thức kỷ luật. Khi gặp người
bị tố cáo, tuyệt đối không để lộ tên và địa chỉ người tố cáo; đồng thời, giải
thích cho người bị tố cáo hiểu rõ trách nhiệm của mình, không được xoá bỏ dấu vết
vi phạm và truy tìm, trả thù, trù dập người tố cáo.
c) Để tiến hành giải quyết tố
cáo chủ thể giải quyết phải lập tổ (đoàn) kiểm tra có từ 2 cán bộ trở lên. Tổ
(đoàn) kiểm tra phải thận trọng trước tình trạng một số cán bộ, đảng viên bị tố
cáo thiếu tự giác tự phê bình, thiếu thành khẩn, còn tìm cách đối phó, phản ứng.
Cán bộ kiểm tra phải tránh tâm lý nể nang, né tránh và phương pháp gò ép, áp đặt
đối với người bị tố cáo; đồng thời, không được lợi dụng vị trí công tác, vị trí
của tổ chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo để gây khó khăn cho đối tượng bị tố
cáo.
d) Trường hợp tố cáo có liên
quan đến nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành, uỷ ban kiểm tra phải chủ động phối
hợp với các tổ chức đảng có liên quan để giải quyết.
đ) Tại hội nghị do tổ chức đảng
quản lý đối tượng bị tố cáo chủ trì, tổ (đoàn) kiểm tra chỉ làm rõ nội dung tố
cáo đúng hay sai, không nêu ý kiến về việc có hay không thi hành kỷ luật hoặc
thi hành kỷ luật bằng hình thức nào, vì tổ (đoàn) kiểm tra không có thẩm quyền
quyết định kỷ luật.
e) Việc sắp xếp để đại diện uỷ
ban kiểm tra gặp và nghe đối tượng bị tố cáo trình bày ý kiến trước khi uỷ ban
kiểm tra xem xét, quyết định trong trường hợp có vi phạm đến mức có nhiều khả
năng phải xử lý kỷ luật là việc bảo đảm quyền của đảng viên được quy định trong
Điều lệ Đảng, do vậy, phải tiến hành đầy đủ, nghiêm túc.
g) Tổ chức đảng phải bảo đảm
quyền giám sát, tố cáo, phản ảnh của đảng viên, quần chúng về những vi phạm của
tổ chức đảng và đảng viên. Trong thời gian tổ chức đảng đang giải quyết, chưa kết
luận thì phải bảo đảm các quyền của tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo; tổ chức
đảng, đảng viên bị tố cáo có trách nhiệm thực hiện nghiêm các yêu cầu của tổ chức
đảng giải quyết tố cáo.
5. Những
hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo
- Gây khó khăn, phiền hà đối với
việc thực hiện quyền tố cáo của công dân.
- Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, nơi
công tác, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác có thể làm lộ danh
tính của người tố cáo.
- Thiếu trách nhiệm trong việc
giải quyết tố cáo; làm sai lệch hồ sơ vụ việc trong quá trình giải quyết tố
cáo.
- Không giải quyết hoặc cố ý giải
quyết tố cáo trái quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong việc giải quyết tố cáo để thực hiện hành vi trái quy định của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, sách nhiễu, gây phiền hà cho đảng viên bị tố cáo.
- Không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo.
- Cản trở, can thiệp vào việc
giải quyết tố cáo; cản trở việc thực hiện quyền tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập,
xúc phạm người tố cáo; bao che đảng viên bị tố cáo; mua chuộc, hối lộ người giải
quyết tố cáo; đe doạ, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố cáo.
- Cố ý tố cáo sai sự thật; kích
động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; mạo danh người
khác để tố cáo; lợi dụng việc tố cáo để phát tán đơn tố cáo không đúng địa chỉ
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải quyết tố cáo. Lợi dụng việc tố cáo để
tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Đảng và Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; xuyên tạc, vu khống, gây rối an ninh,
trật tự, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
- Đưa tin sai sự thật về việc tố
cáo và giải quyết tố cáo.
- Vi phạm các quy định của Đảng
và pháp luật của Nhà nước về tố cáo và giải quyết tố cáo.
C. GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI KỶ LUẬT ĐẢNG
1. Khái
niệm.
1.1. Khiếu nại kỷ luật đảng.
Khiếu nại kỷ luật đảng là việc
tổ chức đảng, đảng viên bị thi hành kỷ luật thực hiện quyền của mình theo quy định
của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Đảng, đề nghị tổ chức đảng có
thẩm quyền xem xét lại quyết định kỷ luật đảng khi có căn cứ, cơ sở cho rằng
quá trình kiểm tra, xem xét, quyết định kỷ luật đối với mình chưa đúng với quy
định của Đảng, xâm phạm quyền và lợi ích của tổ chức đảng hoặc đảng viên bị kỷ
luật.
1.2. Giải quyết khiếu nại
kỷ luật đảng.
Giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng
là việc tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra, xem xét lại việc thi hành kỷ luật
đảng của các tổ chức đảng cấp dưới theo yêu cầu của tổ chức đảng hoặc đảng viên
bị thi hành kỷ luật đúng quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng.
Đây là nhiệm vụ của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp ủy, uỷ
ban kiểm tra được quy định tại Điều 32, Điều 39 Điều lệ Đảng
và Điều 22, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp
hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
2. Ý
nghĩa, tác dụng của việc giải quyết khiếu nại.
2.1. Khiếu nại về kỷ luật
đảng là yêu cầu xem xét lại về kỷ luật đảng; là quyền của tổ chức đảng và đảng
viên bị thi hành kỷ luật được Điều lệ Đảng quy định.
Giải quyết khiếu nại về kỷ luật
đảng cũng là kiểm tra việc thi hành kỷ luật đảng của các tổ chức đảng có thẩm
quyền, theo yêu cầu của tổ chức đảng hoặc đảng viên bị thi hành kỷ luật; là nhiệm
vụ của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra được Điều lệ Đảng quy định.
2.2. Xác định quyền khiếu
nại kỷ luật đảng và trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại thể hiện Đảng tôn
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, tôn trọng và bảo đảm
quyền của tổ chức đảng và đảng viên, nhằm giải quyết những thắc mắc của tổ chức
đảng, đảng viên về nội dung, mức độ, hình thức, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ
luật, đồng thời, nâng cao nhận thức của tổ chức đảng và đảng viên về công tác
kiểm tra, thi hành kỷ luật trong Đảng.
2.3. Giúp cấp uỷ, tổ chức
đảng cấp trên thấy được thực trạng tình hình thi hành kỷ luật đảng của tổ chức
đảng cấp dưới, để phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, uốn nắn
những lệch lạc trong việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới, từ đó có
biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo hoặc hướng dẫn tổ chức đảng cấp dưới thực hiện tốt
việc thi hành kỷ luật, nhất là việc giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng.
2.4. Chăm lo và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa tổ chức đảng cấp trên với tổ chức đảng cấp dưới, giữa
tổ chức đảng có thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với đối tượng bị thi hành kỷ luật.
2.5. Giúp tổ chức đảng cấp
dưới tự kiểm tra mình trong việc thực hiện phương hướng, phương châm, nguyên tắc,
thủ tục, quy trình, thẩm quyền, phương pháp thi hành kỷ luật trong Đảng, bảo đảm
việc thi hành kỷ luật đảng nghiêm minh, có tác dụng giáo dục sâu sắc, khắc phục
việc xử lý kỷ luật oan hoặc sai.
3. Thẩm
quyền, trách nhiệm, nguyên tắc khiếu nại và giải quyết khiếu nại
3.1. Thẩm quyền, trách
nhiệm
a) Việc giải quyết khiếu nại về
kỷ luật đảng được tiến hành từ uỷ ban kiểm tra, ban thường vụ cấp uỷ hoặc cấp uỷ
từ cấp cơ sở trở lên.
b) Ban thường vụ cấp uỷ hoặc cấp
uỷ là cấp giải quyết khiếu nại kỷ luật lần đầu của tổ chức đảng đối với quyết định
kỷ luật của uỷ ban kiểm tra cùng cấp.
c) Ủy ban Kiểm tra Trung ương
là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với các hình thức kỷ luật khiển
trách, cảnh cáo, cách chức; Ban Bí thư là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng đối
với hình thức kỷ luật khai trừ do cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương trở
xuống quyết định.
d) Đối với các hình thức kỷ luật
do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung
ương quyết định thì Ban Chấp hành Trung ương là cấp giải quyết khiếu nại cuối
cùng.
Ban Chấp hành Trung ương là cấp
quyết định kỷ luật cuối cùng, sau khi xem xét, kết luận phải biểu quyết bằng
phiếu kín việc quyết định hình thức kỷ luật cụ thể.
3.2. Nguyên tắc khiếu nại
và giải quyết khiếu nại
a) Nghiêm cấm các hành vi cản
trở, không xem xét, giải quyết khiếu nại. Không khiếu nại vượt cấp khi chưa giải
quyết xong. Không gửi đơn khiếu nại đến nhiều cấp, đến các tổ chức và cá nhân
không có thẩm quyền giải quyết. Không khiếu nại hộ.
b) Trong khi chờ giải quyết khiếu
nại, tổ chức đảng và đảng viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định
kỷ luật. Khi tổ chức đảng cấp trên tiến hành giải quyết khiếu nại, các tổ chức
đảng cấp dưới phải nghiêm túc xem xét lại quyết định của mình và chấp hành
nghiêm quyết định giải quyết khiếu nại của tổ chức đảng cấp trên.
c) Tổ chức đảng trực tiếp quản
lý đảng viên khiếu nại phối hợp với uỷ ban kiểm tra, ban thường vụ cấp uỷ hoặc
cấp uỷ để giải quyết khiếu nại; giáo dục và tạo điều kiện để người khiếu nại thực
hiện đầy đủ các yêu cầu của uỷ ban kiểm tra, ban thường vụ cấp uỷ hoặc cấp uỷ;
chấp hành nghiêm yêu cầu, kết luận hoặc quyết định giải quyết khiếu nại của uỷ
ban kiểm tra, ban thường vụ cấp uỷ hoặc cấp uỷ cấp trên.
d) Quyền chuẩn y, thay đổi hoặc
xoá bỏ hình thức kỷ luật
Ủy ban kiểm tra đảng uỷ, ban
thường vụ đảng ủy hoặc đảng uỷ từ cấp cơ sở trở lên có thẩm quyền chuẩn y, thay
đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật đối với đảng viên, tổ chức đảng do tổ chức đảng
cấp dưới quyết định. Trường hợp phải thay đổi bằng hình thức kỷ luật cao hơn,
vượt quá thẩm quyền phải báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên xem xét,
quyết định.
4. Phạm
vi, đối tượng, phương pháp giải quyết khiếu nại
4.1. Phạm vi, đối tượng
giải quyết khiếu nại
a) Giải quyết khiếu nại về nội
dung vi phạm, hình thức kỷ luật trong quyết định kỷ luật và về nguyên tắc, thủ
tục, quy trình, thẩm quyền thi hành kỷ luật mà đảng viên bị kỷ luật có khiếu nại.
Trong quá trình giải quyết, nếu phát hiện đảng viên khiếu nại có dấu hiệu vi phạm
hoặc có đơn tố cáo thì cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét, quyết định.
b) Đảng viên bị kỷ luật có khiếu
nại chưa được giải quyết hoặc đang giải quyết đã qua đời thì tổ chức đảng vẫn
xem xét, giải quyết; nếu thân nhân (cha, mẹ; vợ hoặc chồng; con; anh, chị, em
ruột) đề nghị cho biết kết quả thì thông báo kết quả giải quyết khiếu nại bằng
văn bản cho tổ chức đảng nơi cư trú và thân nhân người đó biết.
c) Không giải quyết những trường
hợp khiếu nại sau: Quá thời hạn khiếu nại theo quy định; đang được cấp trên có
thẩm quyền giải quyết; đã được cấp có thẩm quyền cao nhất xem xét, kết luận,
quyết định; bị toà án quyết định hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên
chưa được toà án có thẩm quyền quyết định huỷ bỏ bản án; khiếu nại hộ, khiếu nại
khi chưa nhận được quyết định kỷ luật bằng văn bản của tổ chức đảng có thẩm quyền;
từ chối nhận quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng.
4.2. Phương pháp giải quyết
khiếu nại
- Để hạn chế đến mức thấp nhất
khiếu nại về kỷ luật đảng, trong quá trình xem xét, thi hành kỷ luật tổ chức đảng
phải thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục; tăng cường
công tác kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới. Khi phải xem
xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ, uỷ
ban kiểm tra phải tiến hành tốt theo quy trình giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng
của cấp minh đã ban hành hoặc vận dụng quy định của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp
trên để giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng bảo đảm nguyên tắc, thủ tục theo quy
định.
- Khi giải quyết khiếu nại phải
xác định rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình
tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ so với hình thức kỷ luật đã quyết định để biểu quyết
không bị phân tán.
- Nếu thấy việc kỷ luật không
đúng thẩm quyền thì tổ chức đảng giải quyết khiếu nại yêu cầu tổ chức đảng đã
quyết định kỷ luật hủy bỏ quyết định kỷ luật và đề nghị tổ chức đảng có thẩm
quyền xem xét, xử lý kỷ luật theo quy định.
- Trường hợp vừa khiếu nại, vừa
tố cáo thì tổ chức đảng chỉ giải quyết nội dung khiếu nại và hướng dẫn người
khiếu nại thực hiện quyền tố cáo theo quy định.
- Trong quá trình giải quyết, nếu
đảng viên tự nguyện xin rút đơn khiếu nại thì tổ chức đảng có thẩm quyền xem
xét cho rút đơn khiếu nại và kết thúc việc giải quyết (phải lập biên bản có chữ
ký xác nhận của người khiếu nại).
- Trong vòng 30 ngày làm việc kể
từ khi công bố quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật,
tổ chức đảng quản lý đảng viên bị kỷ luật chưa thực hiện chuyển sinh hoạt đảng
chính thức cho đảng viên đó (nếu phát sinh yêu cầu chuyển sinh hoạt đảng).
Giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng
là nhiệm vụ của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra do Điều lệ Đảng
quy định. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, các tổ chức đảng có thẩm quyền phải
nắm vững đường lối, cơ chế, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
pháp luật Nhà nước, phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, quy trình
thi hành kỷ luật trong Đảng, làm tốt việc thẩm tra, xác minh, công tác tư tưởng
và có quan điểm lịch sử, cụ thể để bảo đảm việc thi hành kỷ luật trong Đảng được
nghiêm minh, thực hiện tốt mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng, giữa tổ
chức đảng cấp dưới với tổ chức đảng cấp trên, giữa tổ chức đảng có thẩm quyền
thi hành kỷ luật với đối tượng bị thi hành kỷ luật có khiếu nại.
D. CÂU
HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Đồng chí hãy nêu
ý nghĩa, tác dụng của kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm. Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ này ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí
công tác ?
Câu 2: Đồng chí hãy nêu
thẩm quyền, nguyên tắc giải quyết tố cáo trong Đảng. Liên hệ việc thực hiện, thẩm
quyền nguyên tắc giải quyết tố cáo ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí công tác?
Câu 3: Đồng chí nêu những
hành vi bị cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo trong Đảng. Vấn đề này được xử
lý như thế nào ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí công tác ?
Câu 4: Đồng chí hãy nêu
ý nghĩa, tác dụng và thẩm quyền, nguyên tắc của việc giải quyết khiếu nại trong
Đảng. Liên hệ với việc thực hiện thẩm quyền, nguyên tắc nơi đồng chí công tác.
Câu 5: Đồng chí hãy nêu
những vấn đề mới (của các nội dung về: kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải
quyết tố cáo và khiếu nại kỷ luật đảng) trong Quy định 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021
với Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương; ý nghĩa,
tác dụng của những thay đổi này.
CHUYÊN ĐỀ 3: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM TRA, XÁC MINH
TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
I. MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CHUNG
1. Một số
khái niệm cơ bản
1.1. Thẩm tra
Thẩm tra là “điều tra, xem
xét lại xem có đúng, có chính xác không"[1] và điều tra là “tìm hỏi, xem xét để biết
rõ sự thật”[2].
Thẩm tra trong công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng: Là hoạt động của tổ chức đảng có thẩm quyền tiến hành
phát hiện, tìm kiếm, thu thập những thông tin, tài liệu, hiện vật, sự kiện, sự
việc có liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra. Thực chất của hoạt động thẩm
tra là tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng kiểm tra, tổ chức, cá nhân có liên
quan, để gợi mở, thu thập thông tin, tài liệu, hiện vật, tiếp cận hồ sơ, phát
hiện những cơ sở ban đầu về những chứng cứ, nhân chứng, vật chứng...để xem xét,
xác định sự việc có xảy ra không, vào thời điểm nào, diễn biến của sự việc đó
thế nào và tổ chức, cá nhân nào thực hiện nhằm phục vụ cho việc xác minh.
1.2. Xác minh
Xác minh là “làm cho rõ sự
thật qua thực tế và chứng cớ cụ thể”[3].
Xác minh trong công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng: Là những hoạt động diễn ra tiếp theo hoặc cùng đan xen
với hoạt động thẩm tra nhằm làm rõ hơn những thông tin, tài liệu, hiện vật, sự
kiện đã thu thập được ở khâu thẩm tra thông qua nhân chứng, vật chứng để so
sánh, đối chiếu, sàng lọc, phân loại, phân tích, đánh giá, thẩm định, trưng cầu
giám định để tìm ra bằng chứng xác thực; đánh giá được tính chất, mức độ, tác hại
và nguyên nhân phục vụ việc nhận định, đánh giá, kết luận sau này được khách
quan, chính xác về con người và sự việc kiểm tra.
1.3. Thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng:
- Công tác thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tiến hành theo các phương pháp
cơ bản sau: Dựa vào tổ chức đảng; phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng
và đảng viên; phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng; phối hợp giữa
công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã
hội, nghề nghiệp và các ban, ngành có liên quan; thực hiện công tác thẩm tra,
xác minh.
- Thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng là “quá trình thực hiện các hoạt động tìm kiếm,
phát hiện, thu thập, xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng các chứng
cứ; phân tích, so sánh sự liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với nhau và với
vụ việc theo phương pháp công tác đảng để tìm ra sự thật, chỉ rõ bản chất của sự
việc và hành vi của đối tượng được kiểm tra và đối tượng có liên quan để nhận
xét, đánh giá kết luận rõ đúng sai"[4].
- Thẩm tra, xác minh là hai
khái niệm không đồng nhất nhưng thường đi liền với nhau và quan hệ biện chứng với
nhau. Trong hoạt động thực tiễn, thẩm tra và xác minh thường gắn với nhau, hoặc
thẩm tra trước, xác minh sau hoặc hai hoạt động này cùng đan xen, bổ trợ cho
nhau. Thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cho thấy khái niệm thẩm
tra, xác minh được dùng với tư cách là một khái niệm ghép để chỉ một hoạt động
có tính tổng hợp, hệ thống trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
- Yêu cầu cơ bản của thẩm tra,
xác minh là tìm ra bản chất, làm rõ sự thật bằng chứng cứ và kiểm chứng trên cơ
sở khoa học, khách quan. Trên cơ sở chứng cứ của thẩm tra, xác minh đã được thẩm
định bảo đảm tính xác thực, các tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, nhận xét,
đánh giá, kết luận và quyết định xử lý đối với các nội dung, đối tượng kiểm
tra, giám sát. Độ chuẩn xác và hiệu quả của các nhận xét, đánh giá, kết luận,
các quyết định xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền chủ yếu tuỳ thuộc vào kết
quả và độ chuẩn xác của các chứng cứ thu thập được qua thẩm tra, xác minh.
Như vậy, thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là việc chủ thể kiểm tra, giám sát
tiến hành các hoạt động, tìm kiếm, phát hiện, thu thập, xem xét, tra cứu, phân
tích thông tin, tài liệu, hiện vật đã thu thập được, thẩm định, đánh giá và sử
dụng những chứng cứ liên quan đến vụ việc kiểm tra, giám sát; phân tích, so
sánh mối liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với nhau và với vụ việc kiểm
tra, giám sát theo các nguyên tắc, phương pháp công tác đảng để tìm ra sự thật,
chỉ đúng bản chất các thông tin, tài liệu, chứng cứ đó nhằm chứng minh đối tượng
được kiểm tra, giám sát có hay không có khuyết điểm hoặc vi phạm, giúp cho việc
xem xét, kết luận, quyết định xử lý bảo đảm công minh, chính xác, kịp thời.
1.4. Chứng cứ trong hoạt
động thẩm tra, xác minh
- Chứng cứ là "cái được dẫn
ra để làm căn cứ xác định điều gì đó là có thật"[5].
- Chứng cứ trong tố tụng hình sự
là những tài liệu thực tế mà các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án làm căn cứ
theo trình tự luật định để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực
hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết
đúng đắn vụ án. Chứng cứ được xác định bằng: Vật chứng, lời khai, kết luận giám
định, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu khác.
- Chứng cứ trong hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật của Đảng là vật chứng,
báo cáo giải trình, kết luận giám định, biên bản làm việc với tổ chức, cá nhân
có liên quan được thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh và những gì có thật
liên quan trực tiếp đến vụ việc đã thu thập được gồm: hồ sơ, thông tin, tài liệu,
chứng từ, sổ sách, nhân chứng, vật chứng…được dùng làm cơ sở để xem xét, nhận
xét, đánh giá, kết luận về hành vi hay sự việc đang được kiểm tra, giám sát.
Căn cứ vào thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được, cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra
xem xét, phân tích, thẩm định, đánh giá, kết luận rõ đúng, sai hoặc có hay
không có vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, chứng cứ là thực tế
khách quan, tồn tại ngoài ý muốn của con người; mọi sự suy diễn, tưởng tượng...
đều không thể coi là chứng cứ.
2. Phân
biệt thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác
điều tra hình sự và công tác thanh tra của Nhà nước
2.1. Giống nhau
- Đều có mục đích chung là làm
rõ sự thật của một sự việc, hiện tượng, vụ việc nào đó để nhận xét, đánh giá, kết
luận rõ đúng, sai.
- Đều được pháp luật của Nhà nước,
các quy định của Đảng cho phép tiến hành các biện pháp theo chức năng, nhiệm vụ
của chuyên ngành mình.
- Kết quả phải có giá trị pháp
lý để giúp việc nhận xét, đánh giá, kết luận chuẩn xác và xử lý đúng đắn, công
minh, chính xác, kịp thời.
- Quá trình tiến hành phải bảo
đảm đúng đường lối, chính sách, quan điểm, nguyên tắc của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; tôn trọng sự thật khách quan, công minh, chính trực.
