THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 182/TTg
|
Hà Nội, ngày 24
tháng 3 năm 1995
|
QUYẾT
ĐỊNH
VỀ VIỆC CỬ CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TƯ VẤN ĐẶC XÁ TRUNG ƯƠNG
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Quyết định số 335/QĐ -CTN ngày 27/2/1995 của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đặc xá năm 1995;
Để giúp Chủ tịch nước xét và Quyết định đặc xá;
QUYẾT ĐỊNH:
1 - Cử Phó Thủ tướng Chính phủ
Phan Văn Khải làm Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá Trung ương.
2 - Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng tổ
chức xét duyệt những phạm nhân được đặc xá theo đề nghị của Giám thị các trại
giam thuộc quyền và trình Hội đồng tư vấn đặc xá Trung ương.
công văn của hội đồng tư vấn đặc
xá trung ương số 1622/ncngày 28 tháng 3 năm 1995
Để thực hiện Quyết định số 335/
QĐ-CTN ngày 27/2/1995 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 1995, Hội đồng Tư vấn đặc
xá Trung ương hướng dẫn việc tổ chức thực hiện như sau:
1/ Về đối tượng
được tha tù:
Theo quyết định số 335/ QĐ-CTN
ngày 27/2/1995 của Chủ tịch nước thì những phạm nhân đang chấp hành hình phạt
tù thuộc các đối tượng dưới đây được xét tha tù năm 1995:
a) Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ,
nội quy của trại giam, tích cực lao động học tập là phạm nhân có hai năm liền
(1993-1994) được đánh giá, xếp loại cải tạo tốt.
b) Đã lập công trong thời gian
chấp hành hình phạt tù, thể hiện ở những hành vi sau:
- Có công phát hiện, ngăn chặn
và tham gia đấu tranh chống tội phạm như phát hiện phạm nhân trốn trại; bắt được
phạm nhân trốn khỏi nơi giam; bắt được hoặc phát hiện người có hành vi phạm tội.
- Cứu người bị nạn trong tình thế
hiểm nghèo; cứu được tài sản có giá trị lớn của Nhà nước, của tập thể hoặc của
công dân.
c) Bản thân là thương binh, bệnh
binh, người có công với cách mạng được thưởng Huân chương.
- Bệnh binh là người được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhân là bệnh binh do hoạt động ở chiến
trường, ở địa bàn đặc biệt khó khăn gian khổ mà sinh bệnh.
- Người có công với cách mạng là
người được thưởng Huân chương trong các danh hiệu vinh dự cao quý của Nhà nước
hoặc người đã có thành tích giúp đỡ cách mạng được Nhà nước tặng kỷ niệm chương
"Tổ quốc ghi công" hoặc bằng "Có công với nước".
d) Có người ruột thịt trong gia
đình (vợ hoặc chồng; cha, mẹ đẻ, con đẻ, anh chị em ruột; cha mẹ nuôi, con nuôi
hợp pháp) là liệt sĩ.
đ) Bản thân là lao động duy nhất
trong gia đình; phụ nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi không có người nuôi dưỡng; những
người có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn về đời sống như: có con còn nhỏ
không người trông nom, bố, mẹ, vợ hoặc chồng già yếu đau ốm thường xuyên, mức sống
trong gia đình quá túng thiếu dưới mức nghèo, cơ quan, địa phương phải trợ cấp
thường xuyên; hoặc gia đình bị thiên tai, hoả hoạn không còn tài sản gì đáng kể
được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận.
e) Người quá già yếu hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo.
- Người quá già yếu là người từ
70 tuổi trở lên, hoặc trên 60 tuổi nhưng thường xuyên ốm yếu bệnh tật phải nằm
bênh xá, bênh viện.
- Mắc bệnh hiểm nghèo là mắc một
trong các bệnh rất nguy hiểm đến tính mạng như: ung thư, xơ gan cổ trướng, lao
nặng, bại liệt... có kết luận giám định y khoa.
Những phạm nhân được xét tha nói
trên phải thực sự chấp hành hình phạt tù tại trại giam ít nhất 1/3 thời hạn đối
với hình phạt tù có thời hạn; 10 năm đối với tù chung thân. Trường hợp đặc biệt,
thời gian chấp hành hình phạt tù ngắn hơn 1/4 thời hạn đối với hình phạt tù có
thời hạn; 8 năm đối với tù chung thân và đã thể hiện quyết tâm cải tạo. Thời hạn
áp dụng trong trường hợp đặc biệt này đối với các đối tượng sau:
- Người mắc bệnh hiểm nghèo khó
qua khỏi;
- Người lập công lớn trong thời
gian chấp hành hình phạt tù;
- Người chưa thành niên phạm tội.
2/ Về đối tượng
miễn chấp hành hình phạt tù còn lại:
Chỉ xét miễn chấp hành hình phạt
tù còn lại cho những người đang chấp hành hình phạt tù nhưng được tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt thuộc các đối tượng dưới đây:
a) Người mắc bệnh hiểm nghèo nói
tại điểm e, mục 1 trên đây.
b) Người ốm nặng kéo dài và thực
sự không còn nguy hiểm cho xã hội, là người tuy không mắc bệnh hiểm nghèo nhưng
bị đau ốm tới mức không lao động được, không tự phục vụ sinh hoạt bình thường
cho bản thân, có kết luận của Hội đồng giám định y khoa. Trong thời gian được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người đó có thái độ ăn năn, hối lỗi; không còn
khả năng hoạt động phạm tội, được Uỷ ban Nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi
người đó cư trú xác nhận.
