ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 11/2007/QĐ-UBND
|
Đồng Hới, ngày 6 tháng 6 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO - GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TỈNH QUẢNG
BÌNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết Hội đồng nhân
dân số 39/HĐND ngày 09 tháng 12 năm 2005 của Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010);
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội tại Tờ trình số 21/TTr-LĐTBXH ngày 22 tháng 5 năm 2007,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình
xóa đói giảm nghèo - Giải quyết việc làm tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2006 - 2010.
Điều 2. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm
phối hợp với các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố
để tổ chức triển khai thực hiện Chương trình; hướng dẫn, theo dõi và tổng hợp
tình hình thực hiện để báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày, kể từ
ngày ký.
Điều 4. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội; Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Văn phòng chính phủ;
- Bộ Lao động - TB và XH;
- Cục Kiểm tra văn bản (Bộ Tư pháp);
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Đoàn đại biểu QH tỉnh;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- UBMTTQVN tỉnh;
- Báo QB, Đài PT-TH Q.Bình;
- Sở Tư pháp;
- Lưu: VT - NCVX
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Công Thuật
|
CHƯƠNG TRÌNH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO - GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TỈNH QUẢNG
BÌNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 11/2007/QĐ-UBND ngày 06 tháng 6 năm 2007 của
Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình)
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG ĐÓI, NGHÈO VÀ
VIỆC LÀM CỦA TỈNH
I. Thực trạng đói, nghèo và việc
làm
1. Trong những năm qua, được sự quan tâm giúp đỡ của
Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ương, sự lãnh đạo, chỉ đạo tích cực của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, sự phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội và cố
gắng nỗ lực phấn đấu của nhân dân toàn tỉnh công tác xóa đói, giảm nghèo và giải
quyết việc làm (XĐGN-GQVL) đạt được những kết quả quan trọng.
Từ năm 2001 đến cuối năm 2006 toàn tỉnh đã giảm được
41.701 hộ nghèo; đưa tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 28% (năm 2001) xuống còn 9,53%
cuối năm 2005 (theo chuẩn nghèo cũ) và 27,86% cuối năm 2006 (theo chuẩn nghèo mới),
số hộ nghèo của toàn tỉnh đến 31/12/2006 còn lại 50.948 hộ.
Cùng với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, công tác giải
quyết việc làm cũng được tập trung chỉ đạo. Từ đầu năm 2001 đến cuối năm 2006
toàn tỉnh đã giải quyết việc làm được 150.322 người, trong đó tạo việc làm mới
cho lao động chưa có việc làm 90.479 người, tạo thêm việc làm cho lao động thiếu
việc làm 59.843 người; đưa tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị từ 5,06% (năm
2001) đến cuối năm 2006 xuống còn 2,39%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
khu vực nông thôn từ 73% (năm 2001) đến cuối năm 2006 là 79%.
2. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được việc
thực hiện công tác XĐGN-GQVL vẫn còn một số tồn tại, hạn chế:
Tốc độ giảm nghèo bình quân 6 năm mới đạt
3,9%/năm (chỉ tiêu đề ra là 4-5%); tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chuẩn mới còn
khá cao so với bình quân chung toàn quốc (số hộ nghèo toàn tỉnh đầu năm 2006 là
32,49%). Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa các nhóm dân cư diễn ra khá
nhanh và kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, tình trạng tái
nghèo, phát sinh hộ nghèo ở một số địa phương còn lớn, ý chí thoát nghèo và
vươn lên làm giàu chính đáng của một bộ phận nhân dân chưa mạnh.
Lực lượng lao động chất lượng còn thấp, phần lớn
chưa qua đào tạo hoặc đào tạo không hợp lý. Tỷ lệ thất nghiệp còn cao, số lao động
đã có việc làm nhưng thiếu ổn định và thu nhập thấp còn lớn. Lực lượng lao động
xã hội hàng năm tăng dần và số lao động bước vào độ tuổi lao động có nhu cầu giải
quyết việc làm hơn 1,6 vạn người cộng với số lao động thất nghiệp các năm trước
chuyển sang, số lao động hoàn thành nghĩa vụ quân sự, lao động đi làm việc ở nước
ngoài về, lao động dôi dư sau khi sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước .v.v...
đã làm cho số lao động có nhu cầu cần giải quyết việc làm hàng năm áp lực tăng
trên 3 vạn người, trong đó tạo việc làm mới khoảng 2,1-2,2 vạn người.
II. Nguyên nhân
1. Nguyên nhân của kết quả đạt được
1.1 Nguyên nhân khách quan:
- Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến công tác
xóa đói giảm nghèo - giải quyết việc làm (XĐGN-GQVL) đã ban hành nhiều cơ chế,
chính sách cụ thể, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong thời kỳ đổi mới. Các Bộ, ngành Trung ương đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tỉnh
tiếp cận nhiều chương trình, dự án nhằm thực hiện XĐGN-GQVL có hiệu quả.
- Nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới đã đem lại nhiều
cơ hội về phát triển kinh tế - xã hội cho nhân dân toàn quốc nói chung và nhân
dân tỉnh ta nói riêng.
- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác XĐGN-GQVL
không ngừng được phát triển cả về số lượng và chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển sản xuất, kinh doanh, du lịch...
- Trong những năm qua, tuy có những tác động bất lợi
về thời tiết khí hậu, bão lụt, thiên tai, biến động giá cả, dịch bệnh... nhưng
mức độ nguy hiểm, thiệt hại, sức tàn phá không lớn như những năm trước kia.
1.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Từ năm 2001 đến nay các cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, tổ chức thực hiện chương trình
XĐGN-GQVL thường xuyên và quyết liệt và coi nhiệm vụ XĐGN-GQVL là một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên của đơn vị, cơ sở.
- Các chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý, việc
tổ chức thực hiện được quán triệt, tuyên truyền rộng rãi đến từng Đảng viên và
từng người dân, tạo được sự chuyển biến cơ bản về nhận thức cho mọi người.
- Các ngành chức năng, các tổ chức đoàn thể chính
trị - xã hội đã tích cực chỉ đạo, hướng dẫn cách làm đến tận cơ sở trong quá
trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ XĐGN-GQVL.
- Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, các hộ
nghèo được nâng cao nhận thức, từng bước thay đổi cách nghĩ, cách làm, biết
phát huy nội lực, tự vươn lên trong sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập nhằm
XĐGN-GQVL cho người lao động.
2. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế
2.2. Nguyên nhân khách quan:
Vị trí địa lý của tỉnh cách xa các trung tâm kinh tế
lớn của đất nước; xuất phát điểm, điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội còn quá thấp, chưa đồng bộ; thời tiết khí hậu khắc nghiệt,
thiên tai lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh... thường xuyên xảy ra có những tác động bất
lợi, khó lường ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất, đời
sống và thu nhập của nhân dân trong tỉnh.
2.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Một số địa phương, cơ sở chưa phát huy hết vị
trí, vai trò của hệ thống chính trị, chưa chỉ đạo quyết liệt, tinh thần trách
nhiệm chưa cao trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ XĐGN-GQVL; đội ngũ cán bộ làm
công tác XĐGN-GQVL còn thiếu cả về số lượng và yếu về chất lượng, có nơi cán bộ
chủ chốt chưa nhận thức đầy đủ và chưa nêu gương được cho quần chúng trong công
tác XĐGN-GQVL.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn
chậm, nhiều mô hình, kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo, tạo mở việc làm có hiệu
quả nhưng chậm được áp dụng, chưa nhân rộng, phổ biến kịp thời.
- Sự phối kết hợp giữa các sở, ban ngành, tổ chức,
đoàn thể để thực hiện nhiệm vụ XĐGN-GQVL chưa chặt chẽ; việc lồng ghép các
chương trình, dự án có cùng mục tiêu tác động đến công tác XĐGN-GQVL còn lúng
túng, thiếu đồng bộ nên hiệu quả chưa cao.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt
là vùng miền núi, rẻo cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng còn gặp nhiều
khó khăn vẫn còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại Nhà nước hoặc cá biệt còn hiện tượng
“phấn đấu vào danh sách xã nghèo, hộ nghèo” nên không phát huy được tinh thần tự
lực, tự cường trong khai thác tiềm năng, thế mạnh, các nguồn lực đất đai, lao động...
tại chỗ để vươn lên thoát nghèo và tạo việc làm.
- Đại bộ phận người nghèo, người thất nghiệp và người
thiếu việc làm trình độ kiến thức, kinh nghiệm làm ăn và tay nghề thấp (hiện
nay tỷ lệ lao động qua đào tạo chung chỉ chiếm 22% tổng số lao động, trong đó
đào tạo nghề chiếm 11%), đặc biệt là thiếu những người thợ có kỹ năng kinh nghiệm,
tay nghề giỏi; một số khác do thiếu vốn, thiếu đất sản xuất, sinh đẻ không có kế
hoạch,... đã làm cho tình trạng đói nghèo và giải quyết việc làm càng khó khăn.
- Lực lượng lao động của tỉnh phân bổ không đồng đều,
tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và đô thị, cơ cấu lao động phân bố giữa các
ngành, lĩnh vực chưa phù hợp; các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và
nhỏ tập trung hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và kinh doanh thương mại,
dịch vụ, chưa chú trọng phát triển sản xuất, chế biến trong nông, lâm nghiệp,
thủy sản nên tạo thêm việc làm mới còn rất hạn chế, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, làng nghề phát triển chưa đủ mạnh, chưa rõ nét; một số cơ sở công nghiệp,
khu kinh tế mới hình thành chưa đủ sức để khai thác tiềm năng và thu hút lao động
tại chỗ; cơ cấu đào tạo, dạy nghề chưa phù hợp với yêu cầu sử dụng .v.v...