2.2. Khác nhau
- Về nguyên tắc: Thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải tuân thủ Điều lệ Đảng, các
nguyên tắc, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Công tác điều tra hình
sự và công tác thanh tra của Nhà nước phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
- Về phương pháp: Thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là công tác nội bộ Đảng nên phải
sử dụng phương pháp công tác đảng: dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự
giác của tổ chức đảng và đảng viên, lấy tự phê bình và phê bình trong tổ chức Đảng
là biện pháp chủ yếu; không được sử dụng biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan tố
tụng, cơ quan thanh tra nhà nước, biện pháp đặc tình hoặc bí mật theo dõi. Công
tác điều tra hình sự sử dụng biện pháp hình sự, được áp dụng mọi biện pháp (kể
cả những biện pháp đặc biệt, bí mật) để tiến hành điều tra. Công tác thanh tra
nhà nước mang tính hành chính, chịu sự chi phối của các nguyên tắc, phương pháp
hành chính nhà nước.
- Về hoạt động thu thập thông
tin: Việc thu thập thông tin trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải được
thực hiện dân chủ, công khai, trên cơ sở vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm
hoá, nêu gương là chủ yếu. Trong công tác điều tra hình sự, ngoài việc giải
thích, giáo dục, thuyết phục còn được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác.
Trong công tác thanh tra nhà nước ngoài việc dựa trên sự động viên, thuyết phục,
còn được sử dụng quyền lực hành chính.
II. VỊ
TRÍ, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM
TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
1. Vị trí của thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra, giám sát
- Yêu cầu của công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng là xem xét khách quan, thận trọng, trung thực, khoa học,
xem xét, nhận xét, đánh giá, kết luận chính xác, xử lý nghiêm minh. Để đạt mục
đích đó, phải tiến hành thẩm tra, xác minh để thu thập thông tin, tài liệu, chứng
cứ, chuẩn bị chứng lý sắc bén cho các kết luận kiểm tra.
Thẩm tra, xác minh là khâu quan
trọng, không thể thiếu được trong toàn bộ quy trình thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát, nhất là trong điều kiện hiện nay, mọi vi phạm của tổ chức đảng,
đảng viên có những biểu hiện rất đa dạng, tinh vi và phức tạp; trong khi tính tự
giác, tự phê bình và phê bình của đảng viên giảm sút. Do đó, trong công tác kiểm
tra, giám sát nếu chưa thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng,
chu đáo, kỹ lưỡng thì chưa kết thúc kiểm tra, giám sát chưa được nhận xét, đánh
giá, kết luận, xử lý đối với đối tượng kiểm tra, giám sát.
- Thực tiễn hiện nay, các vi phạm
đang có xu hướng gia tăng với nội dung và tính chất phức tạp, thủ đoạn tinh vi,
phạm vi rộng cộng với tính tự giác, trung thực, tinh thần tự phê bình và phê
bình của một bộ phận đảng viên giảm sút làm cho công tác kiểm tra, giám sát gặp
nhiều khó khăn. Tình hình đó đòi hỏi phải hết sức chú trọng công tác thẩm tra,
xác minh, coi đó là khâu then chốt, quan trọng nhất trong công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
hoạt động của cán bộ, đảng viên không chỉ giới hạn trong nội bộ Đảng, mà liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, việc thẩm
tra, xác minh để làm rõ đúng, sai, có vi phạm hay không có vi phạm trong các hoạt
động của tổ chức, cán bộ, đảng viên được kiểm tra, giám sát không thể chỉ dựa
trên tính tự giác, tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng mà đòi hỏi vận dụng
sáng tạo phương pháp, cách thức thẩm tra, xác minh trên cơ sở nguyên tắc và
phương pháp công tác đảng.
2. Ý nghĩa, tác dụng của hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Chất lượng và kết quả của hoạt
động thẩm tra, xác minh trực tiếp quyết định độ chính xác của các nhận xét,
đánh giá, kết luận và độ xác đáng của các quyết định xử lý của tổ chức đảng có
thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra, giám sát.
- Yêu cầu cơ bản đối với công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng là đánh giá khách quan, thận trọng, trung thực,
khoa học, kết luận chính xác ưu điểm, khuyết điểm, nội dung, tính chất, mức độ,
tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của đối tượng
được kiểm tra, giám sát để có quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ quyết định xử lý
đúng. Chất lượng thẩm tra, xác minh quyết định tính chính xác của các nhận xét,
đánh giá, kết luận kiểm tra, thông báo kết quả giám sát, qua đó quyết định chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Do vậy, cần phải dựa vào tổ chức đảng,
phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, phát huy trách nhiệm
xây dựng Đảng của quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng với công tác thanh tra, điều tra của các cơ quan chức năng và công tác
kiểm tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp, với các
ban, ngành có liên quan, uỷ ban kiểm tra các cấp, hết sức coi trọng và làm tốt
công tác thẩm tra, xác minh.
- Thẩm tra, xác minh nhằm làm
rõ đúng, sai, ưu điểm, khuyết điểm, có vi phạm hay không vi phạm của đối tượng
được kiểm tra, giám sát nên có tác dụng minh oan cho những đảng viên, tổ chức đảng
bị oan sai, bị vu khống; xử lý những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nhằm
giáo dục đảng viên, đồng thời cảnh báo, ngăn ngừa tiêu cực, tham nhũng trong Đảng.
Hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung, hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng
đều nhằm góp phần làm cho nội bộ Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Để bảo đảm sự “công minh,
chính xác, kịp thời” của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải thẩm tra,
xác minh thật khách quan, thận trọng, trung thực, khoa học, chuẩn xác. Thực tiễn
đã chứng minh, nhiều vụ kiểm tra, giám sát bỏ lọt vi phạm hoặc xử lý oan, sai,
gây hậu quả nghiêm trọng đến sinh mệnh chính trị của tổ chức đảng, của cán bộ,
đảng viên hoặc nhận xét, đánh giá, kết luận không chuẩn xác dẫn đến xử lý không
nghiêm đều có nguyên nhân do những sai sót, lệch lạc trong khâu thẩm tra, xác
minh. Thực tiễn cũng chỉ rõ tình hình tiêu cực, tham nhũng đã và đang diễn ra
ngày càng nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thẩm tra,
xác minh không tìm được chứng cứ hoặc tìm được chứng cứ không đầy đủ, xác thực
nên không có cơ sở xem xét, nhận xét, đánh giá, kết luận, quyết định xử lý chuẩn
xác, nghiêm minh.
- Thẩm tra, xác minh tốt không
những thể hiện trách nhiệm, chất lượng, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám
sát mà còn góp phần thúc đẩy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, khuyến
khích quần chúng nâng cao trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, giữ vững uy tín của
Đảng và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên.
3. Đặc điểm của thẩm tra,
xác minh
- Nội dung, đối tượng thẩm tra,
xác minh tập trung vào những hành vi, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc
chấp hành kỷ luật đảng; đối với dấu hiệu vi phạm chính sách pháp luật của Nhà
nước thì phối hợp với cơ quan pháp luật xem xét, xử lý hoặc chuyển cho cơ quan điều
tra giải quyết và báo cáo kết quả với tổ chức đảng có thẩm quyền để xem xét, xử
lý.
- Thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tiến hành theo nguyên tắc và phương pháp
công tác đảng: công khai, dân chủ; dựa vào tổ chức đảng, phát huy tính tự giác
của tổ chức đảng và đảng viên, phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần
chúng.
- Trong quá trình thẩm tra, xác
minh, không được sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật
như sử dụng cơ sở bí mật, đặc tình và phương pháp nội tuyến, ngoại tuyến....
- Hoạt động thẩm tra, xác minh
được thực hiện theo các bước: xây dựng kế hoạch, tiến hành thẩm tra, xác minh,
thông báo kết quả thẩm tra, xác minh với đối tượng kiểm tra, giám sát sử dụng kết
quả thẩm tra, xác minh để nhận xét, đánh giá, kết luận và báo cáo cấp có thẩm
quyền xem xét, xử lý vi phạm (nếu có) theo quy định.
III. NỘI
DUNG, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THẨM TRA, XÁC MINH
1. Nội dung thẩm tra, xác
minh
Nội dung thẩm tra, xác minh là
những nội dung kiểm tra, giám sát chưa rõ, chưa đủ cơ sở cần được xem xét. Nội
dung thẩm tra, xác minh phụ thuộc vào nội dung kiểm tra, giám sát. Mỗi cuộc kiểm
tra, giám sát có đối tượng, nội dung khác nhau nên nội dung thẩm tra, xác minh
cũng khác nhau (tùy từng nhiệm vụ, đối tượng kiểm tra, giám sát cụ thể mà xác định
nội dung thẩm tra, xác minh). Nội dung kiểm tra, giám sát rất rộng, ở nhiều
lĩnh vực khác nhau, có thể liên quan đến nhiều người, nhiều cấp nên nội dung thẩm
tra, xác minh cần tập trung, có trọng tâm, trọng điểm. Việc xác định nội dung
thẩm tra, xác minh cụ thể, chuẩn xác là điều kiện bảo đảm chất lượng, hiệu quả
của quá trình thẩm tra, xác minh.
2. Đối tượng thẩm tra, xác
minh
- Đối tượng thẩm tra, xác minh
là những thông tin, tài liệu, sự việc, hiện vật và các tổ chức, cá nhân có liên
quan đến đối tượng và nội dung cần kiểm tra, giám sát.
- Thẩm tra, xác minh không phải
là một khâu, một công đoạn độc lập, khép kín, chỉ tiến hành một lần với nội
dung và đối tượng không thay đổi mà có thể tiến hành nhiều lần, ở nhiều thời điểm
với những nội dung, đối tượng khác nhau.
- Xác định đúng nội dung, đối
tượng thẩm tra, xác minh, nhất là nội dung, đối tượng chủ yếu là rất quan trọng
vì đó là những "nút thắt" cần tập trung để "mở" nhằm nhanh
chóng làm rõ sự thật. Thông qua những tài liệu đã có, những thông tin, tài liệu,
hiện vật đã thu thập được và bằng sự tinh tế, nhạy cảm, cán bộ kiểm tra xác định
tính chất của sự việc, phát hiện những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý, những điều
chưa rõ ràng, những dấu hiệu của sự bưng bít, che dấu hoặc bị khống chế, truy bức,
người khởi xướng hoặc bị lôi kéo... để xác định nội dung, đối tượng cần thẩm
tra, xác minh phù hợp.
3. Phương pháp tiến hành thẩm
tra, xác minh
3.1. Xây dựng kế hoạch
Đây là bước có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong quá trình thẩm tra, xác minh. Kết quả thẩm tra, xác minh phụ
thuộc rất nhiều vào việc xây dựng kế hoạch. Kế hoạch thẩm tra, xác minh được
xây dựng dựa trên các nội dung cơ bản sau:
- Xác định mục đích, yêu cầu, nội
dung, đối tượng, phương pháp, thời gian, tổ chức lực lượng tiến hành thẩm tra,
xác minh. Muốn xác định cụ thể, chính xác, đầy đủ nội dung thẩm tra, xác minh
trong một vụ việc kiểm tra cụ thể, cán bộ kiểm tra cần dựa vào các căn cứ sau
đây:
+ Nội dung kiểm tra, giám sát
ghi trong quyết định kiểm tra, giám sát; nội dung tố cáo, khiếu nại cần giải
quyết thuộc lĩnh vực cụ thể nào của đời sống xã hội.
+ Đối tượng của vụ việc kiểm
tra, giám sát là kiểm tra, giám sát tổ chức hay cá nhân hay cả tổ chức và cá
nhân.
+ Tình hình thực tế của từng vụ
việc cụ thể (vấn đề gì được gợi ý đối tượng kiểm tra, giám sát đã tự giác trình
bày rõ trong báo cáo giải trình, cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu, chứng cứ,
vấn đề gì đối tượng kiểm tra, giám sát trình bày chưa rõ và cán bộ kiểm tra,
giám sát chưa có chứng cứ, tài liệu...).
+ Các nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định, điều lệ của Mặt trận
Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan đến nội dung thẩm tra, xác
minh.
- Dự kiến thời gian, lực lượng,
phân công nhiệm vụ cho các thành viên.
- Xác định đối tượng thẩm tra,
xác minh: những thông tin, tài liệu, hiện vật, chứng cứ cần thu thập và những tổ
chức, cá nhân cần tiếp xúc làm việc hoặc yêu cầu phối hợp.
- Dự kiến những tình huống có
thể phát sinh và cách giải quyết.
Yêu cầu kế hoạch thẩm tra, xác
minh phải bảo đảm tính khoa học (xây dựng trình tự tiến hành cụ thể, sát hợp để
việc thực hiện đạt hiệu quả cao) và tính logic, tỷ mỷ, chính xác để tránh sự
trùng lặp hoặc thiếu đồng bộ, những sai sót, những sơ hở không đáng có.
3.2. Tiến hành thẩm tra,
xác minh
Thực chất của quá trình tiến
hành thẩm tra, xác minh là quá trình phát hiện, tìm kiếm, thu thập thông tin,
tài liệu, hiện vật, bằng chứng và nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu, xử
lý những thông tin, tài liệu bằng chứng đó để làm rõ và khẳng định chứng cứ xác
thực làm cơ sở cho các kết luận kiểm tra, nhận xét, đánh giá giám sát.
- Thu thập bằng chứng
+ Bằng chứng trong thẩm tra,
xác minh khi tiến hành công tác kiểm tra, giám sát là những hiện vật, tài liệu,
địa điểm, thời gian, người làm chứng... tồn tại khách quan và liên quan đến sự
việc, là căn cứ để chứng tỏ sự việc là có thật. Bằng chứng thường là những hiện
vật, tài liệu có liên quan đến sự việc (đất đã chiếm dụng, nhà xây trái phép,
tiền hoặc tài sản dùng làm quà tặng, biếu dưới dạng hối lộ đã được trao nhận,
tài liệu, sổ sách, chứng từ, hoá đơn, băng ghi âm, ghi hình, các phương tiện
mang tin khác...) được thu thập, khai thác từ nhiều nguồn thông tin khác nhau
(từ hồ sơ, tài liệu, từ các tổ chức hoặc cá nhân gây ra sự việc, các tổ chức hoặc
cá nhân có liên quan hoặc biết rõ sự việc)[6].
+ Cách thu thập bằng chứng
Trước hết là nghiên cứu các hồ
sơ, tài liệu, hiện vật đã có, đánh giá tính khách quan, liên quan, hợp lý, hợp
pháp của các hồ sơ, tài liệu, hiện vật đã có (tài liệu đã có là bản chính hay bản
sao, tài liệu gốc, xác thực hay đã được hợp thức hoá hoặc giả mạo; thẩm quyền của
tổ chức hoặc cá nhân đã ký các văn bản, tài liệu ấy có phù hợp với quy định
không v.v...). Trên cơ sở đó, thu thập những tài liệu gốc, những văn bản chính,
những tài liệu có giá trị chứng cứ và những tài liệu còn thiếu.
Tiếp xúc với các tổ chức đảng
hoặc cá nhân đảng viên gây ra sự việc, yêu cầu họ cung cấp những thông tin, tài
liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung kiểm tra, giám sát, kể cả những chứng
cứ chứng minh việc làm đúng của mình, bác bỏ những nội dung tố cáo không đúng,
những kết luận không đúng hoặc để chứng minh cho việc xử lý là oan, sai. Khi cần,
gặp những tổ chức, cá nhân có liên quan đến sự việc hoặc hiểu rõ sự việc để đối
chứng, thu thập thêm tài liệu, hiện vật, chứng cứ giúp cho việc nhận xét, đánh
giá, kết luận được khách quan, chính xác.
Việc tiếp xúc với những đối tượng
trên, cần tiến hành với từng đối tượng; không nhất thiết phải theo một trật tự
cứng nhắc hoặc phải chờ thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu, hiện vật rồi mới tiếp
xúc. Qua tiếp xúc với các đối tượng này, có thể phát hiện những nội dung, những
tình tiết mới nảy sinh cần làm sáng tỏ khi tiếp xúc với đối tượng khác. Có thể
tiếp xúc với mỗi đối tượng một lần hoặc một số lần, nhưng cố gắng tiếp xúc một
lần mà thu thập được các thông tin, tài liệu, hiện vật bằng chứng cần thiết để
tránh gây phiền hà cho đối tượng và gây khó khăn cho việc đi lại của cán bộ kiểm
tra. Tiếp xúc với các tổ chức đảng có liên quan (chi bộ, chi uỷ, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy...) để yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo sinh
hoạt tự phê bình và phê bình trong tổ chức đảng một cách nghiêm túc; yêu cầu tổ
chức đảng lãnh đạo, đôn đốc, nhắc nhở đối tượng được kiểm tra tự giác cung cấp
tài liệu, hiện vật, chứng cứ, tự giác trong phê bình; phối hợp tiến hành thẩm
tra, xác minh.
Trong thực tế, có thể gặp cấp uỷ,
ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng trong quá trình thẩm tra, xác minh hoặc sau
phân tích những vấn đề đã được thẩm tra, xác minh để cấp uỷ, tổ chức đảng cung
cấp tình hình, tài liệu, hiện vật, chứng cứ hoặc thống nhất nội dung, diễn biến,
tình tiết của sự việc. Trường hợp giữa cấp uỷ, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng
và cán bộ kiểm tra (đoàn kiểm tra) có vấn đề chưa thống nhất thì yêu cầu cấp uỷ,
ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng cung cấp thêm tài liệu, hiện vật, bằng chứng
để cùng trao đổi, thảo luận. Nếu vẫn còn ý kiến chưa thống nhất, cán bộ kiểm
tra (đoàn kiểm tra) phải báo cáo trung thực, đầy đủ, chính xác để uỷ ban kiểm
tra xem xét, nhận xét, đánh giá, kết luận.
Trước khi tiếp xúc với từng đối
tượng, phải chuẩn bị kế hoạch và phương án cụ thể, chu đáo, xác định rõ những vấn
đề cần đi sâu khai thác, làm rõ, dự kiến những tình huống có thể phát sinh và
cách giải quyết. Quá trình tiếp xúc với các đối tượng phải giữ vững nguyên tắc
và phương pháp công tác đảng, chú trọng vận động, thuyết phục để động viên
trách nhiệm, nghĩa vụ, tinh thần tự giác của đối tượng. Bản thân cán bộ kiểm
tra cần có phẩm chất khiêm tốn, có khả năng tự chủ để luôn giữ thế chủ động trước
mọi tình huống, đặc biệt là không bị chi phối bởi quyền uy, thế lực hoặc sức
cám dỗ của vật chất. Cán bộ kiểm tra cần có khả năng lập luận sắc bén, bình
tĩnh, khôn khéo nhưng kiên quyết, đúng nguyên tắc, thấu tình, đạt lý, nêu đúng
vấn đề để giáo dục, thuyết phục, nhất là khi đối tượng không tự giác, có thái độ
cực đoan, động cơ không lành mạnh. Tuyệt đối không đe doạ, cưỡng ép, cài bẫy, hứa
hẹn vô nguyên tắc hoặc dùng thủ đoạn đối phó khi tiến hành thẩm tra, xác minh
và cũng không sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật
(như tạm giữ, tạm giam, cưỡng chế, bí mật theo dõi...) để thay phương pháp thẩm
tra, xác minh của Đảng. Khi cần thiết có thể phối hợp với các cơ quan bảo vệ
pháp luật để làm rõ sự thật về con người và sự việc đang kiểm tra, giám sát
nhưng việc phối hợp phải được thực hiện theo phương pháp công tác Đảng. Ngoài
ra, có thể cần sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại (như ghi âm, ghi hình,
vi tính) để nâng cao hiệu quả, chất lượng của thẩm tra, xác minh. Các thông tin
được cung cấp bằng lời, phải được ghi lại thành văn bản và có chữ ký xác nhận của
người đã cung cấp.
Ngoài những tài liệu, hiện vật,
bằng chứng nêu trên, cần chú ý thu thập những nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quyết định, quy chế, kết luận của Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề thẩm tra, xác minh, vì đó là một
trong những cơ sở, căn cứ quan trọng để nhận xét, đánh giá, kết luận đúng, sai
đối với tổ chức đảng và đảng viên. Nghị quyết, chỉ thị, quy định về một nội
dung nào đó có thể được bổ sung, sửa đổi nhiều lần, bằng nhiều văn bản khác
nhau, thậm chí có trường hợp văn bản này phủ định văn bản khác. Vì vậy, phải
thu thập đầy đủ để có điều kiện so sánh, đối chiếu, phân tích, đánh giá, lựa chọn
và xác định chuẩn xác, phù hợp.
Khi thu thập tài liệu, hiện vật,
chứng cứ, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối tượng, trực tiếp đọc những
thông tin, tài liệu, trực tiếp nhìn thấy các vật chứng, nếu cần thì trực tiếp đến
tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh. Không được chỉ nghe qua người
khác, nghe dư luận, có nhiều người biết sự việc nhưng chỉ nghe một vài người hoặc
chỉ coi trọng những gì đã được nghe, được đọc, nhìn lần đầu mà coi nhẹ những gì
được thu thập về sau. Mọi thông tin, tài liệu, hiện vật, bằng chứng thu thập được
ban đầu, dù phong phú, có độ tin cậy cao, nhưng thường là ở một phía, một kênh,
một chiều. Muốn đánh giá đúng sự thật, phải thu thập được bằng chứng xác thực
qua các thông tin, tài liệu, hiện vật, từ nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều
có liên quan đến sự việc cần làm rõ.
- Nghiên cứu, phân tích, xử
lý thông tin, tài liệu, bằng chứng đã thu thập được
+ Các thông tin, tài liệu, chứng
cứ đã thu thập phải được nghiên cứu, phân tích, so sánh, thẩm định, đánh giá, xử
lý một cách khách quan, thận trọng, chính xác làm cơ sở tin cậy để nhận xét,
đánh giá, kết luận và xử lý đúng.
+ Việc nghiên cứu, phân tích, xử
lý thông tin, tài liệu, bằng chứng là quá trình liên tục từ khi bắt đầu đến khi
kết thúc việc làm rõ sự thật, không chia tách, cắt khúc hoặc phân đoạn một cách
máy móc. Khi đọc một tài liệu, xem xét một hiện vật, tiếp nhận một thông tin,
tiếp xúc một đối tượng, tham dự một cuộc họp... cán bộ kiểm tra phải nhạy cảm,
suy nghĩ, phân tích, đánh giá thực chất của sự việc, hiện tượng, tình tiết,
phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, những vấn đề không hợp lý, chưa rõ hoặc có
dấu hiệu đang tiềm ẩn đằng sau đó một sự thật để vừa tiếp tục thu thập tài liệu,
thông tin, bằng chứng khác, vừa thuyết phục, gợi ý đấu tranh, cung cấp bằng chứng
để đối tượng được kiểm tra, giám sát từng bước tự nhận ra sự thật hoặc gần với
sự thật hơn.