3/ Đối với các
đối tượng tuy thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các mục 1, 2
trên đây nhưng đang có kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm theo hướng tăng nặng
hình phạt hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác nặng hơn, thì chưa
lập hồ sơ và không đưa vào danh sách được đề nghị xét đặc xá.
4/ Tổ chức thực
hiện:
a) Bộ Nội vụ có trách nhiệm:
- Hướng dẫn, đôn đốc các địa
phương, các trại giam lập hồ sơ các đối tượng được đề nghị đặc xá năm 1995 theo
Quyết định của Chủ tịch nước và hướng dẫn của Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung
ương.
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ là thành
viên thường trực của Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương, được Chính phủ uỷ quyền
thay mặt Chính phủ đề nghị danh sách phạm nhân được tha tù và danh sách người
đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được miễn chấp hành hình phạt tù
còn lại, để Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương xét duyệt và trình Chủ tịch nước
quyết định.
- Chủ trì phối hợp với các ngành
có liên quan trong việc thẩm định và tổng hợp danh sách những đối tượng được đặc
xá trình Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương xét duyệt làm 2 đợt (20/4/1995 và
30/7/1995).
- Thường trực Hội đồng Tư vấn đặc
xá Trung ương được trưng tập và lập nhóm chuyên viên của Bộ Nội vụ, Toà án Nhân
dân tối cáo, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao giúp việc.
b) Bộ Quốc phòng có trách nhiệm
chỉ đạo các trại giam do Bộ Quốc phòng quảm lý, căn cứ vào các quy định tại Điều
1 Quyết định của Chủ tịch nước và hướng dẫn của Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung
ương, lập hồ sơ tha tù cho phạm nhân mà trại giam có nhiệm vụ quản lý và cải tạo
rồi chuyển Bộ Nội vụ tập hợp, thẩm tra xem xét.
c) Toà án Nhân dân tối cao có
trách nhiệm hướng dẫn các Toà án các cấp căn cứ vào các quy định tại điểm 2 Quyết
định của Chủ tịch nước hướng dẫn của Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương lập hồ
sơ miễn chấp hành hình phạt tù còn lại cho những người được Toà án đó ra quyết
định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù rồi chuyển cho Toà án Nhân dân tối cáo
tập hợp, thẩm tra, xem xét.
d) Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Hội đồng Tư vấn đặc xá địa phương
giúp việc theo công văn số 1332/NC ngày 16/3/1995 của Thủ tướng Chính phủ để phối
hợp với các ngành có liên quan hướng dẫn đôn đốc trại tạm giam, trại giam thuộc
địa phương mình, lập danh sách các đối tượng được đề nghị đặc xá năm 1995 theo
Quyết định của Chủ tịch nước và hướng dẫn của Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung
ương.
Hội đồng Tư vấn đặc xá tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gồm một Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, Chánh án
Toà án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân, Giám đốc Sở công an, Giám đốc Sở Tư
pháp, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Liên đoàn Lao động, Chủ tịch Hội liên
hiệp phụ nữ) tổ chức việc thẩm định và tổng hợp danh sách các đối tượng được đề
nghị đặc xá năm 1995 trình Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương xét duyệt (qua
thành viên thường trực Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương).
đ) Uỷ ban Nhân dân xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan, các cơ quan y tế trong phạm vi, chức
năng của mình có trách nhiệm cung cấp đẩy đủ, kịp thời các chứng nhận, kết luận
có liên quan đến việc đặc xá.
e) Quyết định về đặc xá năm 1995
của Chủ tịch nước là một chủ trương lớn,
thể hiện chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước ta, là kết quả của công tác quản lý, giáo dục, cải tạo
người bị kết án tù thành người có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh chống địch
lợi dụng nhân quyền để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, vì vậy
các cơ quan quản lý Nhà nước về thi hành án, chính quyền, đoàn thể nhân dân,
các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương cần tổ chức
tuyên truyền sâu, rộng trong nhân dân.
f) Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và lãnh đạo các Bộ,
ngành có liên quan tổ chức nghiên cứu kỹ Quyết định về đặc xá năm 1995 của Chủ
tịch nước và hướng dẫn của Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương, để thực hiện một
cách nghiêm túc, khẩn trương, tránh những sơ hở và tiêu cực.
g) Việc thực hiện giảm thời gian
chấp hành hình phạt tù cho phạm nhân theo quy định tại các Điều 49, 51 Bộ Luật
Hình sự và các Điều 237, 238 Bộ Luật Tố tụng hình sự sẽ tiến hành cùng với việc
đặc xá do Toà án Nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan tổ chức chỉ đạo thực
hiện.
Trong quá trình tổ chức thực hiện,
nếu có gì vướng mắc kịp thời báo cáo về Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương (qua
thành viên thường trực Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương) để có hướng dẫn bổ
sung.