Phần thứ hai
NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH
I. Dự báo tình hình
1. Dự báo tình hình về đói, nghèo và việc làm
trong thời gian tới
1.1. Dự báo tình hình đói, nghèo:
Khoảng cách về thu nhập, khoảng cách về giàu nghèo
giữa các vùng, miền ngày càng rõ. Hộ nghèo tập trung nhiều hơn ở các vùng cao,
vùng núi, vùng cồn bãi, vùng bãi ngang ven biển còn nhiều khó khăn. Ngoài ra có
thể xuất hiện một số nhóm đối tượng nghèo mới: dân ở vùng đô thị thiếu đất sản
xuất do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, dân nhập cư ở khu vực nông thôn vào
khu vực thành thị chưa có việc làm ổn định.
Nguy cơ tái nghèo, mất việc làm có thể tăng do
thiên tai, dịch bệnh, biến động giá cả; tác động của cạnh tranh trong hội nhập
và phát triển kinh tế thị trường; cơ hội của người nghèo về việc làm ngày càng
khó khăn hơn do đổi mới khoa học, công nghệ, phân bố đầu tư phát triển kinh tế
giữa các vùng không đồng đều.
1.2. Dự báo tình hình việc làm:
Việc làm cho người lao động nói chung ở thời kỳ
phát triển tới vẫn là vấn đề bức xúc, cung vẫn lớn hơn cầu. Quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi trình độ tay nghề
của người lao động phải đáp ứng, yếu tố cạnh tranh trên thị trường lao động
trong và ngoài nước ngày càng rõ rệt. Giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
2. Thuận lợi, khó khăn
2.1. Thuận lợi:
Vấn đề XĐGN-GQVL được Đảng và Chính phủ đặc biệt
quan tâm, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, huy động các nguồn lực, tổ
chức lồng ghép các chương trình, dự án để XĐGN-GQVL cho nhân dân.
Nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, sẽ
tạo cho tỉnh nhiều cơ hội mới để phát triển kinh tế, xã hội thu hút đầu tư, tiếp
cận thị trường thế giới.
Tỉnh ta đã và đang phát triển, mở rộng các vùng
kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế, các tuyến giao thông lớn, như: khu công nghiệp
Tây - Bắc Đồng Hới, khu kinh tế Cảng Hòn La, khu kinh tế Cửa khẩu Cha Lo, tuyến
đường quốc lộ 12, hai tuyến đường Hồ Chí Minh, Sân bay Đồng Hới.. sẽ tạo cho tỉnh
những thuận lợi trong thu hút lao động, tạo việc làm và xóa đói, giảm nghèo.
Tiềm năng của tỉnh từng bước được khơi dậy và phát
huy, một số công trình, cơ sở hạ tầng ở các vùng miền, các xã đặc biệt khó
khăn, xã nghèo được đầu tư xây dựng, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nhân dân Quảng Bình có truyền thống cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, tự lực tự cường, cần cù lao động sáng tạo, có tinh thần tương
thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, có ý thức vươn lên thoát nghèo, tự tạo việc
làm, làm giàu chính đáng cho bản thân gia, đình và xã hội.
2.2. Khó khăn:
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi,
song cũng xuất hiện không ít khó khăn và thách thức đó là sự cạnh tranh gay gắt,
những biến động giá cả và các yếu tố bất thường có thể xảy ra.
Cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang
ven biển tuy đã được đầu tư nhiều năm qua nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ;
trình độ kiến thức về sản xuất, kinh doanh của người lao động thuộc diện nghèo
còn hạn chế; một số cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là vùng miền núi rẻo
cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn mang nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự
bao cấp của Nhà nước, thiếu ý chí và quyết tâm vươn lên để thoát nghèo, nhất là
trong hoàn cảnh, điều kiện hàng năm vẫn thường xảy ra thiên tai, dịch bệnh có
nhiều bất lợi.
II. Mục tiêu phấn đấu đến năm
2010
1. Mục tiêu tổng quát
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã xác
định: “... Phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện CNH-HĐH, phát
triển kinh tế - xã hội nhanh, vững chắc, đưa tỉnh ta ra khỏi tình trạng một tỉnh
nghèo, phấn đấu đến năm 2010 cơ bản đạt trình độ phát triển ngang mức trung
bình của cả nước...” và đã đề ra nhiệm vụ quan trọng là “Đẩy mạnh công tác
XĐGN-GQVL thực hiện tốt chính sách xã hội”.