+ Những thông tin, tài liệu, hiện
vật, bằng chứng đã thu thập phải được nghiên cứu, phân tích, thẩm định, đánh
giá lại tính khách quan, xác thực, hợp pháp, hợp lý của chúng. Trên cơ sở đó, bằng
phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, quy nạp, với quan điểm lịch sử, cụ
thể và bằng kiến thức, kinh nghiệm sống, sự tinh tế, nhạy cảm của mình, cán bộ
kiểm tra phải lật đi, lật lại vấn đề, đặt các giả thuyết và sử dụng thông tin,
tài liệu, hiện vật, bằng chứng đã thu thập được để chứng minh khẳng định hoặc
bác bỏ giả thuyết, loại dần các giả thuyết không hợp lý để cuối cùng có nhận
xét, đánh giá, kết luận đúng với sự thật. Đây là khâu quan trọng nhất, khó khăn
nhất, đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có tinh thần trách nhiệm cao, tác phong tỉ mỷ,
cụ thể, phương pháp khoa học và những kiến thức cần thiết.
- Trưng cầu ý kiến giám định
Khi thẩm tra, xác minh, có nhiều
vấn đề liên quan đến hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, cơ quan bảo vệ
pháp luật; trong đó có những nội dung cán bộ hoặc cơ quan kiểm tra không thể tự
mình làm sáng tỏ được nên khi cần thiết phải trưng cầu ý kiến giám định của cơ
quan chức năng có nghiệp vụ, chuyên môn.
Ví dụ: Bệnh viện giám định trạng
thái tâm thần của người bệnh; cơ quan công an giám định chữ viết, chữ ký, con dấu;
cơ quan công chứng Nhà nước thẩm định giấy tờ, văn bản; cơ quan tư tưởng, văn
hoá, thông tin thẩm định một bài báo, một tác phẩm có liên quan đến công tác kiểm
tra v.v... Các văn bản giám định phải được cấp có thẩm quyền ký và đóng dấu.
Thống nhất nội dung báo cáo kết
quả thẩm tra, xác minh trình cấp có thẩm quyền kết luận:
- Thông báo kết quả thẩm tra,
xác minh với đối tượng kiểm tra, giám sát và tổ chức đảng có liên quan; chú trọng
những nội dung liên quan trực tiếp đến đối tượng kiểm tra, giám sát nhằm mục
đích làm rõ tính khách quan qua tài liệu, hiện vật đã được thẩm tra, xác minh.
Ghi rõ ý kiến đồng ý, không đồng ý và ý kiến khác của đối tượng được kiểm tra,
giám sát và tổ chức có liên quan.
- Viết báo cáo kết quả thẩm
tra, xác minh: Trên cơ sở kết quả thẩm tra, xác minh, nếu thấy đủ cơ sở kết luận
thì viết báo cáo thẩm tra, xác minh. Nội dung báo cáo cần nêu rõ:
+ Những vấn đề cần thẩm tra,
xác minh (như nội dung tố cáo, nội dung khiếu nại, nội dung kiểm tra...)
+ Kết quả thẩm tra, xác minh từng
nội dung. Đối với những nội dung quan trọng, phức tạp, cần nêu rõ nội dung, đặc
điểm, tính chất, diễn biến, tình tiết của sự việc, thời gian, không gian diễn
ra sự việc; họ tên, địa chỉ, chức vụ nơi công tác những đối tượng có liên quan.
+ Nhận xét và đề nghị, cần khẳng
định sự việc có hay không có, đúng hay sai, khuyết điểm hay vi phạm; nếu vi phạm
thì nêu rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ của từng cá nhân và từng tổ chức; ý kiến đề nghị giải quyết.
IV. NHỮNG
VẤN ĐỀ CẦN NẮM VỮNG KHI TIẾN HÀNH THẨM TRA, XÁC MINH
1. Thông tin trong thẩm
tra, xác minh khi tiến hành công tác kiểm tra, giám sát là những tin tức có
ích, làm sâu thêm nhận thức của người nhận tin, được người nhận tin đánh giá, xử
lý và được coi là có ích trong quá trình ra quyết định. Đối với công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng thì "thông tin" chính là những tin tức có ích
về đối tượng kiểm tra, giám sát cần được thu thập, phân tích, thẩm định, đánh
giá, xử lý để làm rõ bản chất của sự việc, của đối tượng; thông qua những thông
tin đó, có thể có căn cứ để kết luận đúng sai, tốt xấu, thậm chí lượng hoá tính
chất, mức độ đúng sai mà lựa chọn và đề xuất giải pháp giải quyết, hình thức xử
lý phù hợp.
Để thẩm tra, xác minh, cán bộ
kiểm tra có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn: cấp trực tiếp quản lý giao
nhiệm vụ, văn bản của Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ Quốc, các đoàn thể chính trị
- xã hội về những vấn đề liên quan đến việc đối tượng kiểm tra, giám sát thực
hiện, dư luận của quần chúng, cơ quan có liên quan hoặc các cơ quan ngôn luận
phản ảnh, dư luận từ nội bộ, từ bên ngoài hoặc từ những người tố cáo, khiếu nại,
người làm chứng, từ chính bản thân đối tượng kiểm tra, giám sát cung cấp, giải
trình; không xem nhẹ hoặc bỏ qua bất cứ một nguồn nào để từ đó chọn lựa định hướng
đúng khi thu thập và xử lý thông tin, tài liệu, hiện vật.
Trong quá trình thu thập và xử
lý thông tin, tài liệu, chứng cứ, mọi hoạt động của cán bộ kiểm tra đều liên
quan và có ảnh hưởng trực tiếp đến diễn biến và kết quả thu thập, xử lý thông
tin tài liệu, chứng cứ. Do vậy, đây là công việc rất quan trọng và thường xuyên
trong các hoạt động nghiệp vụ kiểm tra, giám sát.
2. Tiếp cận đối tượng
- Đối tượng của hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát là tổ chức đảng, đảng viên hoặc
tổ chức, cá nhân liên quan. Mỗi loại đối tượng có đặc điểm về trình độ, khả
năng nhận thức khác nhau. Cán bộ kiểm tra phải tìm hiểu, tâm lý, đặc điểm riêng
của từng đối tượng để có phương pháp tiếp cận thích hợp mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Phương hướng chung để tiếp cận đối tượng là kết hợp vận dụng
đường lối, chính sách, quan điểm, nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước với
tâm lý học để động viên, thuyết phục đối tượng bảo đảm cho mỗi kết luận kiểm
tra, nhận xét, đánh giá giám sát được tổ chức đảng và mọi đảng viên thừa nhận
khách quan, có lý, có tình và thực hiện nghiêm túc.
- Hoạt động thẩm tra, xác minh
là quá trình tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin, tài liệu, bằng chứng. Để
thu thập được thông tin, tài liệu, bằng chứng, cán bộ kiểm tra cần gặp, làm việc
với các đối tượng liên quan đến vụ việc như: người tố cáo, người bị tố cáo, người
khiếu nại, tổ chức có thẩm quyền xử lý kỷ luật bị khiếu nại, tổ chức đảng, đảng
viên được kiểm tra, giám sát; cá nhân và tổ chức biết sự việc hoặc có liên quan
đến sự việc đang được tiến hành thẩm tra, xác minh,... Đó là những người có địa
vị, mối quan hệ xã hội, trình độ, năng lực, kiến thức, lợi ích, tâm tư, tình cảm,
lứa tuổi, giới tính, cá tính rất khác nhau. Để cuộc tiếp xúc đạt kết quả, cán bộ
kiểm tra phải tuân thủ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, phương pháp công tác
đảng, nắm những kiến thức cơ bản về pháp luật, tâm lý học, khoa học điều tra và
vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong quá trình thẩm tra, xác minh.
3. Thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là công tác đảng, là một trong những
khâu quan trọng và khó khăn nhất của công tác kiểm tra, giám sát. Để thẩm tra,
xác minh có chất lượng, kết quả đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải tinh thông nghề
nghiệp, có bản lĩnh vững vàng, trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật, nắm vững
và thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, phương pháp công tác đảng,
tránh định kiến cá nhân và các tư tưởng né tránh hoặc hữu khuynh.
4. Thẩm tra, xác minh để
làm rõ sự thật thông qua các thông tin, tài liệu, bằng chứng, tự phê bình và
phê bình, tự kiểm điểm, lời khai, lời tố cáo, quần chúng phát hiện v.v... trong
đó, bằng chứng xác thực là quan trọng nhất. Phải đặc biệt coi trọng bằng chứng,
tìm cho được bằng chứng, kể cả bằng chứng vi phạm và bằng chứng không vi phạm,
bằng chứng ngoại phạm. Không có bằng chứng xác thực thì không thể kết luận được.
5. Để thu thập bằng chứng
từ các tổ chức và cá nhân có liên quan, cán bộ kiểm tra cần tạo không khí cởi mở,
hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, chủ động tiếp cận, ứng xử phù hợp, giữ vững nguyên
tắc nhưng khiêm tốn, chân thành và nghiêm túc; tôn trọng, thông cảm với đối tượng.
Cán bộ kiểm tra là người đại diện
cho tổ chức đảng thực hiện chức trách, quyền hạn được giao. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ, cán bộ kiểm tra phải thường xuyên nâng cao kiến thức, năng lực, tích luỹ
kinh nghiệm, tự hoàn thiện mình về phẩm chất, bản lĩnh phong cách công tác;
phương pháp, kỹ năng giao tiếp, cách đặt câu hỏi, xử lý tình huống bất ngờ xảy
ra và kỹ năng nghe, ghi để phản ảnh trung thực buổi làm việc. Phải biết cách gợi
mở vấn đề để thu thập bằng chứng; có cách ứng xử phù hợp với các tình huống xảy
ra trong quá trình làm việc, tránh “lấy lòng” đối tượng bằng những lời hứa hẹn
vô nguyên tắc. Sau mỗi cuộc làm việc phải rút kinh nghiệm để điều chỉnh phương
pháp làm việc hoặc hoàn thiện mình.
6. Trước khi tiếp xúc, cần
chuẩn bị kỹ các phương án và các câu hỏi đặt ra với đối tượng; câu hỏi phải rõ
ràng, cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, có cơ sở và có liên quan đến vấn đề cần xác
minh. Câu hỏi phải theo trình tự hợp lý và bảo đảm sự liên hệ giữa câu hỏi trước
với câu hỏi sau phù hợp với năng lực, trình độ của đối tượng. Trong câu hỏi
tránh bao hàm câu trả lời, tránh lộ ý định, tránh làm đối tượng lo ngại hoặc đối
tượng khó hiểu, hiểu khác hoặc cho là bị xúc phạm. Trong quá trình làm việc có
thể xuất hiện những tình huống, tình tiết mới phải đặt thêm câu hỏi để làm rõ,
nhưng không được gây căng thẳng cho đối tượng.
7. Chọn địa điểm và thời
gian thích hợp cũng là điều kiện cần thiết để thiết lập quan hệ giao tiếp có kết
quả.
8. Giữ bí mật, bảo vệ
người cung cấp thông tin, tài liệu, hiện vật bằng chứng và các thông tin, tài
liệu, hiện vật thẩm tra, xác minh thu thập được trong suốt quá trình thực hiện
nhiệm vụ.
V. CÂU
HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Phân tích ý
nghĩa, tác dụng của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng?
Câu 2: Nêu phương pháp
tiến hành thẩm tra, xác minh. Liên hệ việc thực hiện phương pháp này ở ủy ban
kiểm tra nơi đồng chí công tác?
Câu 3: Phân tích nhận định:
Thẩm tra, xác minh là khâu quan trọng nhất trong công tác kiểm tra của Đảng.
Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ này ở tổ chức đảng nơi đồng chí công tác?
Câu 4: Nêu sự giống nhau
và khác nhau giữa thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng với công
tác thanh tra, điều tra của cơ quan nhà nước?
Câu 5: Nêu những khó
khăn, vướng mắc có thể gặp trong quá trình thẩm tra, xác minh. Liên hệ thực tiễn
một vụ việc tại cơ quan, đơn vị nơi đồng chí công tác?
CHUYÊN ĐỀ 4: KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG VÀ VIỆC THI HÀNH KỶ LUẬT
TRONG ĐẢNG
I. KỶ
LUẬT CỦA ĐẢNG
1. Khái
niệm kỷ luật của Đảng
Kỷ luật của Đảng là tổng thể những
điều đã được quy định trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng có tính chất
bắt buộc đối với hoạt động của tất cả tổ chức đảng và đảng viên nhằm bảo đảm sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong toàn Đảng.
2. Mục
đích, ý nghĩa kỷ luật của Đảng
Đảng điều chỉnh hoạt động của
các tổ chức đảng và đảng viên bằng Điều lệ, kỷ luật của Đảng; Nhà nước điều chỉnh
hành vi các thành viên trong xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật; các tổ chức
trong xã hội điều chỉnh hành vi của các thành viên trong tổ chức mình bằng điều
lệ, nghị quyết, chỉ thị, kỷ luật của các tổ chức đó. Kỷ luật chặt chẽ thì tổ chức
vững mạnh; kỷ luật lỏng lẻo thì tổ chức suy yếu; thiếu kỷ luật thì tổ chức khó
tránh khỏi tan rã. Kỷ luật gắn liền với tổ chức, bảo đảm cho tổ chức tồn tại,
hoạt động và phát triển.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: “... những
người bôn-sê-vích sẽ không giữ vững được chính quyền, tôi không nói được tới
hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu đảng ta
không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”[7]. Người còn nhấn mạnh: “Kẻ nào làm yếu -
dù chỉ là chút ít - kỷ luật sắt trong đảng của giai cấp vô sản (nhất là trong
thời kỳ chuyên chính của nó) là thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai
cấp vô sản”[2].
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hoạt động của mình, là một tổ chức
chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản, do đó vấn đề tổ chức, kỷ luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất
là trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, đang lãnh đạo công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, cũng đang có những thách thức,
nguy cơ đan xen.
Lịch sử và thực tiễn đã chứng
minh và khẳng định rằng, Đảng ta không thể tồn tại và lãnh đạo nhân dân giành lấy
chính quyền, giữ vững chính quyền nếu không có kỷ luật nghiêm minh. Cho nên, từ
khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề kỷ luật. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ
như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”[8]. Chính nhờ có kỷ luật nghiêm minh mà hơn 86 năm qua, Đảng
ta đã đứng vững trước mọi thử thách hiểm nghèo và lãnh đạo cách mạng giành thắng
lợi vẻ vang qua các thời kỳ. Ngày nay, cách mạng nước ta đã chuyển sang thời kỳ
phát triển mới, vừa có nhiều thời cơ, thuận lợi lớn, vừa có những thách thức,
nguy cơ lớn. Sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới,
tự chỉnh đốn, kịp thời khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém, nâng cao
hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tăng cường bản chất giai cấp công
nhân và tính tiên phong của Đảng. Trước yêu cầu đó, vấn đề kỷ luật của Đảng
càng cực kỳ quan trọng, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa mang tính thời sự,
cấp bách. Kỷ luật nghiêm minh mới bảo đảm cho đường lối, chính sách, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng được chấp hành triệt để, không bị chệch hướng; năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng mới được tăng cường.
Kỷ luật của Đảng có tầm quan trọng
đặc biệt trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng Đảng, bảo đảm cho sự tồn
tại, hoạt động và phát triển của Đảng. Mọi biểu hiện coi thường kỷ luật của Đảng,
tự đặt mình lên trên tổ chức, ra ngoài tổ chức và những hành động vi phạm kỷ luật
của Đảng, dù nhỏ, đều ảnh hưởng đến uy tín và làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng.
Trong tình hình hiện nay, Đảng ta càng cần có kỷ luật nghiêm minh.
3. Tính
chất kỷ luật của Đảng
Bắt nguồn từ bản chất giai cấp
của Đảng, nên “Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự
giác”[9].
3.1. Nghiêm túc
Nghiêm túc là tất cả tổ chức đảng
và đảng viên đều phải phục tùng kỷ luật của Đảng, phải chấp hành các nguyên tắc
tổ chức của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn Đảng phải triệu
người như một, tuyệt đối không ai được bằng bất cứ cách nào, dưới bất cứ hình
thức gì truyền bá những quan điểm, tư tưởng trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
Đảng tôn trọng quyền bảo lưu ý kiến của thiểu số, song mọi đảng viên đều phải
thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nói và làm theo nghị quyết của Đảng,
ai vi phạm đều phải được xem xét, nếu cần thiết, phải bị thi hành kỷ luật. Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã
quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách
thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện”[2].
Đảng yêu cầu tất cả tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành kỷ luật đảng vô điều
kiện. Đảng không giảm bớt yêu cầu đối với ai, không ai được coi là ngoại lệ.
“Đảng viên, cán bộ phải rèn
luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ,
tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng. Không để một đảng
viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức”[10].
3.2. Tự giác
Tự giác là đặc trưng cơ bản của
kỷ luật đảng. Vì Đảng ta bao gồm những người thừa nhận và tự nguyện phấn đấu thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, lấy việc phấn đấu cho mục đích, lý tưởng
của Đảng, lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm lẽ sống của mình. Mọi đảng viên
đều ý thức sâu sắc rằng, giữ gìn kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự thống nhất ý chí
và hành động của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, nên dù trong lĩnh vực
hoạt động nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào, càng khó khăn, phức tạp, càng phải
đề cao tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng.
Song, chỉ có tự giác thì chưa đủ
mà kỷ luật còn phải có tính chất bắt buộc. Bắt buộc là nhân tố tất yếu phải có
đối với bất kỳ kỷ luật của tổ chức nào. Nhưng bắt buộc trong kỷ luật của Đảng
được xây dựng trên cơ sở giác ngộ chính trị, giác ngộ giai cấp của tất cả đảng
viên; giác ngộ càng cao, nhân tố bắt buộc càng trở thành tự giác.
3.3. Tính nghiêm túc và tự
giác của kỷ luật đảng
Tính nghiêm túc và tự giác của
kỷ luật đảng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ, bắt
buộc và tự giác. Nghiêm túc phải trên cơ sở tự giác, tự giác càng cao thì kỷ luật
càng nghiêm túc. Sự thống nhất và kết hợp giữa nghiêm túc và tự giác là điều kiện
bảo đảm cho kỷ luật đảng thực sự là kỷ luật sắt.
4. Nội
dung kỷ luật của Đảng
Nội dung kỷ luật của Đảng bao gồm
những vấn đề sau:
4.1. Kỷ luật nội bộ Đảng
- Cương lĩnh chính trị của Đảng
định hướng về đường lối, quan điểm, chính sách, hệ thống chính trị và vai trò
lãnh đạo của Đảng để xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tất cả tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị của Đảng. Làm trái Cương lĩnh chính trị là vi phạm kỷ luật đảng.
- Điều lệ Đảng là “bộ luật”
chung của toàn Đảng, quy định mục đích của Đảng; các nguyên tắc cơ bản về xây dựng
Đảng; nguyên tắc tổ chức và hệ thống tổ chức của Đảng; nhiệm vụ, quyền hạn của
các tổ chức đảng và đảng viên; sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; việc khen thưởng và kỷ luật đảng,
v.v… Toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng phải được tiến
hành trên cơ sở các quy định của Điều lệ Đảng. Vi phạm Điều lệ Đảng là vi phạm
kỷ luật đảng.
- Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng còn được thể hiện và quán triệt trong các nghị quyết đại hội đảng ở các cấp,
được cụ thể hoá thành nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết
luận của các tổ chức đảng. Tất cả tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành
nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận, hướng
dẫn của Đảng; vi phạm trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy
chế, quyết định, kết luận, hướng dẫn của Đảng là vi phạm kỷ luật đảng.
4.2. Kỷ luật về mặt Nhà
nước
Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
đường lối, quan điểm, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng được thể chế hoá
thành Hiến pháp, pháp luật, nghị định, quyết định... của Nhà nước. Đảng Cộng sản
Việt Nam “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[11]. Do đó tất cả tổ
chức đảng và đảng viên cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng viên vi phạm Hiến pháp và pháp luật cũng là vi phạm kỷ luật đảng, ngoài việc
xem xét kỷ luật đảng còn phải được xem xét kỷ luật về Nhà nước, chính quyền.
4.3. Kỷ luật của tổ chức
chính trị - xã hội
Các tổ chức chính trị - xã hội
được lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng trong phạm vi tổ chức của mình. Để hình thành, tồn tại, phát triển
và thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, mỗi tổ chức chính trị - xã hội
đều có điều lệ, kỷ luật riêng. “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục
tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân
dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”[12]. Đảng viên sinh hoạt và hoạt động trong
các tổ chức chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của đoàn thể
chính trị - xã hội mà mình tham gia. Vi phạm kỷ luật tổ chức chính trị - xã hội
mà mình tham gia cũng là vi phạm kỷ luật đảng.
II. VIỆC
THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG
1. Khái
niệm thi hành kỷ luật
Thi hành kỷ luật trong Đảng là
việc các tổ chức đảng có thẩm quyền được quyền thi hành kỷ luật đối với tổ chức
đảng và đảng viên có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật bằng một trong những
hình thức kỷ luật được quy định tại Khoản 2 Điều 35, Điều lệ Đảng.
2. Ý
nghĩa, tác dụng
2.1. Tăng cường kỷ
luật của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của tất cả tổ chức đảng và đảng
viên để nâng cao tính đảng, tính giai cấp, giữ vững kỷ cương của Đảng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo và xây dựng Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Tăng cường kỷ luật không có nghĩa là phải thi hành kỷ luật cho nhiều, cho nặng
mà chủ yếu là phải thường xuyên giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị, giác ngộ
giai cấp, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm để các tổ chức đảng và
đảng viên nghiêm túc và tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng. Nhưng nếu tổ chức đảng
và đảng viên vi phạm tới mức phải thi hành kỷ luật thì cần phải thi hành kỷ luật
để giữ vững sự thống nhất ý chí và hành động, tăng cường sức chiến đấu của Đảng,
giáo dục tổ chức đảng và đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy
bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc
nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn
cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì
cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng”[13].
2.2. Thi hành kỷ
luật trong Đảng là công việc quan trọng và cần thiết, nhằm giữ vững kỷ cương, kỷ
luật của Đảng, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, tăng cường sức chiến đấu
của Đảng, giáo dục tổ chức đảng và đảng viên. Việc thi hành kỷ luật phải bảo đảm
đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục mà Điều lệ Đảng, nghị quyết
của Đảng đã quy định. Cần đấu tranh chống các khuynh hướng không công bằng,
buông lỏng hoặc khắt khe và các khuynh hướng sai lầm khác trong việc thi hành kỷ
luật của Đảng.
3. Phương
hướng thi hành kỷ luật trong Đảng
3.1. Trong mỗi
giai đoạn cách mạng, do nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng có yêu cầu,
nội dung cụ thể khác nhau; do tư tưởng và hành động, ưu điểm và khuyết điểm của
các tổ chức đảng và đảng viên có những diễn biến khác nhau, nên yêu cầu, nội
dung về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, về trách nhiệm, về tổ chức, kỷ
luật đối với tổ chức đảng và đảng viên cũng có những điểm khác nhau. Vì vậy, phải
căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng từng thời kỳ mà
xác định phương hướng thi hành kỷ luật cho sát, đúng.