Để thực hiện mục tiêu của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIV đề ra, trong năm 2007 và các năm tiếp theo cần hướng vào các nội dung
sau:
- Chỉ đạo các xã vùng miền núi, rẻo cao, vùng đồng
bào dân tộc, vùng bãi ngang chống tái nghèo và giảm nghèo bền vững. Thu hẹp dần
sự cách biệt về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
- Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh của các thành
phần kinh tế để phát triển thị trường lao động, khuyến khích người lao động tự
tạo việc làm. Tích cực tham gia thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao
động, kết hợp chặt chẽ giữa công tác dạy nghề với chương trình giải quyết việc
làm, thực hiện các dự án phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị hóa và ở khu vực
nông nghiệp nông thôn để tạo việc làm.
- Tiếp tục làm tốt công tác sắp xếp đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước. Quan tâm phát triển các doanh nghiệp trên địa bàn cả về số lượng
và chất lượng; làm tốt công tác xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện giúp các nhà đầu
tư, các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh mạnh mẽ hơn nữa để tạo
thêm việc làm tăng thu nhập cho người lao động, nhất là ở khu vực nông thôn, miền
núi.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ
lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ. Bảo đảm tính
bền vững về việc làm cho người lao động, nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
tốc độ tăng trưởng kinh tế với cải thiện thu nhập của người lao động, áp dụng
các tiến bộ của khoa học, đổi mới công nghệ sản xuất tạo việc làm có thu nhập
cao.
2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010
2.1. Các mục tiêu về xóa đói giảm nghèo
- Phấn đấu đến cuối năm 2010 không còn hộ đói, đưa
tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống dưới 15%, bình quân mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo
từ 3,5 - 4% như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đề ra.
- Phấn đấu đến cuối năm 2007 cơ bản xóa hết nhà tạm
cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định số 134/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ.
- Phấn đấu 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi
ngang ven biển và cồn bãi thoát khỏi tình trạng khó khăn.
- 100% hộ nghèo có khả năng sản xuất kinh doanh có
nhu cầu vay vốn được vay vốn tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội và
các chương trình, dự án khác.
- Thực hiện khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
chuyển giao khoa học kỹ thuật, hướng dẫn cách làm ăn cho 100% hộ nghèo có nhu cầu
và có sức lao động.
- 100% người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế, khi ốm
đau đi khám, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo quy định.
- 100% học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo được miễn
giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường; được vay vốn tín dụng ưu
đãi theo các chính sách quy định của Chính phủ.
- Tập huấn nâng cao năng lực cho 100% cán bộ làm
công tác XĐGN-GQVL.
- Phấn đấu 90% người nghèo có nhu cầu được trợ giúp
pháp lý miễn phí.
2.2. Các mục tiêu về giải quyết việc làm
- Phấn đấu đến cuối năm 2010 giảm tỷ lệ thất nghiệp
chung toàn tỉnh xuống dưới 0,8%, trong đó giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống
dưới 2%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên trên
85%.
- Giải quyết việc làm bình quân mỗi năm đạt 2,4 -
2,5 vạn lao động, trong đó:
+ Tạo việc làm mới cho lao động chưa có việc làm
1,5 - 1,6 vạn người.
+ Tạo thêm việc làm mới cho lao động thiếu việc làm
có đủ việc làm 0,8 - 0,9 vạn người.
III. Các nhóm giải pháp chủ yếu
1. Tăng cường sự Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Đoàn thể chính trị - xã hội
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, thủ trưởng các
ngành, các cơ quan, đơn vị, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tốt Chương trình
XĐGN-GQVL ở địa phương, đơn vị mình, coi đây là một nội dung, nhiệm vụ chính trị
quan trọng hàng đầu, vừa cấp bách vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Mặt trận, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội
các cấp đẩy mạnh sự phối, kết hợp để thực hiện Chương trình đạt kết quả. Chú trọng
kết hợp, lồng ghép các chương trình, dự án với công tác XĐGN-GQVL.
- Tăng cường trách nhiệm và trình độ, năng lực của
các cơ quan tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về quản lý, thực hiện Chương
trình; chủ động phối hợp với các ngành, địa phương, đơn vị xây dựng kế hoạch và
triển khai thực hiện tích cực Chương trình cho từng năm, từng giai đoạn cụ thể.
- Kiện toàn lại Ban Chỉ đạo XĐGN-GQVL các cấp từ tỉnh
xuống xã. Tiếp tục phân công các đơn vị cấp tỉnh, tăng cường cán bộ cấp tỉnh, cấp
huyện có trách nhiệm, kinh nghiệm, nhiệt tình xuống chỉ đạo, trực tiếp giúp đỡ
các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển và cồn bãi trong quá
trình thực hiện các nội dung Chương trình.
- Bổ sung, sửa đổi quy chế quản lý, chỉ đạo thực hiện
chương trình một cách phù hợp để cơ quan Thường trực, Ban Chỉ đạo Chương trình
và các cơ quan quản lý từng nội dung của Chương trình ở các cấp có đủ thẩm quyền,
đủ năng lực và điều kiện thực hiện Chương trình đạt hiệu quả, thiết thực, tránh
hình thức.
- Tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên trách về
XĐGN-GQVL và cán bộ khuyến nông - lâm - ngư ở cấp xã đảm bảo đủ về số lượng, đạt
yêu cầu về chất lượng, đồng thời coi trọng tính ổn định lâu dài của cán bộ, nhất
là các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo. Có chính sách ưu tiên, đãi ngộ, vận động,
thu hút sinh viên mới ra trường về các làng, bản, các xã vùng cao, vùng xa phục
vụ, hướng dẫn, giúp nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số vượt nghèo.
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận
thức, trình độ sản xuất - kinh doanh
2.1. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp và người dân về chủ trương của Đảng và Nhà
nước về công tác XĐGN-GQVL
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về Chương trình XĐGN-GQVL một cách sát thực có
hiệu quả bằng các hoạt động truyền thông trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Kịp thời biểu dương các gương người tốt - việc tốt, đồng thời phê phán
những tập thể, địa phương, đơn vị yếu kém, thiếu ý chí và quyết tâm vươn lên trong
XĐGN - QGVL.
Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
nhận thức cho các cấp ủy Đảng, Chính quyền, người nghèo, hộ nghèo, người không
có việc làm, người thiếu việc làm, từng bước thay đổi cách nghĩ, cách làm,
tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại nhằm phát huy nội lực, tự vươn lên làm giàu
chính đáng trong sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập nhằm tạo việc làm để xóa
đói, giảm nghèo bền vững.
Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
cho một bộ phận người dân trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và biện pháp kế hoạch
hóa gia đình, nhằm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và số phụ nữ sinh con thứ
ba trở lên.
2.2. Tăng cường công tác tập huấn cho cán bộ, hướng
dẫn cách làm ăn, cho người nghèo, người thiếu việc làm, người thất nghiệp.
Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ làm công tác giảm nghèo ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở, chú trọng giới thiệu
các kỹ năng giám sát, điều hành chương trình, đánh giá tình hình, thu thập
thông tin và theo dõi diễn biến nghèo đói, tình hình lao động - việc làm.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến nông - lâm - ngư,
chuyển giao khoa học công nghệ cho người nghèo để họ vận dụng vào quá trình sản
xuất, kinh doanh tạo thu nhập cao, ổn định thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Tổ chức dạy nghề gắn với tạo việc làm, trong đó có
dạy nghề phục vụ xuất khẩu lao động cho người nghèo, đặc biệt là người nghèo ở
khu vực nông thôn, khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khu đô thị hóa.
Phát triển hệ thống dạy nghề với đa cấp trình độ,
chuyển từ dạy nghề trình độ thấp sang dạy nghề trình độ cao, nâng cao chất lượng
nguồn lao động cho thị trường lao động; thực hiện quy hoạch, đầu tư phát triển
hệ thống dạy nghề, ưu tiên tập trung đào tạo các nghề xã hội đang cần, các nghề
ngắn hạn để tạo việc làm tại chỗ.
3. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
3.1. Theo dõi, giám sát, đánh giá Chương trình
- Xây dựng hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá
đồng bộ, phù hợp từ cấp tỉnh đến cấp xã; lấy cấp huyện làm đơn vị đánh giá tác
động của từng chính sách, chương trình và dự án cũng như kết quả thực hiện
Chương trình.
- Xây dựng cơ chế để các tổ chức, đoàn thể chính trị
- xã hội, người dân tham gia giám sát và đánh giá đúng kết quả thực hiện Chương
trình.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá hàng năm, giữa giai đoạn
(giữa năm 2008) và cả giai đoạn để kịp thời rút kinh nghiệm trong tổ chức thực
hiện các chính sách, dự án liên quan đến quá trình thực hiện Chương trình.
3.2. Tăng cường phân cấp quản lý
- Các cấp Chính quyền đẩy mạnh công tác chỉ đạo triển
khai thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án tác động đến xã nghèo, hộ
nghèo, người thất nghiệp, người thiếu việc làm, đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục
đích để thực hiện Chương trình.
- Cấp tỉnh, huyện: tổ chức, triển khai, thực hiện
các dự án, các chính sách của Chính phủ; xây dựng cơ chế, chính sách, kế hoạch,
chương trình giảm nghèo và giải quyết việc làm của tỉnh, huyện; huy động bổ
sung nguồn lực và chủ động phân bổ cho cấp xã; hướng dẫn và giám sát thực hiện;
công bố tỷ lệ nghèo; công nhận xã thoát nghèo; tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thời
gian lao động ở khu vực nông thôn.
- Cấp xã: Tổ chức thực hiện các chính sách và dự án
trên địa bàn, tự giám sát đánh giá. Xác định người nghèo, hộ nghèo, người thất
nghiệp, người thiếu việc làm, xem xét và đề nghị công nhận hộ thoát nghèo; huy
động mọi nguồn lực tại chỗ để thực hiện Chương trình đạt hiệu quả.
4. Phát triển sản xuất - kinh doanh, nâng cao mức
sống, tạo việc làm thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững
4.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển đúng
hướng, trước hết cần làm tốt công tác quy hoạch tổng thể và quy hoạch phát triển
cây, con phù hợp với điều kiện của từng địa phương, phát huy lợi thế trong quy
hoạch phát triển vừa đảm bảo điều kiện sản xuất cho nhân dân, vừa phù hợp với
quy hoạch phát triển chung của tỉnh. Đẩy mạnh, phát huy vai trò “bốn nhà” để
giúp người nghèo tiếp cận các dịch vụ cơ bản về sản xuất, kinh doanh, đặc biệt
là khâu tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản.
- Về sản xuất nông nghiệp: UBND các huyện,
thành phố căn cứ tình hình cụ thể để tiến hành rà soát, điều chỉnh phân bổ diện
tích canh tác một cách hợp lý, thực hiện biện pháp thâm canh, áp dụng khoa học
kỹ thuật nhằm tăng năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi, gắn sản xuất với
chế biến và tiêu thụ sản phẩm; từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng
hóa, vùng nguyên liệu cho công nghiệp, như: cao su, hồ tiêu, đậu, lạc, sắn
nguyên liệu....
Đẩy mạnh sản xuất lúa nước trên cơ sở thâm canh,
tăng vụ, chọn giống lúa thích hợp cho năng suất cao, hướng dẫn kỹ thuật trồng
trọt giúp đồng bào chuyển đổi sản xuất.
Đối với những vùng không thể trồng được lúa nước
thì trồng các loại cây thích hợp chịu hạn như: ngô, khoai, sắn, lạc... hoặc trồng
lúa cạn; ưu tiên các loại giống mới, chịu hạn có năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn thích nghi với đặc điểm tự nhiên của mỗi vùng.
Những nơi do điều kiện địa hình phức tạp, không thể
trồng trọt được thì chuyển sang trồng cây lâm nghiệp hoặc phát triển chăn nuôi
gia súc.
Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển chăn
nuôi, nhất là phát triển chăn nuôi trang trại, hộ gia đình, chăn nuôi trâu, bò,
dê; vận động, hướng dẫn người nghèo xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc theo
phương thức chăn nuôi tập trung, trồng cỏ với chăn nuôi thả, dắt; hạn chế chăn
nuôi theo tập quán cũ. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm,
kỹ thuật chăn nuôi, kiến thức phòng trừ dịch bệnh cho gia súc, gia cầm đến hộ
nông dân; phát triển nghề nuôi ong lấy mật ở các vùng gần rừng núi, trồng nấm ở
vùng đồng bằng có độ ẩm cao, thời tiết phù hợp....
- Về sản xuất lâm nghiệp:
Đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng cho hộ gia đình,
cá nhân trên cơ sở thực hiện quy hoạch ba loại rừng và sớm hoàn thành việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân để nhân dân yên tâm
lao động, sản xuất, chăm sóc, bảo vệ tốt diện tích được giao và bảo đảm đời sống
từ thu nhập nghề rừng.
Đối với những diện tích đất trống, đồi trọc hoặc
các nương rẫy cũ, rừng nghèo kiệt, khẩn trương làm thủ tục giao đất cho hộ gia
đình và có kế hoạch cụ thể để nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số
chủ động bảo vệ, khoanh nuôi, phục hồi hoặc trồng mới rừng nguyên liệu phục vụ
cho công nghiệp chế biến.
- Về phát triển vùng ven biển, cồn bãi:
Tiếp tục nghiên cứu quy hoạch phát triển nuôi trồng
thủy hải sản kết hợp xây dựng một số dự án khai thác các lợi thế khác ở vùng
cát ven biển, vùng cồn bãi để tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân.
4.2. Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
và các làng nghề truyền thống
Tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển
sản xuất công nghiệp - TTCN và ngành nghề nông thôn. Tập trung phát triển các
ngành công nghiệp lợi thế về nguyên liệu và thị trường, chú trọng công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch, ngói...), công nghiệp chế biến nông,
lâm, thủy, hải sản.
Đẩy mạnh phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp,
xây dựng làng nghề truyền thống; tích cực nghiên cứu thị trường, tham gia học tập
kinh nghiệm các tỉnh bạn để tiếp thu, du nhập những nghề tiểu thủ công nghiệp mới,
phù hợp mà trên địa bàn tỉnh có sẵn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ.
Đẩy nhanh việc xây dựng, phát huy hiệu quả các khu
kinh tế của tỉnh; phát triển các trung tâm thương mại, chợ đầu mối, chợ trung
tâm ở thành phố, các huyện, thị xã.
Ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch thực sự trở
thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Khuyến khích phát triển du lịch
sinh thái, phát triển dịch vụ du lịch cao cấp.