3.2. Trong điều
kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế,
trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, cùng với sự phát triển
nhảy vọt của khoa học - công nghệ, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu
tác động của nhiều nhân tố rất phức tạp. Trước yêu cầu thực hiện cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Khai trừ những
đảng viên thoái hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước”[14]. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai
cán bộ tham nhũng; tịch thu, sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc
từ tham nhũng”[15]. “Xử
lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối
sống”[3]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục
khẳng định: “xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết
điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý”[16]. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "xử lý kịp thời,
kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm"[17].
3.3. Phương hướng
thi hành kỷ luật trong Đảng trong giai đoạn hiện nay gắn chặt với nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát đã được xác định rõ trong điểm 3, Mục I Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng (Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 30-7-2007). Đảng viên ở
bất kỳ cương vị nào nếu vi phạm một trong những nội dung đó đều phải xử lý
nghiêm minh. Đối với những vi phạm khác đến mức phải xử lý kỷ luật cũng phải
xem xét, thi hành kỷ luật kịp thời để răn đe, hạn chế và phòng ngừa vi phạm.
4. Phương
châm thi hành kỷ luật đảng
Phương châm thi hành kỷ luật đảng
thể hiện rõ quan điểm, chính sách xử lý của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm. Điều 35, Điều lệ Đảng quy định: “Tổ chức
đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công minh, chính xác, kịp thời”[18].
4.1. Công minh
- Tất cả đảng viên đều bình đẳng
trước kỷ luật của Đảng, nếu vi phạm đến mức phải kỷ luật đều phải xử lý kỷ luật
nghiêm minh, không có ngoại lệ. Cần khắc phục tình trạng đảng viên vi phạm
không được kiểm điểm, xử lý nghiêm túc mà cho chuyển công tác khác.
Đảng viên vi phạm pháp luật đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết,
không được xử lý nội bộ. Nếu làm thất thoát tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước,
của tổ chức, cá nhân thì phải xem xét trách nhiệm và bồi hoàn.
Đảng viên sau khi chuyển sinh
hoạt đảng sang tổ chức đảng mới, nếu phát hiện hoặc bị tố cáo có vi phạm kỷ luật
ở nơi sinh hoạt đảng trước đây mà chưa được xem xét, xử lý thì do tổ chức đảng
cấp trên của các đảng bộ nơi quản lý đảng viên trước đây và hiện nay xem xét, xử
lý hoặc chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới xem xét, xử lý theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo
tổ chức đảng cấp dưới xem xét, xử lý theo thẩm quyền.
- Kỷ luật đảng không thay thế kỷ
luật hành chính, kỷ luật đoàn thể hoặc xử lý bằng pháp luật và ngược lại. Tổ chức
đảng sau khi xem xét, xử lý hoặc chỉ đạo việc xem xét, xử lý về kỷ luật đảng,
phải chỉ đạo hoặc đề nghị ngay với các tổ chức có trách nhiệm xem xét, xử lý kỷ
luật về hành chính, đoàn thể hoặc xử lý hình sự cho đồng bộ, tương xứng, kịp thời.
Đảng viên là cấp uỷ viên các cấp
hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý đã nghỉ hưu, nếu phát hiện có vi
phạm khi đang công tác thì thẩm quyền thi hành kỷ luật của các tổ chức đảng được
thực hiện như đang đương chức; nếu có vi phạm khi đã nghỉ hưu thì do tổ chức đảng
quản lý đảng viên đó xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.
Đảng viên vi phạm đang trong thời
gian mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, bị bệnh nặng thì chưa
xem xét, xử lý kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm đã qua đời, tổ chức đảng
xem xét, không xử lý kỷ luật, trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Tổ chức đảng quyết định kỷ luật
oan, sai đối với đảng viên phải thay đổi hoặc huỷ bỏ quyết định đó, đồng thời tự
phê bình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm; nếu vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật
thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định.
- Đảng viên bị kỷ luật oan, sai
phải được xin lỗi và phục hồi quyền lợi. Việc xin lỗi và phục hồi quyền lợi thực
hiện theo quy định của Bộ Chính trị.
- Việc xử lý kỷ luật phải đúng
người vi phạm; khắc phục tình trạng “ô dù, bao che”, kỷ luật “nhẹ trên, nặng dưới”
làm cho việc xử lý kỷ luật không nghiêm túc hoặc để các hiện tượng tiêu cực
phát triển, gây bất bình trong Đảng và trong xã hội.
4.2. Chính xác
- Khi thi hành kỷ luật phải căn
cứ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, ảnh hưởng, nguyên nhân vi phạm, hoàn cảnh
cụ thể và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xem xét, quyết định hình thức
kỷ luật cho phù hợp theo thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó.
Nếu hết thời hiệu thì không xem xét, xử lý kỷ luật.
- Thời hiệu xử lý kỷ luật tổ chức
đảng, đảng viên vi phạm thực hiện theo Quy định của Bộ Chính trị Khoá XII.
- Trong xử lý, phải kết hợp xem
xét kết quả tự phê bình và phê bình với kết quả thẩm tra, xác minh để bảo đảm kết
luận khách quan, đầy đủ, chính xác. Cần làm rõ nguyên nhân, phân biệt sai lầm,
khuyết điểm do trình độ, năng lực; động cơ vì lợi ích chung hay vì lợi ích cá
nhân, cục bộ mà cố ý làm trái; vi phạm nhất thời hay có hệ thống; đã qua giáo dục,
ngăn chặn vẫn làm trái; không tự giác nhận lỗi, không bồi hoàn hoặc có hành vi
đối phó; phân biệt đảng viên khởi xướng, tổ chức, quyết định với đảng viên bị
lôi kéo, đồng tình làm sai.
- Đảng viên là người dân tộc
thiểu số công tác, sinh hoạt ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa (theo quy định của
Nhà nước), đảng viên theo tôn giáo vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì
căn cứ tình hình thực tế và quy định để xem xét, vận dụng xử lý cho phù hợp.
4.3. Kịp thời
- Là việc xem xét, thi hành kỷ
luật phải khẩn trương, đúng lúc, không để chậm trễ, kéo dài, gây thêm khó khăn
cho việc thẩm tra, xác minh, kết luận, xử lý, làm giảm ý nghĩa, tác dụng giáo dục
và không đáp ứng yêu cầu phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng.
- Kỷ luật đảng không thay thế kỷ
luật hành chính, kỷ luật đoàn thể hoặc việc xử lý bằng pháp luật và ngược lại
(trừ trường hợp có quy định khác). Tổ chức đảng sau khi xem xét, xử lý hoặc chỉ
đạo việc xem xét, xử lý về kỷ luật đảng, phải chỉ đạo hoặc đề nghị ngay với các
tổ chức có trách nhiệm xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, đoàn thể hoặc xử
lý hình sự cho đồng bộ, kịp thời.
- Sau khi ban hành quyết định kỷ
luật thì phải công bố ngay cho tổ chức đảng hoặc đảng viên có vi phạm để chấp
hành và phải kịp thời báo cáo lên cấp trên, gửi tới các tổ chức đảng có liên
quan theo quy định.
- Để chủ động phòng ngừa đảng
viên, tổ chức đảng vi phạm và việc thi hành kỷ luật được kịp thời, các tổ chức
đảng, đặc biệt là chi bộ phải thường xuyên nắm chắc tình hình tổ chức đảng, đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà
nước; khi phát hiện đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm thì kịp thời
xem xét, kết luận và xử lý kỷ luật ngay, nếu có vi phạm đến mức phải kỷ luật.
Có biện pháp tăng cường giáo dục, quản lý đảng viên vi phạm, không để đảng viên
vắng mặt trong quá trình kiểm tra để kịp thời nhận và chấp hành quyết định kỷ
luật.
Khi các tổ chức nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội đình chỉ công tác hoặc xử lý kỷ luật đối
với cán bộ, hội viên, đoàn viên là đảng viên thì phải chủ động thông báo ngay
cho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó để xem xét, xử lý kỷ luật đảng. Sau khi
giải quyết khiếu nại kỷ luật về Đảng, nếu có thay đổi hình thức kỷ luật thì tổ
chức đảng có thẩm quyền chỉ đạo việc xem xét lại hình thức kỷ luật về hành
chính, đoàn thể.
5. Hình
thức kỷ luật của Đảng
- Đối với tổ chức đảng: khiển
trách, cảnh cáo, giải tán.
- Đối với đảng viên chính thức:
khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ.
- Đối với đảng viên dự bị: khiển
trách, cảnh cáo.
6. Nguyên
tắc, trình tự xem xét, cách thức bỏ phiếu, một số trường hợp cụ thể trong thi
hành kỷ luật trong Đảng và đình chỉ sinh hoạt đảng
6.1.
Nguyên tắc thi hành kỷ luật trong Đảng
- Tổ chức đảng và đảng viên vi
phạm kỷ luật phải được xử lý công minh, chính xác, kịp thời; tất cả đảng viên đều
bình đẳng trước kỷ luật của Đảng, nếu vi phạm đến mức phải kỷ luật đều phải xử
lý kỷ luật nghiêm minh.
- Đảng viên vi phạm pháp luật đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết,
không được xử lý nội bộ. Nếu làm thất thoát tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước,
của tổ chức, cá nhân thì phải xem xét trách nhiệm và bồi hoàn.
- Đảng viên sau khi chuyển sinh
hoạt đảng sang tổ chức đảng mới, nếu phát hiện hoặc bị tố cáo có vi phạm kỷ luật
ở nơi sinh hoạt đảng trước đây mà chưa được xem xét, xử lý thì do tổ chức đảng
cấp trên của các đảng bộ nơi quản lý đảng viên trước đây và hiện nay xem xét, xử
lý hoặc chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới xem xét, xử lý theo thẩm quyền.
- Việc thi hành kỷ luật phải
căn cứ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, ảnh hưởng, nguyên nhân vi phạm,
hoàn cảnh cụ thể và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ để xem xét, quyết định
cho phù hợp và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nếu hết thời hiệu thì
không xem xét, xử lý kỷ luật.
- Kỷ luật đảng không thay thế kỷ
luật hành chính, kỷ luật đoàn thể hoặc việc xử lý bằng pháp luật và ngược lại
(trừ trường hợp có quy định khác). Tổ chức đảng sau khi xem xét, xử lý hoặc chỉ
đạo việc xem xét, xử lý về kỷ luật đảng, phải chỉ đạo hoặc đề nghị ngay với các
tổ chức có trách nhiệm xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, đoàn thể hoặc xử
lý hình sự cho đồng bộ, kịp thời.
Khi các tổ chức nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội đình chỉ công tác hoặc xử lý kỷ luật đối
với cán bộ, hội viên, đoàn viên là đảng viên thì phải chủ động thông báo ngay
cho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó để xem xét, xử lý kỷ luật đảng. Sau khi
giải quyết khiếu nại kỷ luật về Đảng, nếu có thay đổi hình thức kỷ luật thì tổ
chức đảng có thẩm quyền chỉ đạo việc xem xét lại hình thức kỷ luật về hành
chính, đoàn thể.
- Đối với đảng viên là cấp uỷ
viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý đã nghỉ hưu, nếu
phát hiện có vi phạm khi đang công tác thì thẩm quyền thi hành kỷ luật của các
tổ chức đảng được thực hiện như đang đương chức; nếu có vi phạm khi đã nghỉ hưu
thì do tổ chức đảng quản lý đảng viên đó xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.
- Đảng viên vi phạm đang trong
thời gian mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, bị bệnh nặng thì
chưa xem xét, xử lý kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm đã qua đời tổ chức đảng
xem xét, không xử lý kỷ luật, trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Tổ chức đảng quyết định kỷ luật
oan, sai đối với đảng viên phải thay đổi hoặc huỷ bỏ quyết định đó, đồng thời tự
phê bình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm; nếu vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật
thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định.
- Đảng viên chính thức vi phạm
nghiêm trọng đến mức phải khai trừ thì phải kỷ luật khai trừ, không áp dụng biện
pháp xoá tên, không chấp nhận việc xin ra khỏi Đảng.
- Đảng viên dự bị vi phạm đến mức
phải kỷ luật thì kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo, Khi hết thời hạn dự bị, chi
bộ vẫn tiến hành xét công nhận đảng viên chính thức. Nếu vi phạm đến mức không
còn đủ tư cách đảng viên thì xoá tên trong danh sách đảng viên.
- Khi kỷ luật một tổ chức đảng
phải xem xét trách nhiệm, xử lý kỷ luật đối với những đảng viên vi phạm, nhất
là trách nhiệm người đứng đầu tổ chức đảng.
- Đảng viên bị kỷ luật oan, sai
phải được xin lỗi và phục hồi quyền lợi. Việc xin lỗi và phục hồi quyền lợi thực
hiện theo quy định của Bộ Chính trị.
6.2.
Trình tự xem xét, quyết định thi hành kỷ luật
a) Trước khi quyết định kỷ
luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định kỷ luật nghe đảng viên
vi phạm hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm trình bày ý kiến và ý kiến này được
báo cáo đầy đủ (kèm theo bản tự kiểm điểm) khi tổ chức đảng có thẩm quyền họp
xem xét, quyết định kỷ luật hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm, đảng viên vi phạm
có thể trình bày ý kiến trực tiếp với tổ chức đảng có thẩm quyền tại hội nghị
xem xét, quyết định kỷ luật. Nếu đảng viên hoặc người đại diện tổ chức đảng vi
phạm không trực tiếp trình bày ý kiến với đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền
khi được yêu cầu thì báo cáo với tổ chức đảng đó bằng văn bản và phải nghiêm chỉnh
chấp hành sau khi có quyết định kỷ luật.
b) Trình tự xem xét, định kỷ
luật đảng viên
- Đảng viên vi phạm kỷ luật phải
kiểm điểm trước chi bộ, tự nhận hình thức kỷ luật; nếu từ chối kiểm điểm hoặc bị
tạm giam, tổ chức đảng vẫn tiến hành xem xét kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp
uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp có thẩm quyền trực tiếp xem xét kỷ luật.
- Cấp uỷ hướng dẫn đảng viên vi
phạm kỷ luật chuẩn bị bản tự kiểm điểm. Hội nghị chi bộ thảo luận, góp ý và kết
luận rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết
tăng nặng hoặc giảm nhẹ và biểu quyết (đề nghị hoặc quyết định) kỷ luật. Đại diện
cấp uỷ tham dự hội nghị chi bộ xem xét kỷ luật đảng viên là cấp uỷ viên hoặc
cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý.
- Đảng viên vi phạm một trong
các trường hợp sau thì cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền trực tiếp xem
xét, quyết định kỷ luật, không cần yêu cầu đảng viên đó phải kiểm điểm trước
chi bộ: Vi phạm khi thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao; nội dung vi phạm liên
quan đến bí mật của Đảng và Nhà nước mà chi bộ không biết; vi phạm trước khi
chuyển đến sinh hoạt ở chi bộ.
- Đảng viên sinh hoạt đảng tạm
thời, nếu vi phạm kỷ luật thì cấp uỷ nơi đảng viên sinh hoạt tạm thời có trách
nhiệm xem xét, xử lý kỷ luật tới mức cảnh cáo. Sau khi xử lý kỷ luật phải thông
báo bằng văn bản cho cấp uỷ nơi đảng viên sinh hoạt chính thức biết.
- Tổ chức đảng cấp trên có thẩm
quyền khi phát hiện cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên
quản lý có vi phạm phải chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là chi bộ xem
xét, xử lý kỷ luật theo thẩm quyền. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xem
xét, xử lý hoặc xử lý không đúng mức thì tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên
xem xét, xử lý kỷ luật; đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng cấp dưới
và người đứng đầu tổ chức đảng đó.
c) Trình tự xem xét, quyết định
kỷ luật tổ chức đảng.
- Tổ chức đảng vi phạm phải tự
kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật và báo cáo cấp uỷ cấp trên xem xét, quyết
định.
- Nếu tổ chức đảng sau khi chuyển
giao, sáp nhập, chia tách hoặc kết thúc hoạt động mới phát hiện có vi phạm thì
tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên của tổ chức đảng đó xem xét, xử lý.
6.3.
Trình tự, thủ tục, cách thức bỏ phiếu thi hành kỷ luật
a) Sau khi xem xét, kết luận tổ
chức đảng, đảng viên có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì tổ chức đảng
phải bỏ phiếu biểu quyết hình thức kỷ luật bằng phiếu kín.
b) Tổ chức đảng và đảng viên vi
phạm không thuộc thẩm quyền quyết định kỷ luật của cấp mình thì đề nghị cấp có
thẩm quyền quyết định.
c) Cách tính số phiếu biểu quyết
- Kết quả biểu quyết quyết định
các hình thức kỷ luật cụ thể mà không có hình thức kỷ luật nào đủ số phiếu theo
quy định, thì cộng dồn số phiếu từ hình thức kỷ luật cao nhất xuống đến hình thức
kỷ luật liền kề thấp hơn, đến hình thức nào mà kết quả có đủ đa số phiếu theo
quy định thì quyết định kỷ luật bằng hình thức đó.
- Quyết định kỷ luật hoặc đề
nghị kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, cách chức đối với đảng viên; khiển trách, cảnh
cáo đối với tổ chức đảng phải được biểu quyết với sự đồng ý của trên một nửa số
đảng viên chính thức hoặc thành viên của tổ chức đảng đó.
- Trường hợp khai trừ đảng viên
phải được ít nhất hai phần ba số đảng viên chính thức hoặc thành viên của tổ chức
đảng đó nhất trí đề nghị và được sự nhất trí của trên một nửa số thành viên tổ
chức đảng cấp trên có thẩm quyền quyết định.
- Trường hợp giải tán tổ chức đảng
phải được ít nhất hai phần ba số thành viên cấp uỷ cấp trên trực tiếp đề nghị,
cấp uỷ cấp trên cách một cấp quyết định với sự đồng ý của trên một nửa số thành
viên.
- Một nửa hay hai phần ba quy định
ở trên được tính trên tổng số đảng viên chính thức hoặc thành viên có quyền biểu
quyết của tổ chức đảng, không tính trên số thành viên có mặt trong cuộc họp:
+ Ở chi bộ là tổng số đảng viên
chính thức (trừ số đảng viên bị đình chỉ sinh hoạt đảng, đảng viên đã được giới
thiệu sinh hoạt tạm thời ở đảng bộ khác và đảng viên đã được miễn công tác,
sinh hoạt đảng không có mặt tại cuộc họp); nếu đảng viên được giới thiệu sinh
hoạt tạm thời, đảng viên đã được miễn công tác, sinh hoạt đảng đó có mặt ở cuộc
họp, tham gia biểu quyết thì vẫn tính.
+ Ở cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ
hoặc uỷ ban kiểm tra là tổng số cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ hoặc tổng số
thành viên uỷ ban kiểm tra đương nhiệm (trừ số thành viên đã chuyển sinh hoạt đảng
tạm thời không có mặt tại hội nghị, cấp uỷ viên bị đình chỉ sinh hoạt).
6.4. Một
số trường hợp kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên
a) Kỷ luật cách chức đối với
đảng viên
- Đảng viên giữ nhiều chức vụ
(kể cả chức vụ đương nhiệm hoặc chức vụ ở các nhiệm kỳ trước đó) vi phạm kỷ luật
phải cách chức thì tuỳ mức độ, tính chất vi phạm mà cách một, một số hay tất cả
các chức vụ hoặc phải khai trừ thì tổ chức đảng quản lý đảng viên đó quyết định.
- Đảng viên tham gia nhiều cấp
uỷ (trừ Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương) vi phạm đến mức phải cách chức cấp uỷ
viên cao nhất hoặc khai trừ thì do ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp của
cấp ủy cấp cao nhất mà đảng viên đó là thành viên quyết định. Nếu phải cách chức
cấp uỷ viên ở một cấp uỷ cấp dưới thì do ban thường vụ cấp uỷ quản lý đảng viên
đó quyết định.
- Đảng viên tham gia nhiều cấp
uỷ, giữ nhiều chức vụ, bị kỷ luật cách chức một chức vụ đương nhiệm hoặc chức vụ
trước đó, thì cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ có thẩm quyền phải xem xét các
chức vụ khác, có thể cách chức hoặc cho thôi giữ một, một số hoặc tất cả các chức
vụ khác.
- Việc kỷ luật đối với uỷ viên
uỷ ban kiểm tra là cấp uỷ viên tiến hành như đối với cấp uỷ viên. Nếu uỷ viên uỷ
ban kiểm tra không phải là cấp uỷ viên thì việc kỷ luật khiển trách, cảnh cáo
tiến hành như đối với cán bộ do cấp uỷ cùng cấp quản lý; trường hợp kỷ luật
cách chức, khai trừ do cấp uỷ cùng cấp quyết định.
- Cấp ủy viên vi phạm đến mức
cách chức thì phải kỷ luật cách chức, không để thôi giữ chức, không chấp nhận
cho rút khỏi cấp uỷ.
b) Về thi hành kỷ luật đối với
đảng viên vi phạm pháp luật
Khi cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định giữ, bắt, khám xét khẩn cấp, khởi tố bị can hoặc bản án có hiệu lực
pháp luật đối với công dân là đảng viên thì chậm nhất là 3 ngày, thủ trưởng cơ
quan đó có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho tổ chức đảng trực tiếp quản
lý đảng viên đó.
- Đảng viên bị khởi tố, truy tố
hoặc bị tạm giam tổ chức đảng có thẩm quyền chủ động, kịp thời kiểm tra, kết luận
và xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên có vi phạm đến mức phải xử lý, không chờ kết
luận hoặc tuyên án của toà án hoặc kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán;
không cần quyết định cho đảng viên, cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt mới xem xét,
xử lý kỷ luật. Sau khi có bản án hoặc quyết định của toà án hoặc kết luận của
cơ quan thanh tra, kiểm toán, nếu thấy cần thiết, tổ chức đảng có thẩm quyền kỷ
luật xem xét lại việc kỷ luật đảng đối với đảng viên đó.
- Đảng viên có vi phạm bị truy
nã hoặc bị toà án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên thì tổ
chức đảng có thẩm quyền căn cứ bản án của tòa án để quyết định khai trừ hoặc
xoá tên trong danh sách đảng viên (đối với đảng viên dự bị) không phải theo quy
trình thi hành kỷ luật. Tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định khai trừ hoặc xoá
tên đảng viên thông báo bằng văn bản cho chi bộ nơi đảng viên sinh hoạt và các
tổ chức đảng nơi đảng viên đó là thành viên.
Đảng viên, cấp uỷ viên bị tòa
án tuyên phạt hình phạt thấp hơn hình phạt cải tạo không giam giữ, sau khi bản
án có hiệu lực pháp luật, tổ chức đảng có thẩm quyền phải quyết định cho đảng
viên trở lại sinh hoạt đảng, cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt cấp uỷ và xem xét để
quyết định xử lý kỷ luật theo đúng quy trình.