4.3. Tích cực thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước để XĐGN-GQVL
Nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư trên tất cả các lĩnh vực
được pháp luật cho phép. Tập trung xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế
chính sách, tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn để thu hút đầu tư. Huy động mạnh
mẽ nguồn lực trong nhân dân, các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo phát triển
bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh nhằm khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế
phát triển kinh tế - xã hội.
Tích cực kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước
đến đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất công nghiệp ở các khu công nghiệp, khu kinh
tế trọng điểm của tỉnh đã quy hoạch, sắp xếp, đổi mới; nâng cao năng lực doanh
nghiệp các thành phần kinh tế; khuyến khích các nhà kinh doanh có vốn thành lập
các loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp, phát triển sản xuất trong
lĩnh vực công nghiệp, chế biến nông lâm, thủy hải sản ở khu vực nông thôn để tạo
việc làm cho người lao động.
4.4. Thực hiện quy hoạch, bố trí lại dân cư, đẩy
mạnh xuất khẩu lao động
Quy hoạch, bố trí lại dân cư trên các vùng, các trục
đường quốc lộ 12, hai tuyến đường Hồ Chí Minh,... phù hợp với quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh của địa phương. Gắn quy
hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng để phân bổ dân cư, cơ cấu nguồn lao động phải đi
đôi với quy hoạch phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Tiếp tục đẩy mạnh Chương trình xuất khẩu lao động
có hiệu quả. Gắn công tác đào tạo nghề với xuất khẩu lao động tay nghề cao.
4.5. Đẩy mạnh xã hội hóa Chương trình
Huy động các doanh nghiệp, cộng đồng, các tổ chức,
cá nhân thông qua phong trào “Quỹ vì người nghèo”, “Quỹ giải quyết việc làm” để
thực hiện Chương trình có hiệu quả.
UBND các huyện, thành phố trong quá trình chỉ đạo cần
tìm ra những mô hình kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh giỏi,
lấy điển hình để tuyên truyền, thuyết phục và nhân rộng trong vùng hoặc trên địa
bàn. Tổ chức giao lưu trao đổi kinh nghiệm giữa các hộ giàu với hộ nghèo để họ
học tập, giúp đỡ lẫn nhau làm ăn có hiệu quả.
Thiết lập mạng lưới tổ chức xã hội tự nguyện của
chính người nghèo, người không có việc làm, người thiếu việc làm như: nhóm tiết
kiệm tín dụng, nhóm tương trợ vượt nghèo, nhóm các cơ sở sản xuất - kinh doanh
thu hút lao động vào làm việc, nhóm tự quản sử dụng nước sạch, giao thông, thủy
lợi....
5. Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu phục
vụ phát triển kinh tế, bao gồm: Đường giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt, trường
học, trạm xá, điện sinh hoạt, chợ...
Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
chung để lựa chọn các công trình ưu tiên phục vụ phát triển sản xuất nông - lâm
- ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ dân sinh. Tiếp tục đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ
thống điện, nước sinh hoạt và hệ thống thủy lợi đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất
của người nghèo, đặc biệt là các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
6. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách, dự án của
Chương trình
Tổ chức thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính
sách, chương trình, dự án của Chính phủ ban hành, như: Tín dụng cho người
nghèo, người lao động; tập huấn hướng dẫn cách làm ăn; hỗ trợ về y tế; giáo dục
và dạy nghề; đất sản xuất; nhà ở; nước sinh hoạt cho người nghèo; hỗ trợ đầu tư
cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, tuyến biên
giới.... Đồng thời, tranh thủ sự đầu tư, hợp tác của các tổ chức quốc tế để lồng
ghép nhằm thực hiện Chương trình đạt kết quả cao.
7. Huy động nguồn lực thực hiện Chương trình
7.1. Kinh phí cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo
- Dự kiến tổng nguồn vốn cho chương trình khoảng
1.035.600 triệu đồng (100%), trong đó: Ngân sách Trung ương chiếm khoảng 25,4%;
ngân sách địa phương chiếm khoảng 5,0%; huy động từ cộng đồng chiếm khoảng
3,86%; huy động quốc tế chiếm khoảng 9,65%; vốn tín dụng chiếm khoảng 56,09%.
- Về huy động nguồn lực: Để bảo đảm đủ nguồn lực
cho chương trình cần áp dụng cơ chế huy động từ nhiều nguồn, bao gồm: tranh thủ
sự giúp đỡ của Chính phủ và các Bộ, Ngành Trung ương; ngân sách địa phương (tỉnh,
huyện, xã) trích khoảng 1% tổng chi ngân sách hàng năm để thực hiện Chương
trình; huy động các doanh nghiệp, cộng đồng, các tổ chức, cá nhân thông qua
phong trào “Quỹ vì người nghèo”, “Quỹ giải quyết việc làm”....