- Đảng viên bị xử oan, sai đã
được toà án quyết định huỷ bỏ bản án hoặc thay đổi mức án, cơ quan có thẩm quyền
pháp luật đình chỉ vụ án thì các tổ chức đảng có thẩm quyền phải kịp thời xem
xét lại quyết định kỷ luật đối với đảng viên đó, kể cả trường hợp đã chết.
c) Về kỷ luật giải tán tổ chức
đảng
- Chỉ giải tán một tổ chức đảng
khi tổ chức đảng đó có hành động chống đối quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng; vi phạm đặc biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng hoặc pháp luật của Nhà nước.
- Những tổ chức đảng vi phạm một
trong các nội dung sau đây thì giải tán.
+ Có hành động chống đối quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng với các hành vi cụ thể như: Tổ chức,
kích động, xúi giục, cưỡng bức quần chúng mít tinh, biểu tình trái với quy định
của pháp luật; xuyên tạc sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng; có hành động cụ thể chống Đảng.
+ Vi phạm đặc biệt nghiêm trọng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật Nhà nước với các hành vi
như: Bỏ ba kỳ liên tiếp không sinh hoạt; cố ý không chấp hành Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách, các nguyên tắc, quy chế, quy định, quyết
định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chia rẽ bè phái, mất đoàn kết nghiêm trọng,
không còn vai trò và tác dụng lãnh đạo đối với địa phương, đơn vị.
- Tổ chức đảng bị kỷ luật giải
tán, cấp uỷ cấp trên trực tiếp lập tổ chức đảng mới hoặc giới thiệu sinh hoạt đảng
cho số đảng viên còn lại.
- Đối với cấp uỷ, ban thường vụ
cấp uỷ bị kỷ luật giải tán, cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét xử lý kỷ luật những
thành viên của tổ chức đảng đó và chỉ định cấp uỷ, cấp uỷ bầu ban thường vụ cấp
ủy, ủy ban kiểm tra và chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra.
6.5.
Hiệu lực quyết định kỷ luật
a) Kỷ luật tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm có hiệu lực ngay sau khi công bố quyết định (trừ quyết định kỷ luật
thuộc thẩm quyền của chi bộ).
b) Quyết định khiển trách, cảnh
cáo đối với đảng viên vi phạm của chi bộ có hiệu lực ngay sau khi chi bộ công bố
kết quả biểu quyết quyết định kỷ luật. Trong vòng 10 ngày, chi bộ ban hành quyết
định kỷ luật giao cho đảng viên bị kỷ luật, báo cáo cấp trên và lưu hồ sơ. Quyết
định kỷ luật của chi bộ (trong đảng bộ bộ phận, trong đảng bộ cơ sở), của uỷ
ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở được đóng dấu của đảng uỷ cơ sở vào phía trên, góc
trái. Đảng uỷ cơ sở hoặc cấp uỷ cấp trên trực tiếp không phải ra quyết định chuẩn
y.
c) Tổ chức đảng có thẩm quyền
sau khi ký quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật phải
kịp thời công bố (trực tiếp hoặc uỷ quyền cho tổ chức đảng cấp dưới công bố) chậm
nhất 15 ngày kể từ ngày ký. Tổ chức đảng cấp dưới được uỷ quyền chậm nhất 15
ngày, kể từ ngày nhận được uỷ quyền phải công bố quyết định cho tổ chức đảng, đảng
viên bị kỷ luật hoặc khiếu nại kỷ luật. Nếu quá hạn trên phải báo cáo ngay với
cấp có thẩm quyền quyết định.
d) Đề nghị của cấp dưới về kỷ
luật cách chức, khai trừ đối với đảng viên, giải tán đối với tổ chức đảng nếu
chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định và công bố thì đảng viên đó vẫn
được sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng đó vẫn được hoạt động.
đ) Quyết định của cấp dưới về kỷ
luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải báo cáo lên cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra
cấp trên trực tiếp; nếu đảng viên vi phạm tham gia nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng
thì phải báo cáo các cơ quan lãnh đạo cấp trên mà đảng viên đó là thành viên.
e) Quyết định của cấp trên về kỷ
luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải được thông báo đến cấp dưới, nơi có
tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; trường hợp cần thông báo rộng hơn thì do cấp
uỷ có thẩm quyền quyết định.
g) Quyết định kỷ luật, quyết định
giải quyết khiếu nại kỷ luật đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm phải
được giao cho tổ chức đảng và đảng viên vi phạm để chấp hành. Nếu cần thông báo
rộng hơn thì do cấp uỷ hoặc tổ chức đảng có thẩm quyền kỷ luật đối với đảng
viên quyết định.
h) Phạm vi thông báo các quyết
định thi hành kỷ luật, quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật đối với đảng
viên là cấp uỷ viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý do cấp uỷ
hoặc ban thường vụ cấp uỷ quản lý đảng viên đó quyết định.
i) Đảng viên bị kỷ luật cách chức,
bao gồm cả chức vụ do đại hội, cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra bầu, do chỉ định hoặc bổ
nhiệm, trong vòng một năm kể từ ngày công bố quyết định, không được bầu vào cấp
uỷ, không được chỉ định, bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn.
k) Sau một năm, kể từ ngày công
bố quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật (trừ quyết định
kỷ luật khai trừ đối với đảng viên hoặc quyết định kỷ luật giải tán đối với tổ
chức đảng), nếu tổ chức đảng, đảng viên không khiếu nại, không tái phạm hoặc
không có vi phạm mới đến mức phải xử lý kỷ luật thì quyết định kỷ luật đương
nhiên chấm dứt hiệu lực.
l) Trường hợp quyết định thay đổi
hình thức kỷ luật thì thời hạn chấp hành kỷ luật được tính từ ngày quyết định kỷ
luật đầu tiên có hiệu lực.
6.6.
Đình chỉ sinh hoạt đảng
a) Trường hợp bị đình chỉ
sinh hoạt đảng
- Việc đình chỉ sinh hoạt đảng
của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên, đình chỉ hoạt động của
tổ chức đảng nhằm ngăn chặn hành vi gây trở ngại cho việc xem xét, kết luận của
tổ chức kỷ luật đảng có thẩm quyền hoặc hành vi làm cho vi phạm trở nên nghiêm
trọng hơn.
- Đảng viên, cấp uỷ viên có dấu
hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng mà có hành vi cố ý gây trở ngại cho hoạt
động của cấp uỷ và công tác kiểm tra của Đảng hoặc bị cơ quan pháp luật có thẩm
quyền ra quyết định truy tố, tạm giam thì phải đình chỉ sinh hoạt đảng; cấp uỷ
viên bị đình chỉ sinh hoạt đảng đương nhiên bị đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ; cấp uỷ
viên bị khởi tố thì phải đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ nhưng vẫn được sinh hoạt đảng.
- Cấp uỷ viên có dấu hiệu vi phạm
nghiêm trọng kỷ luật đảng mà có hành vi cụ thể cố ý gây trở ngại cho hoạt động
của cấp uỷ và công tác kiểm tra của Đảng hoặc bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố thì phải đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ. Cấp ủy viên bị đình
chỉ sinh hoạt đảng đương nhiên bị đình chỉ sinh hoạt cấp ủy.
+ Tổ chức đảng có dấu hiệu vi
phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng mà có hành vi cụ thể cố ý gây trở ngại cho hoạt
động của tổ chức đảng, cho công tác lãnh đạo và kiểm tra của Đảng thì đình chỉ
hoạt động.
b) Thẩm quyền đình chỉ sinh
hoạt đảng
- Đối với tổ chức đảng
+ Tổ chức đảng quyết định đình
chỉ hoạt động của một tổ chức đảng là tổ chức đảng có thẩm quyền giải tán tổ chức
đó.
+ Khi có đủ căn cứ phải đình chỉ
mà tổ chức đảng cấp dưới không đề nghị đình chỉ hoặc không đình chỉ thì tổ chức
đảng cấp trên có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng
viên, sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên hoặc đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng.
Quyết định đó được thông báo cho đảng viên, cấp uỷ viên bị đình chỉ sinh hoạt,
tổ chức đảng bị đình chỉ hoạt động và các tổ chức đảng có liên quan để chấp
hành.
- Đối với đảng viên
+ Tổ chức đảng quyết định đình
chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên là tổ chức đảng có thẩm quyền khai trừ đối với
đảng.
+ Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện,
quận và tương đương trở lên được quyền quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng của cấp
uỷ viên cấp dưới trực tiếp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản
lý (ở Trung ương là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý) nhưng không phải là cấp uỷ
viên cùng cấp khi bị tạm giam, truy tố; quyết định đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ
viên cấp dưới trực tiếp khi bị khởi tố.
- Đối với cấp uỷ viên
+ Tổ chức đảng quyết định đình
chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên là tổ chức đảng có thẩm quyền cách chức cấp
uỷ viên đó.
+ Đình chỉ sinh hoạt đảng hoặc
đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên do chi bộ hoặc cấp uỷ cùng cấp đề nghị,
cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định. Nếu đảng viên tham gia nhiều cấp uỷ thì cấp
uỷ phát hiện đảng viên có dấu hiệu vi phạm đề nghị, cấp uỷ có thẩm quyền cách
chức cấp uỷ viên, khai trừ đảng viên đó quyết định.
c) Thủ tục đình chỉ sinh hoạt
đảng
- Trường hợp đặc biệt, đối với
những vụ việc đang trong quá trình điều tra, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, nhận
thấy đảng viên có dấu hiệu liên quan đến trách nhiệm cá nhân hoặc có những dấu
hiệu vi phạm nghiêm trọng, nếu để đương chức sẽ gây trở ngại cho việc xem xét,
kết luận, thì ngoài việc đã đình chỉ sinh hoạt đảng hoặc đình chỉ sinh hoạt cấp
uỷ, tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định đình chỉ chức vụ trong Đảng mà đảng
viên đó đang đảm nhiệm; đồng thời, giao trách nhiệm cho ban cán sự đảng, đảng
đoàn hoặc cấp uỷ quản lý đảng viên đó chỉ đạo tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
tổ chức chính trị - xã hội quyết định đình chỉ chức vụ về chính quyền, đoàn thể
theo thẩm quyền.
- Sau khi kết thúc điều tra, kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán nếu đảng viên đó vi phạm pháp luật thì xử lý theo quy
định của pháp luật; đồng thời phải xem xét, thi hành kỷ luật về đảng. Nếu đảng
viên đó không vi phạm hoặc vi phạm không đến mức cách chức thì khôi phục lại chức
vụ đã đình chỉ hoặc bố trí công tác khác.
- Trường hợp tổ chức nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội đình chỉ chức vụ về chính quyền,
đoàn thể đối với đảng viên thì thủ trưởng hoặc cấp uỷ, tổ chức đảng trong cơ
quan của đảng viên đó phải kịp thời thông báo (chậm nhất là 5 ngày) cho uỷ ban
kiểm tra cùng cấp để đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định việc
đình chỉ sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ hoặc đình chỉ chức vụ về Đảng mà đảng
viên đó đang đảm nhiệm.
- Trong thời gian đảng viên bị
đình chỉ sinh hoạt đảng, chức vụ; cấp uỷ viên bị đình chỉ sinh hoạt cấp ủy, tổ
chức đảng bị đình chỉ hoạt động phải chấp hành nghiêm các yêu cầu của tổ chức đảng
có thẩm quyền (tường trình sự việc, tự kiểm điểm về những vi phạm, thực hiện
các nhiệm vụ được giao...); được đề đạt ý kiến của mình nhưng không được lấy
danh nghĩa tổ chức đảng hoặc danh nghĩa cấp uỷ viên, danh nghĩa chức vụ đã bị
đình chỉ để điều hành công việc.
- Ủy ban kiểm tra của cấp uỷ kiểm
tra, giám sát quá trình thực hiện việc đình chỉ sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ,
đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng thuộc phạm vi quản lý của cấp uỷ cùng cấp;
giúp cấp uỷ làm các thủ tục đình chỉ sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ, đình chỉ
hoạt động của tổ chức đảng theo đúng quy định.
d) Thời hạn đình chỉ sinh hoạt,
hoạt động
- Thời hạn đình chỉ sinh hoạt đảng
và đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ là 90 ngày. Trường hợp phải gia hạn, thì thời hạn
đình chỉ kể cả gia hạn không quá 180 ngày. Thời hạn đình chỉ hoạt động đối với
tổ chức đảng không quá 90 ngày.
- Thời hạn đình chỉ sinh hoạt đảng
của đảng viên (kể cả cấp uỷ viên) bị truy tố, bị tạm giam và thời hạn đình chỉ
sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên bị khởi tố được tính theo thời hạn quy định của
pháp luật (kể cả gia hạn, nếu có).
- Thủ trưởng của cơ quan pháp
luật có thẩm quyền quyết định khởi tố, tạm giam, truy tố, xét xử đối với công
dân là đảng viên, cấp uỷ viên phải chỉ đạo thông báo ngay bằng văn bản (chậm nhất
là 3 ngày) các quyết định trên (kể cả khi gia hạn) đến cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm
tra của cấp uỷ quản lý đảng viên, cấp ủy viên đó.
đ) Việc quyết định cho đảng
viên, cấp ủy viên trở lại sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ và tổ chức đảng trở
lại hoạt động
- Tổ chức đảng có thẩm quyền phải
xem xét, kết luận rõ nội dung vi phạm của đảng viên, cấp uỷ viên bị đình chỉ
sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng bị đình chỉ hoạt động để quyết định
cho đảng viên, cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt, tổ chức đảng trở lại hoạt động và
xem xét, xử lý kỷ luật đảng bằng hình thức phù hợp; kịp thời chỉ đạo việc xem
xét, xử lý kỷ luật về chính quyền, về đoàn thể. Trường hợp không thuộc thẩm quyền
thì chỉ đạo hoặc kiến nghị với các tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét,
quyết định.
- Khi đảng viên, kể cả cấp uỷ
viên không còn bị tạm giam và không bị truy tố, chậm nhất là 5 ngày, đảng viên
là thủ trưởng của cơ quan pháp luật hoặc tổ chức đảng ở các cơ quan pháp luật
có trách nhiệm chỉ đạo thông báo kịp thời bằng văn bản đến cấp uỷ hoặc uỷ ban
kiểm tra của cấp uỷ quản lý đảng viên, cấp uỷ viên đó để xem xét việc quyết định
cho đảng viên, cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt đảng và xem xét, xử lý kỷ luật đảng.
Trường hợp đình chỉ điều tra thì quyết định cho cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt cấp
uỷ.
Trường hợp hết thời hạn tạm
giam, hoặc không bị tạm giam, nhưng vẫn bị truy tố, xét xử thì tổ chức đảng
chưa quyết định cho đảng viên, cấp uỷ viên trở lại sinh hoạt đảng, cấp uỷ.
e) Thủ tục ra quyết định trở
lại sinh hoạt, hoạt động
Tổ chức đảng nào quyết định
đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ
viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng thì tổ chức đảng đó quyết định cho đảng
viên, cấp uỷ viên, tổ chức đảng trở lại sinh hoạt, hoạt động. Uỷ ban kiểm tra
giúp cấp uỷ chuẩn bị văn bản, quyết định các trường hợp thuộc thẩm quyền của cấp
ủy.
7. Cách tiến
hành một vụ kỷ luật tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm
Việc tiến hành một vụ kỷ luật
được tuân thủ chặt chẽ theo quy trình (được xây dựng căn cứ theo quy trình của
Trung ương) đúng với một trong các tình huống thi hành kỷ luật trên thực tế, cụ
thể như sau:
7.1.
Trường hợp thi hành kỷ luật tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm do tổ chức đảng
đề nghị
a) Căn cứ nhiệm vụ được giao, kết
quả giám sát, nắm tình hình và hồ sơ đề nghị thi hành kỷ luật tổ chức đảng hoặc
đảng viên; UBKT ban hành quyết định, kế hoạch kiểm tra, xem xét, xử lý kỷ luật.
b) Đoàn/tổ kiểm tra xây dựng lịch
kiểm tra, chuẩn bị các tài liệu cần thiết cho việc kiểm tra.
c) Đoàn/tổ kiểm tra triển khai
quyết định, kế hoạch kiểm tra, thống nhất với đối tượng kiểm tra về lịch làm việc;
yêu cầu tổ chức đảng có liên quan phối hợp thực hiện.
d) Đoàn/tổ kiểm tra tiến hành
thẩm tra, xác minh
- Đối tượng kiểm tra báo cáo những
vấn đề cần thiết, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan.
- Đoàn/tổ kiểm tra:
+ Xem xét hồ sơ đề nghị thi
hành kỷ luật và tài liệu liên quan; làm việc với tổ chức, cá nhân có liên quan;
thẩm tra, xác minh những nội dung chưa rõ, cần thiết và xem xét việc thực hiện
nguyên tắc, quy trình, thủ tục thi hành kỷ luật. Nếu thấy chưa đúng về nguyên tắc,
quy trình, thủ tục thi hành kỷ luật hoặc phải giám định kỹ thuật, chuyên môn
thì trưởng đoàn kiểm tra quyết định.
+ Trao đổi với đối tượng kiểm
tra về những nội dung cần bổ sung vào báo cáo (nếu có) và tổ chức đảng có liên
quan về việc thực hiện nguyên tắc, quy trình, thủ tục thi hành kỷ luật (nếu
có).
+ Trường hợp phát hiện có nội
dung vi phạm mới cần bổ sung hoặc điều chỉnh, bổ sung về đối tượng kiểm tra,
thành viên đoàn kiểm tra thì trưởng đoàn kiểm tra báo cáo Thường trực Uỷ ban
xem xét, quyết định.
đ) Đoàn kiểm tra trao đổi với tổ
chức đảng đã đề nghị thi hành kỷ luật về những nội dung vi phạm và những vấn đề
còn khác nhau giữa kết luận của tổ chức đảng với kết quả thẩm tra, xác minh để
làm rõ thêm về vi phạm của đối tượng kiểm tra.
e) Đoàn/tổ kiểm tra tiếp tục thẩm
tra, xác minh những nội dung chưa rõ (nếu có); trao đổi với tổ chức đảng đã đề
nghị thi hành kỷ luật; chuẩn bị báo cáo kiểm tra, đề nghị thi hành kỷ luật; xin
ý kiến và hoàn chỉnh báo cáo.
g) Ủy ban kiểm tra xem xét, kết
luận
- Đoàn kiểm tra báo cáo đề nghị
thi hành kỷ luật; trình bày đầy đủ ý kiến của đối tượng kiểm tra và tổ chức đảng
có liên quan.
- UBKT thảo luận, kết luận và đề
nghị; báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định thi hành kỷ luật về những vấn đề cần
yêu cầu tổ chức đảng có liên quan tiếp tục giải quyết (nếu có).
+ Trường hợp đối tượng kiểm tra
có vi phạm thuộc thẩm quyền kỷ luật của Ủy ban thì đại diện Uỷ ban gặp để nghe
đối tượng kiểm tra trình bày ý kiến trước khi Uỷ ban quyết định kỷ luật. Tại
phiên họp Ủy ban xem xét, quyết định kỷ luật, đối tượng kiểm tra có vi phạm
trình bày bản kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật và đại diện tổ chức đảng quản
lý đối tượng kiểm tra trình bày ý kiến. Sau khi quyết định kỷ luật, Uỷ ban báo
cáo kết quả với cấp trên.
+ Trường hợp vi phạm của đối tượng
kiểm tra thuộc thẩm quyền kỷ luật của cấp trên thì đối tượng kiểm tra trình bày
bản kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật, Ủy ban bỏ phiếu đề nghị hình thức kỷ
luật; hoàn chỉnh báo cáo, tờ trình gửi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
h) Trường hợp cấp có thẩm quyền
xem xét, thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm, nếu cần tiếp tục làm rõ thì Uỷ ban
chỉ đạo đoàn kiểm tra tiếp tục thẩm tra, xác minh; báo cáo Thường trực Ủy ban
xem xét, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
i) Đại diện Ủy ban và đoàn kiểm
tra công bố quyết định kỷ luật theo thẩm quyền hoặc của cấp trên ủy quyền cho Ủy
ban đến đối tượng vi phạm, tổ chức đảng có liên quan.
k) Báo cáo việc thi hành kỷ luật
lên cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên.
l) Lập và lưu trữ hồ sơ, rút
kinh nghiệm.
m) Kiểm tra, đôn đốc việc chấp
hành kết luận, quyết định kỷ luật của uỷ ban kiểm tra hoặc của cấp uỷ.
7.2.
Trường hợp thi hành kỷ luật tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm theo kết luận
kiểm tra
a) Căn cứ nhiệm vụ được giao, kết
quả kiểm tra của UBKT về nội dung vi phạm của tổ chức đảng hoặc đảng viên; đoàn
kiểm tra tham mưu cho Thường trực Ủy ban ban hành kế hoạch xem xét, xử lý kỷ luật
tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm.
b) Đoàn/tổ kiểm tra triển khai
kết luận kiểm tra, kế hoạch xem xét, thi hành kỷ luật; thống nhất lịch làm việc;
yêu cầu tổ chức đảng có liên quan phối hợp thực hiện; yêu cầu tổ chức đảng, đảng
viên vi phạm chuẩn bị bản tự kiểm điểm theo nội dung được kết luận.
c) Tổ chức đảng hoặc đảng viên
vi phạm làm kiểm điểm; đoàn/tổ kiểm tra gặp tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm
để hướng dẫn chuẩn bị kiểm điểm; đoàn/tổ kiểm tra xem xét bản tự kiểm điểm của
đảng viên vi phạm; trao đổi với đảng viên vi phạm những nội dung cần bổ sung
vào bản tự kiểm điểm (nếu có).
d) Tổ chức hội nghị của tổ chức
đảng có liên quan (tổ chức đảng nào thì cấp ủy, tổ chức đảng đó chủ trì, ghi
biên bản) để đoàn/tổ kiểm tra thông báo kết luận kiểm tra; tổ chức đảng hoặc đảng
viên vi phạm trình bày bản kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật; hội nghị thảo
luận, bỏ phiếu đề nghị hình thức kỷ luật.
Tuỳ vào nội dung, đối tượng vi
phạm, đoàn/tổ kiểm tra xin ý kiến quyết định về thành phần tham dự hội nghị, cơ
bản là: (i) Hội nghị chi bộ, gồm: Đoàn/tổ kiểm tra, đảng viên trong chi bộ và đại
diện cấp uỷ, tổ chức đảng cấp trên dự. (ii) Hội nghị cấp uỷ, tổ chức đảng có tổ
chức đảng, đảng viên vi phạm, gồm: Các thành viên của cấp ủy hoặc tổ chức đảng;
đoàn/tổ kiểm tra; đại diện cấp uỷ, tổ chức đảng cấp trên. (iii) Hội nghị ban
thường vụ cấp uỷ, cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương, gồm: Các ủy viên ban
thường vụ cấp ủy hoặc các cấp ủy viên hoặc thành viên tổ chức đảng hoặc tổ chức
trực thuộc Trung ương; lãnh đạo Ủy ban chỉ đạo đoàn/tổ kiểm tra và đoàn/tổ kiểm
tra.
đ) Đoàn/tổ kiểm tra tiếp tục thẩm
tra, xác minh những nội dung chưa rõ (nếu có); chuẩn bị báo cáo đề nghị thi
hành kỷ luật; xin ý kiến lãnh đạo Ủy ban phụ trách đoàn/tổ kiểm tra và hoàn chỉnh
báo cáo.
e) Đại diện uỷ ban kiểm tra gặp
để nghe tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm trình bày ý kiến trước khi trình uỷ
ban.
h) Hội nghị UBKT xem xét, kết
luận
- Đoàn kiểm tra báo cáo đề nghị
thi hành kỷ luật; trình bày đầy đủ ý kiến của đối tượng kiểm tra và tổ chức đảng
có liên quan.
- Đại diện tổ chức đảng hoặc đảng
viên vi phạm trình bày bản kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật; đại diện tổ chức
đảng quản lý đảng viên vi phạm trình bày ý kiến.
- UBKT thảo luận, kết luận; biểu
quyết quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật đối tượng vi
phạm.
i) Hoàn chỉnh quyết định kỷ luật
hoặc báo cáo đề nghị cấp trên thi hành kỷ luật và những yêu cầu khác (nếu có)
và ký ban hành. Công bố quyết định kỷ luật đến đối tượng bị kỷ luật và tổ chức
đảng có liên quan; báo cáo việc thi hành kỷ luật lên cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra
cấp trên.
k) Lập và lưu trữ hồ sơ, rút
kinh nghiệm.
l) Kiểm tra, đôn đốc việc chấp
hành kết luận, quyết định kỷ luật của uỷ ban kiểm tra hoặc của cấp uỷ.
7.3.
Trường hợp kiểm tra hoặc giải quyết tố cáo có kết hợp thi hành kỷ luật
Qua kiểm tra hoặc giải quyết tố
cáo đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên, nếu tổ chức đảng hoặc đảng viên có vi
phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì có thể tiến hành các thủ tục thi hành kỷ
luật ngay (không cần chờ tiến hành xong quy trình kiểm tra hoặc giải quyết tố
cáo rồi mới tiến hành quy trình thi hành kỷ luật) để tránh phải làm đi làm lại,
tốn thêm thời gian, công sức, gây phiền hà cho tổ chức đảng và đảng viên. Cách
tiến hành như sau: Các bước (kiểm tra và thi hành kỷ luật) trước khi báo cáo Ủy
ban xem xét, kết luận được kết hợp làm ngay trong quá trình kiểm tra hoặc giải
quyết tố cáo. Sau khi tổ chức đảng hoặc đảng viên kiểm điểm, tổ chức đảng có thẩm
quyền đã biểu quyết thi hành kỷ luật thì làm tiếp các bước còn lại của quy
trình như nêu ở trên.
7.4.
Trường hợp tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên trực tiếp xử lý
- Qua hoạt động công tác kiểm
tra, nắm tình hình của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra cấp trên, nếu phát hiện tổ chức
đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức đối với tổ chức đảng hoặc đảng
viên vi phạm thì cấp ủy hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp chỉ đạo việc tiến
hành xử lý kỷ luật. Tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm phải tự kiểm điểm trước
cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên (cấp xem xét, quyết định kỷ luật). Cán bộ
kiểm tra phải làm thật tốt công tác thẩm tra, xác minh về nội dung, mức độ,
tính chất, tác hại, ảnh hưởng, nguyên nhân vi phạm, hoàn cảnh cụ thể và các
tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ và báo cáo với uỷ ban kiểm tra để trực tiếp
xem xét, quyết định hoặc trình cấp ủy xem xét, quyết định thi hành kỷ luật theo
thẩm quyền (không phải làm thủ tục từ dưới lên).
Đối với tổ chức đảng cấp dưới
có thẩm quyền xử lý nhưng không xử lý hoặc xử lý không đúng mức đối với đối tượng
vi phạm, phải kiểm điểm, làm rõ mức độ đúng, sai, nguyên nhân; nếu tổ chức đảng
cấp dưới có vi phạm đến mức phải xử lý thì báo cáo và đề nghị cấp uỷ xem xét,
quyết định xử lý bằng hình thức kỷ luật thích hợp.
- Sau khi có quyết định kỷ luật
của tổ chức đảng có thẩm quyền, cần thực hiện các việc tiếp theo (công bố quyết
định, báo cáo lên cấp trên, ghi lý lịch đảng viên, lưu trữ hồ sơ...) như đã nêu
ở trên.
Lưu ý: Khi thi hành kỷ luật tổ
chức đảng: Phải xác định rõ đối tượng vi phạm (là chi bộ hay chi uỷ, là cấp uỷ
hay ban thường vụ cấp uỷ...) để việc xem xét, xử lý được đúng đối tượng. Phải
xem xét và quy rõ trách nhiệm cá nhân, thi hành kỷ luật đối với những đảng viên
chịu trách nhiệm trực tiếp về vi phạm của tổ chức đảng.
8. Thẩm quyền
thi hành kỷ luật đảng
Thẩm quyền là quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề theo quy định. Thẩm quyền thi hành kỷ luật
trong Đảng là quyền của các tổ chức đảng được thi hành kỷ luật đối với tổ chức
đảng và đảng viên vi phạm theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định và hướng dẫn
của Trung ương Đảng.
Tuỳ vào tình hình thực tiễn và
chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng mà thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng
có thể thay đổi trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Vì vậy,
khi xem xét thi hành kỷ luật, các tổ chức đảng phải căn cứ vào thẩm quyền được
quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương Đảng. Hiện
nay, thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng cụ thể như sau:
8.1-
Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm
a) Chi bộ quyết định khiển
trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp uỷ viên cùng cấp, đảng viên thuộc
diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", sinh hoạt đảng, thực
hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).
Sau khi chi bộ quyết định kỷ luật
khiển trách, cảnh cáo đối với cấp uỷ viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp
trên quản lý, phải báo cáo lên các cấp uỷ mà đảng viên đó là thành viên và cấp
uỷ, ủy ban kiểm tra cấp quản lý cán bộ.
Việc cách chức, khai trừ cấp uỷ
viên của chi bộ cơ sở do chi bộ cơ sở đề nghị, ban thường vụ cấp uỷ huyện, quận
hoặc tương đương quyết định.
Đối với cấp uỷ viên các cấp
sinh hoạt tại chi bộ (từ cấp uỷ viên đảng uỷ cơ sở trở lên) và cán bộ thuộc diện
cấp uỷ cấp trên quản lý, nếu vi phạm khi thực hiện nhiệm vụ do cấp trên giao mà
phải áp dụng hình thức kỷ luật thì chi bộ đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét,
quyết định.
b) Đảng uỷ bộ phận có trách nhiệm
thẩm tra việc đề nghị thi hành kỷ luật của chi bộ để đề nghị ban thường vụ đảng
uỷ cơ sở, đảng uỷ cơ sở xem xét, quyết định theo thẩm quyền.
c) Ban thường vụ đảng uỷ cơ sở
quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ (kể cả đảng viên là
cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý nhưng không phải cấp uỷ viên cùng cấp
hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý).
d) Đảng uỷ cơ sở quyết định khiển
trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ, cách chức cấp uỷ viên cấp dưới (kể cả
bí thư, phó bí thư, cấp uỷ viên của chi bộ hoặc đảng uỷ bộ phận trực thuộc
nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên
quản lý).
Đối với cấp uỷ viên cấp trên trực
tiếp trở lên và cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý sinh hoạt tại đảng bộ,
nếu vi phạm đến mức phải kỷ luật thì đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Trường hợp tất cả cấp uỷ viên của
chi bộ và của đảng bộ cơ sở đều bị thi hành kỷ luật khiển trách, cảnh cáo thì
báo cáo để tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên quyết định.
Đảng uỷ cơ sở được uỷ quyền kết
nạp đảng viên thì có quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp
uỷ viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý.
đ) Ban thường vụ tỉnh, thành,
huyện, quận uỷ và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên (kể cả
bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ, cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp và
cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng
cấp); quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp, đảng viên thuộc diện
cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên
quản lý vi phạm nhiệm vụ được giao. Trường hợp cách chức, khai trừ thì báo cáo
tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định.
e) Cấp uỷ tỉnh, thành, huyện,
quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển
trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản
lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực
hiện nhiệm vụ đảng viên và vi phạm nhiệm vụ do cấp uỷ giao. Sau khi cấp uỷ biểu
quyết đủ đa số phiếu theo quy định thì quyết định kỷ luật.
g) Ban Bí thư, Bộ Chính trị quyết
định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện Ban
Bí thư, Bộ Chính trị quản lý; khiển trách, cảnh cáo Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
ương (kể cả Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị) vi phạm phẩm chất chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Trường hợp cách chức, khai trừ thì Ban Bí thư, Bộ Chính trị báo cáo Ban Chấp hành
Trung ương xem xét, quyết định.
h) Ban Chấp hành Trung ương là
cấp quyết định kỷ luật cuối cùng; quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể
cả Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư.
i) Uỷ ban kiểm tra
- Ủy ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở
quyết định hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ (kể
cả cấp uỷ viên chi bộ, cấp uỷ viên đảng uỷ bộ phận, cán bộ thuộc diện cấp uỷ
cùng cấp quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp).
- Ủy ban kiểm tra huyện uỷ, quận
uỷ và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên. (kể cả bí thư,
phó bí thư, cấp uỷ viên của chi bộ, đảng uỷ bộ phận trực thuộc đảng bộ cơ sở hoặc
cán bộ thuộc diện đảng uỷ cơ sở quản lý nhưng không phải là đảng uỷ viên đảng uỷ
cơ sở hay cán bộ do cấp uỷ huyện, quận và cấp tương đương cùng cấp quản lý).
Quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cơ sở và cán bộ thuộc diện cấp uỷ
cùng cấp quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp.
- Ủy ban kiểm tra tỉnh uỷ,
thành uỷ và đảng uỷ trực thuộc Trung ương quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp
uỷ viên huyện, quận và tương đương (kể cả bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường
vụ cấp uỷ), đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý nhưng không
phải là cấp uỷ viên cùng cấp. Quyết định các hình thức kỷ luật đối với đảng
viên, kể cả bí thư, phó bí thư, cấp uỷ viên cơ sở trở xuống nhưng không phải là
cấp uỷ viên cấp huyện, quận và tương đương hoặc cán bộ do cấp uỷ tỉnh, thành và
đảng uỷ trực thuộc Trung ương quản lý.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương
quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên tỉnh uỷ, thành uỷ và đảng uỷ trực
thuộc Trung ương (kể cả bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ), đảng viên
là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý nhưng không phải là Uỷ
viên Ban Chấp hành Trung ương. Quyết định các hình thức kỷ luật đối với các trường
hợp khác theo quy định của Điều lệ Đảng.
8.2.
Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm
a) Thẩm quyền của tổ chức đảng
- Các tổ chức đảng có quyền quyết
định thi hành kỷ luật theo quy định; nếu không thuộc thẩm quyền thì đề nghị tổ
chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp
quyết định khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng cấp dưới.
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp uỷ
từ cấp cơ sở trở lên có quyền kỷ luật tổ chức đảng cấp dưới theo quy định.
- Tổ chức đảng bị kỷ luật khiển
trách, cảnh cáo do cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định.
- Tổ chức đảng bị kỷ luật giải
tán do cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp đề nghị, cấp uỷ hoặc
ban thường vụ cấp uỷ cấp trên cách một cấp quyết định. Quyết định này phải báo
cáo lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
b) Ủy ban kiểm tra các cấp xem
xét, kết luận, đề xuất với cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ trong việc xử lý kỷ
luật tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp; quyết định hình thức kỷ luật khiển trách,
cảnh cáo tổ chức đảng trực thuộc cấp uỷ cấp dưới.
Kỷ luật đảng có tầm quan trọng
đặc biệt bảo đảm cho Đảng tồn tại, hoạt động và phát triển, hoàn thành sứ mệnh
vẻ vang của mình. Tăng cường kỷ luật của Đảng là một nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, là vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác lãnh đạo và xây dựng Đảng.
Có thiết lập được trật tự, kỷ cương trong Đảng mới có thể lãnh đạo được xã hội giữ
vững trật tự, kỷ cương.
Việc thi hành kỷ luật trong Đảng
nhằm tăng cường kỷ cương, kỷ luật, giữ vững sự thống nhất ý chí và hành động,
tăng cường sức chiến đấu của Đảng, giáo dục tổ chức đảng, đảng viên. Tất cả các
tổ chức đảng cần nắm vững và thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc,
thủ tục thi hành kỷ luật của Đảng. Tất cả các tổ chức đảng và đảng viên phải tự
giác, chấp hành nghiêm kỷ luật đảng, chống mọi biểu hiện lệch lạc trong việc
thi hành kỷ luật của Đảng, làm cho tổ chức đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
III. CÂU
HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Đồng chí hãy
trình bày ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật trong Đảng. Liên hệ với việc thực
hiện nhiệm vụ này ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí công tác ?
Câu 2: Phân tích phương
châm, phương hướng kỷ luật trong Đảng. Nêu những thuận lợi, khó khăn trong việc
thực hiện phương châm, phương hướng kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên vi
phạm ở địa phương, đơn vị đồng chí?
Câu 3: Cách tiến hành một
vụ việc thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm do tổ chức
đảng đề nghị/theo kết luận kiểm tra?
CHUYÊN ĐỀ 5: KIỂM TRA TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI THỰC HIỆN NHIỆM
VỤ KIỂM TRA, GIÁM SÁT
I. KHÁI
NIỆM, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG VÀ SỰ CẦN THIẾT
1. Khái niệm
Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát là việc cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp
trên xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm hoặc vi phạm
(nếu có) của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quyết định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng về công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng.
2. Ý nghĩa, tác dụng
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nhằm:
- Giúp công tác kiểm tra, giám
sát của các cấp ủy, tổ chức đảng và trong toàn Đảng được tiến hành một cách thường
xuyên, đồng bộ, toàn diện, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả ngày càng cao.
- Giúp tổ chức đảng, trước hết
là các cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy nơi được kiểm tra đánh giá đúng ưu điểm, hạn
chế, khuyết điểm và nguyên nhân trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát; phát huy ưu điểm, biểu dương, khen thưởng thành tích đạt
được, uốn nắn, chấn chỉnh nhận thức lệch lạc, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, khắc
phục khó khăn, vướng mắc. Bảo đảm cho mọi nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy
chế, quy định, kết luận của Đảng đều được kiểm tra, giám sát và các tổ chức đảng
phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát theo quy định.
- Góp phần nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng, giúp cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp đánh giá đúng thực
trạng việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp dưới để
có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn và khắc phục
hạn chế, khuyết điểm, đưa công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng đi
vào nền nếp, đạt hiệu quả cao.
- Giúp cấp ủy, ban thường vụ cấp
ủy, ủy ban kiểm tra các cấp nắm vững các quy định của Đảng, thực hiện nghiêm
túc sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên để tiến hành kiểm tra, giám sát đúng
nguyên tắc, quy trình, thủ tục, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
- Kịp thời chấn chỉnh những sai
sót, khuyết điểm của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, cán bộ
kiểm tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, từ đó thực hiện
đúng nguyên tắc, thủ tục, quy trình kiểm tra, giám sát. Phát hiện những quy định
của Đảng, của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng không còn phù hợp, còn thiếu, bất cập để đề nghị hoặc yêu cầu bổ
sung, sửa đổi hoặc ban hành mới cho phù hợp.
3. Sự cần thiết phải tăng cường
công tác kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
Trong giai đoạn hiện nay, việc
kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát luôn là
yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết trong toàn bộ hoạt động
của Đảng.
a) Cơ sở lý luận
- Lịch sử loài người đã chứng
minh kiểm tra là hoạt động có ý thức, tất yếu, khách quan của con người trong
xã hội và tổ chức nhằm phát hiện, khắc phục những hạn chế, yếu kém, thiếu sót,
thậm chí sai lầm trong các mặt hoạt động theo mục đích, yêu cầu đã đề ra. Tổ chức
càng cao, càng chặt chẽ, nhiệm vụ càng lớn, càng phức tạp thì vai trò của hoạt
động kiểm tra càng quan trọng, cần thiết. Đối với các Đảng Cộng sản, nhất là Đảng
cầm quyền có vai trò rất to lớn, nhiệm vụ rất nặng nề và có hệ thống tổ chức
khoa học, chặt chẽ với quy mô lớn, nên công tác kiểm tra của Đảng luôn có một vị
trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, gắn liền với sự lãnh đạo
của Đảng; là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng
cầm quyền, để thực hiện vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử trước giai cấp và dân
tộc, bên cạnh việc làm tốt công tác tư tưởng, tổ chức và đạo đức, Đảng ta phải
coi trọng và làm tốt công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và nguyên tắc
tổ chức hoạt động của Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhiệm vụ “Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát” trở thành một trong những nhiệm vụ của uỷ
ban kiểm tra các cấp được Điều lệ Đảng quy định, nên việc thực hiện nhiệm vụ này
là việc làm có tính nguyên tắc bắt buộc của cấp ủy, tổ chức đảng nói chung và uỷ
ban kiểm tra các cấp nói riêng.
b) Cơ sở thực tiễn
- Trong những năm qua, bên cạnh
một số cấp uỷ, tổ chức đảng làm tốt nhiệm vụ công tác này, nhưng trong một thời
gian dài, nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra nhiều nơi nhận thức
chưa đầy đủ về vai trò, vị trí của công tác kiểm tra, giám sát; chưa xác định
rõ trách nhiệm và quyền hạn về nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình; ít quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nhiều nơi còn
“khoán trắng” công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cho uỷ ban kiểm tra. Do đó,
việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra ở nhiều cấp uỷ chưa đáp ứng được yêu cầu,
hiệu quả thấp, làm hạn chế tác dụng lãnh đạo của Đảng. Trong đó, có nguyên nhân
là cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Đảng; uỷ ban kiểm tra các cấp
nhiều nơi chưa chủ động thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định.
Từ Đại hội VIII đến nay, Điều lệ
Đảng đã quy định thêm Điều 30, giao nhiệm vụ kiểm tra chấp
hành cho cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp. Từ đó, bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ
lãnh đạo, chỉ đạo về công tác kiểm tra, cấp uỷ các cấp phải thường xuyên kiểm
tra tổ chức đảng và cấp ủy cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, việc
kiểm tra đó có tính chất đôn đốc thực hiện. Điều lệ Đảng giao cho uỷ ban kiểm
tra các cấp nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát. Đây là một điểm mới quan trọng trong công tác kiểm tra của Đảng.
Cấp uỷ các cấp và uỷ ban kiểm tra cấp trên phải kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
- Trong giai đoạn hiện nay, Đảng
ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, coi việc tiếp tục
đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống,
ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là vấn đề có ý nghĩa sống
còn đối với Đảng và chế độ, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới,
cả trước mắt cũng như về lâu dài.
Muốn đưa chủ trương, đường lối,
chính sách đúng đắn ấy thành thắng lợi trong thực tiễn, công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng phải được tiến hành một cách thường xuyên, kịp thời và có hiệu quả.
Đó vừa là chức năng, vừa là nội dung, phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng ở
các cấp.
II. NỘI
DUNG, ĐỐI TƯỢNG
Khi tiến hành kiểm tra tổ chức
đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cần nắm vững chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, tình hình lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát của từng tổ chức đảng để xác định, quyết định đúng nội dung và đối tượng cần
kiểm tra.
1. Nội
dung
Quy định số 22-QĐ/TW, ngày
28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng (thay thế Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của
BCHTW Đảng khóa XII) đã nêu rõ chủ thể, nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát
của cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp.
Điểm 3.2.2, Tiết
3.2, Khoản 3, Điều 8, Chương II, Quy định số 22-QĐ/TW của Trung ương nêu
rõ:
“3.2.2. Kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát:
a) Nội dung kiểm tra:
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng cấp dưới theo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
hoạt động của uỷ ban kiểm tra, xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ của cơ
quan uỷ ban kiểm tra cấp dưới.
b) Đối tượng kiểm tra: Các tổ
chức đảng cấp dưới, trước hết là cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra
cấp dưới trực tiếp”.
Yêu cầu của nhiệm vụ này là khi
tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
cần nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tình hình lãnh đạo và thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của từng tổ chức đảng để xác định, quyết định đúng
nội dung và đối tượng cần kiểm tra. Mặt khác, đây là nhiệm vụ kiểm tra “chấp
hành” nên đoàn (tổ) kiểm tra (gọi chung là đoàn kiểm tra) phải có phương pháp
tiến hành kiểm tra phù hợp, nghiêm túc để đạt hiệu quả, tiết kiệm thời gian,
công sức.
Các tổ chức đảng có nhiệm vụ tiến
hành công tác kiểm tra gồm: chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng ủy cơ sở,
đảng ủy cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy (gọi
chung là các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy); ban cán sự đảng, đảng
đoàn (chỉ là chủ thể kiểm tra).
Do các tổ chức đảng có chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nên phạm vi, trách nhiệm và nội dung kiểm
tra cũng khác nhau. Vì vậy, ủy ban kiểm tra các cấp khi kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cần căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và đặc điểm tình hình của từng loại hình tổ chức đảng để xác định, quyết định
nội dung kiểm tra cho phù hợp.
1.1.
Đối với cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy
Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy có
nhiệm vụ lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát theo Điều 30 Điều lệ Đảng. Nội dung kiểm tra
đối với cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cần tập trung vào các vấn đề chính sau:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo công
tác kiểm tra, giám sát
- Triển khai, quán triệt Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng, của
cấp ủy cấp trên và cấp mình về công tác kiểm tra, giám sát.
- Xây dựng và chỉ đạo các cơ
quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cùng cấp và cấp ủy cấp dưới xây dựng phương hướng,
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát toàn khóa; phân công cấp ủy viên, các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy cùng cấp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Chỉ đạo,
kiểm tra, đôn đốc cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thực hiện chương trình, kế hoạch
kiểm tra, giám sát.
- Ban hành các văn bản theo thẩm
quyền để các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
và để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân tham gia kiểm
tra, giám sát.
- Ban hành và chỉ đạo thực hiện
các quy định phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc
của cấp ủy, giữa các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy với ban cán sự đảng,
đảng đoàn hoặc với các cơ quan liên quan.
- Nghe báo cáo và chỉ đạo việc
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; giải quyết kiến nghị của
các tổ chức đảng cấp dưới và định kỳ sơ kết, tổng kết về công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng.
- Lãnh đạo, chỉ đạo về tổ chức,
hoạt động của ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra, về xây dựng đội ngũ, chế
độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra.
- Lãnh đạo, chỉ đạo việc tuyên
truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
- Đề xuất với cấp có thẩm quyền
về những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành các văn bản về công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
b) Tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát
Việc xây dựng và thực hiện
chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (của
toàn khóa, từng thời gian hoặc từng cuộc kiểm tra). Chú ý:
- Xác định mục đích, yêu cầu, nội
dung, đối tượng, hình thức, phương pháp tiến hành đối với từng cuộc kiểm tra,
giám sát và kết quả thực hiện.
- Phân công thành viên của cấp ủy
chủ trì cuộc kiểm tra, giám sát và kiểm tra, giám sát thường xuyên theo chức
năng, nhiệm vụ, địa bàn, lĩnh vực công tác được cấp ủy phân công.
- Đánh giá chung về chất lượng,
hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy nơi được kiểm
tra.
1.2.
Đối với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy
a) Nội dung, thẩm quyền và
trách nhiệm trong kiểm tra của các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy[19]:
* Nội dung kiểm tra: Theo chức
năng, nhiệm vụ, lĩnh vực được phân công phụ trách và những nội dung do cấp uỷ
giao.
* Thẩm quyền, trách nhiệm:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch
và sử dụng bộ máy của cơ quan mình tiến hành kiểm tra tố chức đảng cấp dưới và
đảng viên hoặc phối hợp với uỷ ban kiểm tra và các cơ quan tham mưu, giúp việc
khác của cấp uỷ để tiến hành công tác kiểm tra.
- Phối hợp với uỷ ban kiểm tra
cùng cấp tham mưu, giúp cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ xây dựng và tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra của cấp uỷ hàng năm thuộc lĩnh vực phụ
trách; tham gia các cuộc kiểm tra của cấp uỷ hoặc chủ trì kiểm tra khi được cấp
uỷ giao.
- Giúp cấp uỷ, ban thường vụ cấp
uỷ theo dõi, đôn đốc tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; tham
gia ý kiến và giúp cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ kết luận các nội dung kiểm tra
thuộc lĩnh vực được giao.
- Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, được yêu cầu tổ chức đảng và đảng viên có liên quan báo cáo, cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến việc kiểm tra và phải giữ bí mật nội dung
thông tin, tài liệu.
- Qua kiểm tra, yêu cầu đối tượng
kiểm tra kịp thời khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm; nếu phát hiện có dấu
hiệu vi phạm thì đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm.
- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền
giám định chuyên môn, kỹ thuật liên quan đến nội dung kiểm tra.
b) Nội dung, thẩm quyền và trách
nhiệm trong giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy[20]:
* Nội dung giám sát:
- Đối với tổ chức đảng: (i) Việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị,
quy định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến đối
tượng giám sát. (ii) Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực
phụ trách và những nội dung do cấp ủy giao.
- Đối với đảng viên: Việc thực
hiện nhiệm vụ đảng viên, nhiệm vụ cấp uỷ viên liên quan đến lĩnh vực phụ trách
của đối tượng giám sát.
* Thẩm quyền và trách nhiệm:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch
và sử dụng bộ máy của cơ quan mình hoặc phối hợp với uỷ ban kiểm tra và các cơ
quan tham mưu, giúp việc khác của cấp uỷ để tiến hành công tác giám sát.
- Phối hợp với uỷ ban kiểm tra
cùng cấp tham mưu, giúp cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ xây dựng và tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch giám sát của cấp uỷ hằng năm thuộc lĩnh vực phụ
trách.
- Các cơ quan tham mưu, giúp việc
của cấp uỷ và cán bộ, chuyên viên được phân công theo dõi lĩnh vực, địa bàn khi
thực hiện nhiệm vụ giám sát được yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi
phụ trách báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát và
phải giữ bí mật nội dung thông tin, tài liệu đó.
- Qua giám sát, kịp thời nhắc
nhở đối tượng được giám sát phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa thiếu sót,
khuyết điểm; nếu phát hiện tổ chức đảng hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì
báo cáo hoặc đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Nếu phát hiện tổ chức đảng cấp
dưới hoặc đảng viên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc ban hành các văn
bản sai trái thì báo cáo cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp xem xét, xử lý.
1.3.
Các ban cán sự đảng, đảng đoàn
Căn cứ các quy định của Đảng về
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác của ban cán sự đảng,
đảng đoàn trong các cơ quan, tổ chức và căn cứ Điều 6, Quy định
số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn vừa
lãnh đạo công tác kiểm tra, vừa là đối tượng kiểm tra, việc thực hiện nhiệm vụ này
như sau:
a) Chức năng, nhiệm vụ của ban
cán sự đảng, đảng đoàn trong lãnh đạo công tác kiểm tra:
- Lãnh đạo công tác kiểm tra việc
chấp hành đường lối, chính sách của Đảng trong lĩnh vực được phân công, phụ
trách; căn cứ quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc của tỉnh uỷ, thành uỷ
về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế làm việc và tình
hình thực tế để xác định nội dung, đối tượng và phương pháp lãnh đạo công tác
kiểm tra.
- Ban hành văn bản chỉ đạo về
công tác kiểm tra thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Phân công các thành viên ban
cán sự đảng, đảng đoàn lãnh đạo công tác kiểm tra thuộc phạm vi phụ trách.
- Trực tiếp làm việc hoặc thông
qua văn bản chỉ đạo của ban cán sự đảng, đảng đoàn đối với đối tượng lãnh đạo.
- Phối hợp với cấp uỷ, tổ chức
đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội có
liên quan để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
b) Kiểm tra việc lãnh đạo công
tác kiểm tra của ban cán sự đảng, đảng đoàn về các nội dung sau:
- Triển khai quán triệt và chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định,
quy định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng.
- Lãnh đạo các thành viên của
ban cán sự đảng, đảng đoàn gương mẫu thực hiện công tác kiểm tra và chấp hành
nghiêm chỉnh khi được kiểm tra, giám sát.
- Lãnh đạo việc giải quyết các
đề xuất, kiến nghị về công tác kiểm tra có liên quan đến trách nhiệm, thẩm quyền
của ban cán sự đảng, đảng đoàn; lãnh đạo khắc phục hậu quả, sửa chữa khuyết điểm
sau kiểm tra, giám sát.
- Kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định của Đảng về công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng.
1.4.
Đối với ủy ban kiểm tra các cấp
a) Chức năng, nhiệm vụ của ủy
ban kiểm tra các cấp
- Chủ trì phối hợp với các cơ
quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cùng cấp tham mưu, giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức quán triệt trong đảng
bộ về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; xem xét, xử lý kỷ luật và giải quyết
tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng.
- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng tại Điều 32 Điều lệ Đảng.
- Tham gia các cuộc kiểm tra,
giám sát do cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
ủy cùng cấp chủ trì.
- Cùng các cơ quan tham mưu,
giúp việc của cấp ủy cùng cấp tham mưu, giúp cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy kết
luận các cuộc kiểm tra, đánh giá kết quả các cuộc giám sát; sơ kết, tổng kết thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện
các kết luận kiểm tra, thông báo kết quả giám sát, quyết định của cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy sau các cuộc kiểm tra, giám sát.
- Hướng dẫn các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy cùng cấp, ban cán sự đảng, đảng đoàn trực thuộc cấp ủy,
hướng dẫn cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát ủy ban kiểm tra cấp dưới về nghiệp
vụ, kiện toàn ủy ban kiểm tra, tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra, xây dựng
đội ngũ cán bộ kiểm tra.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
b) Tập trung kiểm tra ủy ban kiểm
tra các cấp về các nội dung sau:
- Việc xây dựng phương hướng,
nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
theo quy định tại Điều 32 Điều lệ Đảng; kết quả thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
- Việc chấp hành sự chỉ đạo, hướng
dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên; việc chỉ đạo, hướng dẫn ủy ban kiểm tra cấp
dưới về phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong từng thời gian; việc kiểm
tra, giám sát hoạt động của ủy ban kiểm tra cấp dưới.
- Việc tham mưu, giúp cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều
30 Điều lệ Đảng và thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy giao.
- Việc giúp cấp ủy ban hành quy
chế làm việc của ủy ban kiểm tra; kiện toàn cơ quan ủy ban kiểm tra về tổ chức
bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách, xây dựng đội ngũ cán
bộ kiểm tra.
- Việc phối hợp với ban tổ chức
của cấp ủy cùng cấp và cấp ủy cấp dưới chuẩn bị nhân sự ủy ban kiểm tra cấp dưới.
- Việc sơ kết, tổng kết công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
2. Đối
tượng
Điểm 3.2.2, Tiết
3.2, Khoản 3, Điều 8, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XIII) về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
quy định đối tượng kiểm tra bao gồm:
Các tổ chức đảng cấp dưới thuộc
phạm vi lãnh đạo của cấp ủy cấp mình, trước hết là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy,
ủy ban kiểm tra cấp dưới trực tiếp, những nơi chưa làm tốt hoặc có khó khăn
trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
III.
CÁCH TIẾN HÀNH
1. Bước chuẩn bị
1.1. Căn cứ kế hoạch
công tác hoặc nhiệm vụ do thường trực ủy ban kiểm tra giao, vụ trưởng hoặc trưởng
phòng (cấp tỉnh) hoặc cán bộ kiểm tra báo cáo, đề xuất với thành viên ủy ban kiểm
tra trực tiếp phụ trách địa bàn và các thành viên ủy ban kiểm tra phụ trách vụ
về quyết định, kế hoạch kiểm tra, dự kiến đoàn kiểm tra.
1.2. Vụ trưởng
(trưởng phòng) hoặc cán bộ kiểm tra trình thường trực ủy ban kiểm tra xem xét,
ban hành quyết định kiểm tra, kế hoạch kiểm tra.
1.3. Đoàn kiểm
tra phân công nhiệm vụ cho các thành viên; xây dựng lịch kiểm tra, đề cương gợi
ý báo cáo giải trình; chuẩn bị các văn bản, tài liệu cần thiết phục vụ việc kiểm
tra.
2. Bước tiến hành
2.1. Đoàn kiểm
tra làm việc với đại diện tổ chức đảng được kiểm tra để triển khai quyết định,
kế hoạch kiểm tra, thống nhất lịch tiến hành; yêu cầu tổ chức đảng được kiểm
tra chuẩn bị báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu cho đoàn kiểm tra và
chỉ đạo các tổ chức đảng có liên quan phối hợp thực hiện.
2.2. Đoàn kiểm
tra tiến hành thẩm tra, xác minh:
- Thu thập và nghiên cứu tài liệu,
văn bản; nghiên cứu báo cáo của tổ chức đảng được kiểm tra; làm việc với các tổ
chức đảng, đảng viên có liên quan; kiểm tra một số tổ chức đảng cấp dưới của tổ
chức đảng được kiểm tra.
Nếu cần giám định kỹ thuật,
chuyên môn thì trưởng đoàn kiểm tra hoặc thành viên ủy ban kiểm tra phụ trách
đoàn kiểm tra quyết định.
- Trao đổi với đại diện tổ chức
đảng được kiểm tra những nội dung cần bổ sung vào báo cáo (nếu có).
2.3. Các tổ chức
đảng có liên quan tổ chức và chủ trì hội nghị (hội nghị của cấp ủy, tổ chức đảng
nào thì cấp ủy, tổ chức đảng đó tổ chức, chủ trì, ghi biên bản):
- Nội dung: Tổ chức đảng được
kiểm tra báo cáo giải trình; đoàn kiểm tra thông báo kết quả thẩm tra, xác minh
bằng văn bản, hội nghị thảo luận và đề nghị.
- Thành phần: Đoàn kiểm tra và
đảng viên của tổ chức đảng được kiểm tra.
- Tùy nội dung, đối tượng kiểm
tra, trưởng đoàn kiểm tra quyết định tổ chức đảng tổ chức hội nghị, thành phần
dự các hội nghị.
2.4. Đoàn kiểm
tra tiếp tục thẩm tra, xác minh những nội dung chưa rõ; chuẩn bị báo cáo kết quả
kiểm tra; trao đổi với đại diện tổ chức đảng được kiểm tra về kết quả kiểm tra.
2.5. Đoàn kiểm
tra hoàn chỉnh báo cáo kết quả kiểm tra, báo cáo đồng chí lãnh đạo Ủy ban Kiểm
tra chỉ đạo đoàn kiểm tra trước khi trình Ủy ban.
3. Bước kết thúc
3.1. Ủy ban kiểm
tra xem xét, kết luận:
- Đoàn kiểm tra báo cáo kết quả
kiểm tra; trình bày đầy đủ ý kiến của tổ chức đảng được kiểm tra.
- Ủy ban kiểm tra thảo luận, kết
luận.
3.2. Đoàn kiểm
tra phối hợp với Vụ Tổng hợp (hoặc Văn phòng cơ quan ủy ban kiểm tra tỉnh ủy)
hoàn chỉnh thông báo kết luận kiểm tra trình thường trực ủy ban kiểm tra ký, ban
hành.
3.3. Trưởng đoàn
kiểm tra thông báo kết luận kiểm tra đến tổ chức đảng được kiểm tra.
3.4. Đoàn kiểm
tra họp rút kinh nghiệm, thống nhất nhận xét, đánh giá (bằng văn bản) về ưu điểm,
khuyết điểm của từng thành viên đoàn kiểm tra, trình lãnh đạo chỉ đạo đoàn kiểm
tra ký, gửi người đứng đầu các đơn vị có cán bộ tham gia đoàn kiểm tra; lập và
nộp lưu hồ sơ.
3.5. Vụ
(phòng) hoặc cán bộ theo dõi lĩnh vực, địa bàn đôn đốc, giám sát việc chấp hành
kết luận, quyết định của ủy ban kiểm tra.
IV. MỘT
SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
Để việc kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát được thực hiện đúng phương hướng, mục
tiêu và có hiệu quả thì một vấn đề có tính nguyên tắc là trong quá trình triển khai
kiểm tra phải lấy việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng trong từng thời kỳ làm điểm xuất phát, mục tiêu, phương hướng và
nội dung kiểm tra. Do đó, uỷ ban kiểm tra các cấp khi xây dựng chương trình kiểm
tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cần căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh công tác xây dựng Đảng cụ thể và nhiệm vụ chính trị của địa
phương, đơn vị để bổ sung, điều chỉnh nội dung, phương pháp kiểm tra cho phù hợp,
trong đó cần lưu ý một số vấn đề sau:
1. Khi
thực hiện bước chuẩn bị kiểm tra
- Ủy ban kiểm tra các cấp phải
thực hiện đủ, đúng quy định về thẩm quyền ban hành các loại văn bản phục vụ chuẩn
bị kiểm tra, cần nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tình hình lãnh đạo, chỉ
đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của từng tổ chức đảng để xác định
đúng nội dung và đối tượng kiểm tra.
Riêng bước chuẩn bị kiểm tra ở
cơ sở, có thể giảm bớt một số văn bản bằng cách gộp nội dung của một số văn bản
trên, chỉ cần ra hai loại văn bản là quyết định kiểm tra (có cả nội dung của
quyết định thành lập tổ kiểm tra) và kế hoạch kiểm tra (có cả nội dung của lịch
kiểm tra và hướng dẫn tổ chức đảng thực hiện báo cáo tự kiểm tra).
- Trước khi ra quyết định kiểm
tra cần nắm vững tình hình có liên quan đến cuộc kiểm tra của địa phương, cơ sở
để có thể vừa thực hiện đúng chương trình kiểm tra đã đề ra, vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho tổ chức được kiểm tra thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị được kiểm
tra.
2. Khi
thực hiện bước tiến hành kiểm tra
- Đoàn kiểm tra phải có phương
pháp tiến hành kiểm tra phù hợp trên cơ sở kết hợp tốt việc kiểm tra của uỷ ban
kiểm tra với tự kiểm tra của tổ chức đảng được kiểm tra và điều chỉnh lịch kiểm
tra một cách hợp lý, vừa bảo đảm tiến độ, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của
địa phương, cơ sở để cuộc kiểm tra đạt hiệu quả, tiến hành nghiêm túc nhưng tiết
kiệm được công sức.
- Khi tiến hành kiểm tra phải dựa
vào tổ chức đảng; dựa vào tinh thần tự giác trong phê bình và tự phê bình của tổ
chức đảng và đảng viên là chính; đồng thời, phát huy tinh thần xây dựng Đảng của
quần chúng và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Công tác kiểm tra của Đảng là
sinh hoạt nội bộ Đảng, do đó, khi áp dụng các phương pháp kiểm tra phải giữ
đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đúng tính chất công tác Đảng.
- Tất cả các cuộc làm việc với
tổ chức đảng, đảng viên là đối tượng kiểm tra cũng như với các tổ chức, cá nhân
có liên quan, đoàn kiểm tra phải lập biên bản làm việc (những biên bản này làm
căn cứ kết luận kiểm tra và phải lưu trữ trong hồ sơ kiểm tra). Đoàn kiểm tra
không được tiến hành kiểm tra những vấn đề ngoài nội dung kiểm tra đã đề ra
trong quyết định kiểm tra (trừ trường hợp đặc biệt được uỷ ban kiểm tra cho
phép).
- Trong quá trình kiểm tra,
đoàn kiểm tra nhận thấy tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo
uỷ ban kiểm tra để thực hiện kiểm tra theo quy trình kiểm tra tổ chức đảng hoặc
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
3. Khi
xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra và kết luận kiểm tra
- Nội dung báo cáo kết quả kiểm
tra và kết luận kiểm tra phải cụ thể, chính xác, đầy đủ, tránh việc nêu thành
tích nhiều còn khuyết điểm nêu chung chung, không quy được trách nhiệm cho cá
nhân. Những vấn đề yêu cầu tổ chức đảng được kiểm tra phải thực hiện để sửa chữa
khuyết điểm, khắc phục yếu kém, hạn chế phải cụ thể, có địa chỉ và phải quy định
thời hạn hoàn thành, thời hạn báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm tra.
- Những đề xuất trong báo cáo kết
quả kiểm tra, đoàn kiểm tra cần đề xuất cả những vấn đề thuộc về các quy định của
Đảng, cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước để uỷ ban kiểm tra xem xét,
quyết định.
- Các công việc từ khi kết thúc
kiểm tra ở tổ chức đảng cho đến khi có thông báo kết luận kiểm tra cần thực hiện
nhanh chóng, bảo đảm kịp thời, tính thời sự của công tác kiểm tra.
4. Rút
kinh nghiệm tổ chức thực hiện kiểm tra
Để nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng
cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đi vào nền nếp, uỷ ban kiểm tra
các cấp phải:
- Thường xuyên có kế hoạch kiểm
tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
- Chú trọng việc chỉ đạo, hướng
dẫn chuyên môn nghiệp vụ, đôn đốc, theo dõi uỷ ban kiểm tra cấp dưới tăng cường
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát.
- Thực hiện tốt công tác sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm, đánh giá đúng ưu điểm, kinh nghiệm hay để vận dụng
cho những cuộc kiểm tra sau; đồng thời, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm và đề
ra biện pháp khắc phục trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng
cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong thời gian tới.
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra các cấp
do Điều lệ Đảng quy định. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ có tác dụng quan trọng,
góp phần không nhỏ vào công tác xây dựng Đảng ở các địa phương, đơn vị. Điều đó
đòi hỏi ủy ban kiểm tra các cấp phải tích cực, chủ động, thường xuyên tiến hành
kiểm tra để góp phần tăng cường, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng và của ủy ban kiểm tra các cấp. Đồng thời, qua
công tác kiểm tra, giúp cho các cấp uỷ đảng rút ra được những bài học kinh nghiệm
về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng; giúp cho đối tượng kiểm tra phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm,
vi phạm để phấn đấu tiến bộ; góp phần xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo để hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
V. CÂU
HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Đồng chí hãy nêu
ý nghĩa, tác dụng của việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát ?
Câu 2: Cách tiến hành một
cuộc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Liên
hệ với thực hiện nhiệm vụ này ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí công tác?
Câu 3: Đồng chí hãy nêu
nội dung kiểm tra của ủy ban kiểm tra đối với cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cấp
dưới trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Liên hệ việc thực hiện
nhiệm vụ này ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí công tác ?
CHUYÊN ĐỀ 6: ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
GIÁM SÁT TỔ CHỨC ĐẢNG CẤP DƯỚI VÀ ĐẢNG VIÊN
Giám sát của ủy ban kiểm tra
các cấp là việc ủy ban kiểm tra phân công thành viên ủy ban kiểm tra và cán bộ
kiểm tra hoặc lập đoàn (tổ) giúp ủy ban kiểm tra quan sát, theo dõi, nắm bắt
xem xét, đánh giá, kết luận các hoạt động nhằm kịp thời tác động để tổ chức đảng,
đảng viên trong phạm vi lãnh đạo, quản lý của cấp ủy cùng cấp chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các
quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hình thức giám sát có giám sát
thường xuyên và giám sát theo chuyên đề, giám sát chuyên đề khi cần thiết thì
thực hiện thẩm tra xác minh
Ủy ban kiểm tra các cấp chỉ đạo,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền được Điều lệ Đảng và Ban Chấp hành Trung ương quy định đối với cấp ủy
viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên.
Để thực hiện nhiệm vụ giám sát
thường xuyên, ủy ban kiểm tra các cấp phân công thành viên ủy ban kiểm tra, cán
bộ, công chức trong cơ quan ủy ban kiểm tra theo dõi các tổ chức đảng và đảng
viên thuộc các địa bàn, lĩnh vực công tác trong phạm vi lãnh đạo, quản lý của cấp
ủy cùng cấp; đồng thời thông báo cho các tổ chức đảng đó và các tổ chức đảng có
liên quan biết.
Để tiến hành giám sát chuyên đề,
ủy ban kiểm tra hoặc thường trực ủy ban kiểm tra cần thành lập các đoàn (tổ)
giám sát giúp ủy ban kiểm tra giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên.
I. NỘI
DUNG, ĐỐI TƯỢNG GIÁM SÁT
1. Nội dung giám sát
1.1. Đối với tổ chức đảng
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, của cấp ủy cấp trên
và cấp mình, pháp luật của Nhà nước.
- Những nội dung do cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy cùng cấp giao (nếu có).
- Việc ban hành các văn bản có
dấu hiệu trái với chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
- Việc thực hiện các kết luận,
quyết định kiểm tra, giám sát và kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên vi phạm
1.2. Đối với đảng viên (kể
cả cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý:
- Việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình, pháp luật của Nhà
nước.
- Thực hiện các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng, quy chế làm việc, chế độ công tác.
- Tư tưởng chính trị, giữ gìn đạo
đức, lối sống và trách nhiệm nêu gương theo các quy định của Đảng.
- Về tiêu chuẩn đảng viên, tiêu
chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
- Việc kê khai tài sản, thu nhập
theo quy định.
- Những nội dung do cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy cùng cấp giao (nếu có).
2. Đối tượng giám sát
2.1. Đối với tổ chức đảng:
Các tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, ủy ban kiểm
tra cấp dưới trực tiếp.
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy
các cấp, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên, ủy ban kiểm tra; chi bộ,
chi ủy, đảng ủy bộ phận; ban thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở.
- Các cơ quan tham mưu, giúp việc
của cấp ủy cấp dưới và các ban cán sự đảng, đảng đoàn thuộc cấp ủy cùng cấp quản
lý.
- Nếu là ủy ban kiểm tra đảng ủy
cơ sở thì đối tượng giám sát là chi ủy, chi bộ (chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở, chi
bộ trực thuộc đảng bộ bộ phận), đảng ủy bộ phận thuộc đảng bộ cơ sở (nếu có).
Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ giám sát tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, ủy ban kiểm tra có thể làm việc với
các tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp.
2.2. Đối với đảng viên
Ủy ban kiểm tra các cấp có quyền
giám sát đối với mọi đảng viên trong phạm vi lãnh đạo, quản lý của đảng bộ, kể
cả cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, bí thư, phó
bí thư, ủy viên ban thường vụ cấp ủy cùng cấp.
Tùy yêu cầu của nhiệm vụ chính
trị và công tác xây dựng Đảng của đảng bộ trong từng thời gian mà xác định đối
tượng giám sát cho phù hợp. Trước hết, tập trung giám sát cấp ủy viên cùng cấp,
cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, người đứng đầu cấp ủy, đảng viên là
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức, cán bộ lãnh đạo chủ chốt nhằm bảo đảm
cho quyền lực được thực thi đúng hướng, ngăn ngừa lạm dụng quyền lực, đặc quyền,
đặc lợi, tệ tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, tiêu cực và sự thoái hóa, biến
chất của cán bộ, đảng viên.
II. CÁCH
TIẾN HÀNH GIÁM SÁT
Tiến hành giám sát theo cả hai
hình thức là giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề, trong đó giám sát thường
xuyên là chủ yếu. Tiến hành giám sát gián tiếp và giám sát trực tiếp, trong đó
giám sát gián tiếp là chủ yếu.
1. Giám
sát thường xuyên
- Thông báo cho đối tượng giám
sát biết thành viên ủy ban kiểm tra phụ trách, cán bộ cơ quan ủy ban kiểm tra
được phân công theo dõi địa bàn, lĩnh vực được phân công thực hiện nhiệm vụ
giám sát. Đầu nhiệm kỳ hoặc khi có thay đổi, chủ thể giám sát phải thông báo bằng
văn bản việc phân công cấp uỷ viên thực hiện nhiệm vụ giám sát cho đối tượng
giám sát.
- Thực hiện giám sát thường
xuyên chủ yếu bằng giám sát gián tiếp thông qua báo cáo của tổ chức đảng, đảng
viên, thông tin từ cán bộ, đảng viên, quần chúng, phương tiện báo chí, truyền
thông và giám sát trực tiếp thông qua dự các cuộc họp của cấp ủy, ban thường vụ
cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới để nắm tình hình, theo dõi, quan sát đối với tổ
chức đảng và đảng viên theo thẩm quyền. Giám sát thường xuyên không lập đoàn (tổ)
giám sát.
1.1. Giám sát trực tiếp
- Thành viên ủy ban kiểm tra được
dự các cuộc họp thường kỳ, đột xuất của cấp ủy cùng cấp (trừ cuộc họp có nội
dung cần bàn riêng).
- Ủy ban kiểm tra cử thành viên
ủy ban kiểm tra và cán bộ thường xuyên theo dõi địa bàn, lĩnh vực công tác và
thông báo cho tổ chức đảng được phân công theo dõi biết. Các đồng chí này được
dự các cuộc họp, hội nghị thường kỳ, đột xuất của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy,
thường trực cấp ủy cấp dưới và các tổ chức đảng trực thuộc cấp ủy cùng cấp, nơi
được phân công theo dõi; dự các hội nghị của tổ chức đảng cấp dưới trực thuộc tổ
chức đảng được phụ trách hoặc theo dõi khi cần thiết.
- Thành viên ủy ban kiểm tra và
cán bộ kiểm tra các cấp tham gia các đoàn công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các ban xây dựng Đảng của cấp ủy cùng cấp; dự
các cuộc họp khi được mời.
- Các đồng chí thành viên ủy
ban kiểm tra gặp gỡ, trao đổi, góp ý với đối tượng giám sát.
- Trực tiếp xuống đôn đốc, nhắc
nhở, theo dõi đối tượng kiểm tra chấp hành kết luận kiểm tra, quyết định thi
hành kỷ luật; các kết luận, quyết định của tổ chức đảng cấp trên; đối tượng
giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát chuyên đề.
1.2. Giám sát gián tiếp
- Nghiên cứu, xem xét các văn bản,
báo cáo; các thông báo kết luận về các cuộc kiểm tra, thông báo về kết quả giám
sát; kết quả tự phê bình và phê bình, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao của
cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao.
- Ý kiến trao đổi, phản ánh, kiến
nghị, báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra, giám sát của các tổ chức nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế; phản ánh của các
phương tiện thông tin đại chúng.
- Xem xét đơn tố cáo của đảng
viên và quần chúng; khiếu nại, phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân đối với
tổ chức đảng, đảng viên.
2. Giám
sát chuyên đề
Hằng năm, căn cứ yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng và tình hình thực tế của đảng bộ, ủy ban
kiểm tra xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát chuyên đề và thông báo cho đối
tượng giám sát biết, thực hiện theo các bước sau:
2.1. Bước chuẩn bị
- Căn cứ chương trình, kế hoạch
công tác kiểm tra, giám sát hằng năm hoặc nhiệm vụ do thường trực ủy ban kiểm
tra hoặc ủy ban kiểm tra giao, cán bộ được phân công theo dõi địa bàn, lĩnh vực
đề xuất với đồng chí vụ trưởng (hoặc trưởng phòng), thành viên ủy ban kiểm tra
phụ trách về kế hoạch giám sát và dự kiến thành phần đoàn giám sát.
- Vụ trưởng hoặc trưởng phòng
hoặc cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực trình thường trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy
ban kiểm tra ký quyết định lập đoàn giám sát và duyệt kế hoạch giám sát cụ thể
đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên.
Kế hoạch giám sát cụ thể đối với
tổ chức đảng và đảng viên phải nêu rõ nội dung, đối tượng giám sát, phương
pháp, mốc thời điểm, thời gian giám sát. Thời gian giám sát được tính từ ngày
chủ thể nhận được báo cáo theo gợi ý giám sát của đối tượng giám sát. Thời gian
giám sát đối với cấp Trung ương không quá 45 ngày làm việc; cấp tỉnh, thành và
tương đương không quá 30 ngày làm việc; cấp huyện, quận và tương đương không
quá 25 ngày làm việc; cấp cơ sở không quá 20 ngày làm việc. Trường hợp đặc biệt,
chủ thể giám sát có thể quyết định gia hạn thời gian giám sát nhưng không quá
1/3 thời gian giám sát đối với từng cấp theo quy định
Chủ thể giám sát thông báo quyết
định, kế hoạch giám sát chuyên đề cho đối tượng giám sát biết trong vòng 5 ngày
làm việc kể từ ngày ban hành quyết định giám sát.
- Đoàn giám sát phân công nhiệm
vụ cho các thành viên trong đoàn, xây dựng lịch giám sát, dự thảo đề cương gợi
ý báo cáo về nội dung giám sát, chuẩn bị các văn bản, tài liệu để phục vụ việc
giám sát.
2.2. Bước tiến hành
- Đoàn giám sát làm việc với đại
diện tổ chức đảng hoặc đảng viên được giám sát để triển khai quyết định, kế hoạch
giám sát. Nhận báo cáo của tổ chức đảng, đảng viên được giám sát và các văn bản,
tài liệu có liên quan.
- Đoàn giám sát tiến hành
nghiên cứu, xem xét những thông tin, hồ sơ, tài liệu, văn bản có liên quan đến
nội dung, đối tượng giám sát; làm việc với tổ chức, cá nhân có liên quan (nếu cần);
xây dựng dự thảo báo cáo kết quả giám sát; khi cần thiết được thẩm tra, xác
minh.
- Tổ chức đảng được giám sát hoặc
tổ chức đảng có đảng viên được giám sát tổ chức hội nghị để đại diện tổ chức đảng,
đảng viên được giám sát trình bày ý kiến; đoàn giám sát trình bày dự thảo báo
cáo kết quả giám sát; hội nghị thảo luận.
Thành phần hội nghị gồm:
Thành viên ủy ban kiểm tra phụ trách đoàn giám sát; đoàn giám sát; tổ chức đảng
hoặc đảng viên được giám sát; tổ chức, cá nhân có liên quan (nếu cần).
- Đoàn giám sát tham khảo ý kiến
của vụ trưởng, trưởng phòng hoặc cán bộ theo dõi địa bàn được phân công theo
dõi địa bàn, lĩnh vực công tác nơi giám sát; hoàn chỉnh báo cáo kết quả giám
sát.
2.3. Bước kết thúc
- Đoàn giám sát báo cáo ủy ban
kiểm tra về kết quả giám sát; phối hợp với đơn vị có liên quan hoàn chỉnh thông
báo kết quả giám sát trình thường trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra ký,
ban hành.
- Đại diện ủy ban kiểm tra
thông báo kết quả giám sát bằng văn bản đến tổ chức đảng, đảng viên được giám
sát và tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Qua xem xét kết quả giám sát,
nếu phát hiện tổ chức đảng, đảng viên được giám sát có dấu hiệu vi phạm thì thường
trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra xem xét, quyết định tiến hành kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Đoàn giám sát và vụ (phòng)
nghiệp vụ theo dõi lĩnh vực, địa bàn họp rút kinh nghiệm cuộc giám sát theo
chuyên đề.
- Đoàn giám sát lập, hoàn chỉnh
hồ sơ cuộc giám sát và nộp lưu.
- Vụ (phòng) theo dõi địa bàn,
lĩnh vực đôn đốc, giám sát đối tượng giám sát thực hiện thông báo kết quả giám
sát của ủy ban kiểm tra.
III- THẨM
QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ỦY BAN KIỂM TRA, ĐOÀN GIÁM SÁT, CÁN BỘ KIỂM TRA; TRÁCH
NHIỆM VÀ QUYỀN CỦA ĐỐI TƯỢNG GIÁM SÁT VÀ CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN CÓ LIÊN QUAN
1. Thẩm
quyền và trách nhiệm của uỷ ban kiểm tra, đoàn giám sát, cán bộ kiểm tra
1.1. Về thẩm quyền
- Ban hành các văn bản về thực
hiện công tác giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng.
- Phân công thành viên ủy ban
kiểm tra phụ trách và cán bộ trong cơ quan theo dõi địa bàn, lĩnh vực công tác;
cử thành viên ủy ban kiểm tra hoặc cán bộ kiểm tra dự các hội nghị của cấp ủy,
tổ chức đảng cấp dưới.
- Thành viên ủy ban kiểm tra phụ
trách và cán bộ kiểm tra theo dõi địa bàn, lĩnh vực công tác được yêu cầu các cấp
ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên giải trình, cung cấp tài liệu, báo cáo về
vấn đề giám sát; có trách nhiệm bảo mật thông tin, tài liệu và chịu trách nhiệm
về việc giám sát trước ủy ban kiểm tra.
- Thành viên ủy ban kiểm tra được
dự các cuộc họp của cấp ủy cùng cấp (trừ nội dung cần bàn riêng). Đại diện ủy
ban kiểm tra được dự các cuộc họp của ban thường vụ, thường trực cấp ủy cùng cấp
(khi được mời).
- Ủy ban kiểm tra cử thành viên
ủy ban kiểm tra, người giám sát dự các cuộc họp của tổ chức đảng cấp dưới; lập
các đoàn giám sát để tiến hành các cuộc giám sát; nắm tình hình liên quan đến đối
tượng được giám sát; được thẩm tra, xác minh khi cần thiết.
- Khi thực hiện giám sát, ủy
ban kiểm tra được trao đổi, yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên được
giám sát cung cấp văn bản, thông tin, tài liệu, trả lời, trao đổi về những vấn
đề liên quan đến việc giám sát trực tiếp tại cuộc họp hoặc bằng văn bản yêu cầu
trả lời; xem xét, đánh giá về nội dung giám sát đối với đối tượng giám sát.
- Thành viên ủy ban kiểm tra,
đoàn giám sát và cán bộ kiểm tra được trao đổi, đề nghị tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên được giám sát báo cáo, trả lời, cung cấp văn bản, thông tin, tài
liệu có liên quan phục vụ việc giám sát. Yêu cầu tổ chức đảng quản lý đối tượng
giám sát phối hợp thực hiện; yêu cầu hoặc đề nghị tổ chức, cá nhân có liên quan
cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ việc giám sát.
- Qua giám sát, phải kịp thời
báo cáo ủy ban kiểm tra kiến nghị cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên được giám
sát phát huy ưu điểm, nhắc nhở, cảnh báo, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm,
rút kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
- Ủy ban kiểm tra nếu phát hiện
đối tượng giám sát không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc ban hành các văn
bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì quyết định bãi bỏ theo
thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị tổ chức đảng, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi,
bổ sung, bãi bỏ, thu hồi các văn bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
- Ủy ban kiểm tra được yêu cầu
đối tượng giám sát sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm, khắc phục hậu quả đã gây ra
(nếu có). Yêu cầu tổ chức đảng quản lý đối tượng giám sát chỉ đạo, tạo điều kiện
để đối tượng giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát. Nếu không khắc phục,
xử lý thì báo cáo cấp ủy cùng cấp xem xét trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên liên quan.
Nếu phát hiện tổ chức đảng cấp
dưới hoặc đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) có dấu hiệu vi phạm thì báo
cáo thường trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra để tiến hành kiểm tra tổ
chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
1.2. Về trách nhiệm
- Thực hiện việc giám sát thường
xuyên (gián tiếp, trực tiếp), giám sát theo chương trình, kế hoạch và giữ bí mật
về nội dung văn bản, tài liệu, thông tin, các cá nhân có liên quan đến việc
giám sát; phát ngôn, thông tin theo đúng quy định của Đảng và Nhà nước.
Công tâm, khách quan khi thực
hiện giám sát; báo cáo, chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng có thẩm quyền về kết
quả giám sát của mình. Đoàn giám sát, đảng viên được giao thực hiện nhiệm vụ
giám sát có trách nhiệm báo cáo kết quả giám sát bằng văn bản với chủ thể giám
sát; lập, nộp lưu hồ sơ theo quy định.
- Thành viên ủy ban kiểm tra,
đoàn giám sát, cán bộ kiểm tra theo dõi lĩnh vực, địa bàn có trách nhiệm báo
cáo kết quả giám sát bằng văn bản cho thường trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban
kiểm tra theo quy định; chịu trách nhiệm về việc giám sát của mình; giữ bí mật
nội dung thông tin, tài liệu cung cấp cho việc giám sát.
- Thông báo cho đối tượng giám
sát về quyết định phân công thành viên ủy ban, cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực
công tác để đối tượng giám sát biết; thông báo việc thành lập đoàn giám sát, kế
hoạch giám sát chuyên đề cho đối tượng giám sát.
- Thông báo bằng văn bản kết quả
giám sát chuyên đề cho đối tượng giám sát; đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền
xem xét, sửa đổi, bổ sung những vấn đề cần thiết và tiếp tục theo dõi, đôn đốc
đối tượng giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát.
- Qua giám sát, nếu phát hiện tổ
chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thì thường trực ủy ban kiểm tra hoặc ủy ban kiểm tra quyết định kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên đó.
- Báo cáo kết quả giám sát với
tổ chức đảng có thẩm quyền và thông báo cho tổ chức đảng, cá nhân đảng viên có
liên quan.
- Tổ chức quán triệt, tuyên
truyền, phổ biến công tác giám sát theo quy định của Đảng; hướng dẫn, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ giám sát cho cán bộ làm công tác giám sát của Đảng trong
phạm vi lãnh đạo, quản lý của cấp ủy cùng cấp.
2. Trách
nhiệm và quyền của đối tượng giám sát
2.1. Về trách nhiệm của đối
tượng giám sát
- Chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ
Đảng, các quy định của Đảng, của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên và cấp ủy cấp
mình về công tác giám sát. Chấp hành các yêu cầu, quyết định, thông báo của chủ
thể giám sát hoặc của tổ chức đảng có thẩm quyền về công tác giám sát.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời các
văn bản, tài liệu có liên quan đến nội dung, đối tượng được giám sát cho chủ thể
giám sát khi có yêu cầu; tham dự đầy đủ các cuộc họp, buổi làm việc được triệu
tập liên quan đến giám sát; có trách nhiệm báo cáo, trả lời đầy đủ, trung thực
với chủ thể giám sát về các nội dung được yêu cầu báo cáo, trả lời.
Có trách nhiệm mời chủ thể giám
sát dự các cuộc họp, hội nghị để thực hiện giám sát thường xuyên theo quy định.
Đối tượng giám sát có trách nhiệm gửi trước cho chủ thể giám sát lịch công tác,
giấy mời kèm theo văn bản, tài liệu các cuộc họp, hội nghị của tổ chức mình để
chủ thể giám sát cử cán bộ tham dự.
- Thực hiện quyết định, thông
báo, tiếp thu việc nhắc nhở, cảnh báo và các đề nghị hoặc yêu cầu của chủ thể
giám sát; nghiên cứu, xem xét để phát huy mặt mạnh; khắc phục, sửa chữa những
khuyết điểm, yếu kém hoặc khắc phục hậu quả gây ra và báo cáo với chủ thể giám
sát.
- Không được gây khó khăn, trở
ngại; không được từ chối khi có yêu cầu giám sát của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Không để lộ nội dung kiểm tra, giám sát cho tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm
biết; không được sử dụng thiết bị ghi âm, ghi hình, thu phát sóng khi làm việc
với chủ thể kiểm tra, giám sát.
2.2. Về quyền của đối tượng
giám sát
- Được chủ thể giám sát thông
báo cho biết thành viên ủy ban kiểm tra và cán bộ, kiểm tra viên được phân công
giám sát thường xuyên tại tổ chức đảng của mình; được nghe nhận xét, đánh giá về
bản thân hay tổ chức mà mình là thành viên.
- Được chủ thể giám sát thông
báo trước quyết định, kế hoạch giám sát theo chuyên đề.
- Được trình bày ý kiến, giải
trình và bảo lưu ý kiến; được sử dụng bằng chứng để giải trình, chứng minh về
các nội dung giám sát thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình với chủ thể
giám sát.
- Từ chối trả lời, cung cấp
thông tin, tài liệu không thuộc phạm vi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình hoặc không liên quan đến nội dung, đối tượng giám sát hoặc thấy chủ thể
giám sát thực hiện không đúng nội dung, yêu cầu, trách nhiệm, thẩm quyền giám
sát.
- Được đề nghị, phản ánh, báo
cáo với tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét lại nhận xét, đánh giá đối với mình
hoặc xem xét lại việc giám sát không đúng nội dung, yêu cầu, trách nhiệm của chủ
thể giám sát.
3. Trách
nhiệm và quyền của tổ chức, cá nhân có liên quan
3.1. Về trách nhiệm
- Thực hiện nghiêm túc các đề
nghị hoặc yêu cầu của chủ thể giám sát thuộc chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Cung cấp thông tin, tài liệu
đầy đủ, khách quan, trung thực và chịu trách nhiệm về những thông tin, tài liệu
đó; không được từ chối hoặc đùn đẩy, né tránh cung cấp thông tin, tài liệu về
những vấn đề thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình.
- Không tiết lộ, cung cấp thông
tin, tài liệu giám sát cho các tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm biết.
3.2. Về quyền của tổ chức,
cá nhân có liên quan
- Được chủ thể giám sát thông
báo trước thời gian, nội dung làm việc với chủ thể giám sát.
- Trao đổi với chủ thể giám sát
về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện các yêu cầu hoặc đề nghị của chủ
thể giám sát.
- Từ chối trả lời hoặc cung cấp
thông tin, tài liệu không thuộc phạm vi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình.
Công tác giám sát của ủy ban kiểm
tra các cấp có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng; bảo đảm cho
đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định của Đảng,
của các cấp ủy được xác định đúng, được chấp hành nghiêm và có hiệu quả trong
thực tiễn.
Từ những vấn đề trên, mọi tổ chức
đảng, đảng viên cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về công tác giám sát của ủy ban
kiểm tra các cấp, coi trọng và chủ động, trực tiếp, thường xuyên, liên tục tiến
hành công tác giám sát, đồng thời tự giác chịu sự giám sát của Đảng, giám sát của
Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Cấp ủy các cấp một mặt, phải
coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở,
công khai, minh bạch các hoạt động, lắng nghe ý kiến của nhân dân và giải quyết
kịp thời những kiến nghị chính đáng của nhân dân; mặt khác, tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo ủy ban kiểm tra và các tổ chức đảng trực thuộc thực hiện tốt nhiệm vụ
giám sát.
Ủy ban kiểm tra các cấp phải chủ
động thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ giám sát của mình, đồng thời thực hiện tốt
vai trò tham mưu giúp cấp ủy thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát của cấp ủy và thực
hiện nhiệm vụ giám sát do cấp ủy giao; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đảng,
cơ quan có liên quan để thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát.
IV. CÂU
HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Đồng chí hãy nêu
cách tiến hành một cuộc giám sát chuyên đề đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên. Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ này ở đảng bộ nơi đồng chí công tác?
Câu 2: Đồng chí hãy nêu
thẩm quyền và trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp trong việc thực hiện nhiệm
vụ giám sát. Thực tế việc thực hiện nhiệm vụ này ở ủy ban kiểm tra nơi đồng chí
công tác?
Câu 3: Đồng chí hãy nêu
trách nhiệm và quyền của đối tượng giám sát. Liên hệ việc thực hiện trách nhiệm
và quyền của đối tượng giám sát có những thuận lợi, khó khăn gì khi ủy ban kiểm
tra tiến hành nhiệm vụ giám sát?
Câu 4: Đồng chí hãy nêu
những thuận lợi, khó khăn khi ủy ban kiểm tra thực hiện giám sát đối với cấp ủy
viên cùng cấp?
[1]
Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Phương Đông, 2008, tr.
847.
[2]
Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Phương Đông, 2008, tr.
288.
[3]
Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Phương Đông, 2008, tr.
1052.
[4]
Kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học "Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới
và nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng"-
Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
[5]
Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb Đà Nẵng, 2000, tr. 192.
[6]
"Bằng chứng" theo Từ điển Tiếng Việt là "Vật hoặc việc dùng làm
bằng để chứng tỏ sự việc là có thật".
[7]
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.41, tr.6, 34.
[8]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17.
[9]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17, 458.
[10]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.143.
[11]
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2016, tr.5.
[12]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.33.
[13]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.323-324.
[14]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.301.
[15]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Sđd, tr.254,
258.
[16]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Sđd, tr.208.
[17]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
NXB CTQG-ST, tập I, tr189
[18]
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.54.
[19]
Khoản 1, Điều 5, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XIII) về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
[20]
Khoản 2, Điều 5, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XIII) về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.