7.2. Kinh phí phục vụ cho mục tiêu giải quyết việc
làm
- Ngân sách Trung ương: Dự kiến đến năm 2010 tổng nguồn
vốn cho vay từ Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm khoảng 60 tỷ đồng; quỹ hỗ trợ xuất
khẩu lao động khoảng 65 tỷ đồng.
- Ngân sách địa phương: Đề nghị HĐND tỉnh xem xét
trích ngân sách của tỉnh mỗi năm 0,5% (cả giai đoạn khoảng 10 tỷ đồng) để lập
quỹ giải quyết việc làm của địa phương. Một phần chuyển cho Ngân hàng Chính
sách xã hội tỉnh quản lý và cho vay để giải quyết làm việc, một phần để hỗ trợ
phát triển thị trường lao động và phục vụ công tác quản lý Chương trình.
- Nguồn huy động nội lực của các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội từ thiện, nhà hảo tâm và bản thân người lao động để thực hiện tạo
việc làm thu hút lao động vào làm việc.
Phần thứ ba
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Chương trình XĐGN-GQVL là một chương trình lớn,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương, cần có sự thống nhất và phân công
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở.
1. Trách nhiệm của các sở, ban ngành, đoàn thể
chính trị - xã hội và UBND các huyện, thành phố
1.1. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ
quan Thường trực Chương trình:
- Giúp Ban Chỉ đạo tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn các sở,
ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và UBND các huyện, thành phố thực hiện
Chương trình; chủ trì và phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan xây dựng kế
hoạch 5 năm và hàng năm về mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp và lập dự toán
kinh phí thực hiện Chương trình gửi Sở Kế hoạch - Đầu tư và Sở Tài chính để tổng
hợp báo cáo UBND tỉnh; tham mưu UBND tỉnh ban hành một số chính sách, dự án hỗ
trợ; xác định đối tượng hỗ trợ của Chương trình. Tổ chức thực hiện, theo dõi hướng
dẫn chương trình xóa mái tranh, xóa nhà tạm cho hộ nghèo và cho vay vốn từ Quỹ
quốc gia hỗ trợ việc làm của tỉnh.
- Chủ trì thực hiện một số dự án: Dạy nghề cho nông
dân, người nghèo và người tàn tật; nhân rộng mô hình XĐGN-GQVL; nâng cao năng lực
cán bộ làm công tác XĐGN-GQVL. Phối hợp với các ngành liên quan tham mưu cho
Ban Chỉ đạo và UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng
ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và cồn bãi.
- Đôn đốc, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện
Chương trình của các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và các huyện, thành phố.
1.2. Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp
với các sở, ban, ngành, địa phương liên quan cân đối, xây dựng kế hoạch phân bổ
chỉ tiêu kinh phí hàng năm của Chương trình.
1.3. Sở Tài chính phối hợp với các sở, ban,
ngành liên quan cân đối ngân sách, phân bổ kinh phí hàng năm cho chương trình
theo Luật Ngân sách Nhà nước; phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
xây dựng văn bản hướng dẫn, kiểm tra, giám sát chi tiêu tài chính thực hiện
Chương trình; tổng hợp quyết toán kinh phí Chương trình.
1.4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện một số chính sách, dự án thuộc
ngành quản lý; phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan chỉ đạo đầu tư các
công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng mô hình liên kết
giữa doanh nghiệp với hộ nghèo và địa phương.
1.5. Sở Thủy sản chủ trì, phối hợp với các sở,
ban, ngành liên quan chỉ đạo hướng dẫn xây dựng các công trình phục vụ phát triển
thủy sản, hướng dẫn nhân rộng các mô hình nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản ở
các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và cồn bãi; phối hợp với các
tổ chức đoàn thể, UBND các huyện, thành phố tăng cường tập huấn, chuyển giao ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong lĩnh vực ngư nghiệp.
1.6. Sở Công nghiệp chỉ đạo, thực hiện khôi
phục và phát triển các làng nghề truyền thống, xây dựng các cơ sở tiểu thủ công
nghiệp, đặc biệt các cơ sở chế biến nông, thủy, hải sản.
1.7. Sở Thương mại - Du lịch chủ trì, phối hợp
với các sở, ban, ngành liên quan xúc tiến phát triển, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm cho các xã nghèo, hộ nghèo, đặc biệt là các sản phẩm nông, lâm, thủy
hải sản.
1.8. Ban Dân tộc tỉnh chủ trì, phối hợp với
các sở, ban, ngành liên quan hướng dẫn thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
cho các xã đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 của Chính phủ, Chương trình
định canh định cư và các chính sách nhà ở, nước sinh hoạt, đất sản xuất; trợ
giá - trợ cước cho hộ nghèo thuộc đồng bào dân tộc thiểu số.
1.9. Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các sở,
ban, ngành, các địa phương bố trí cán bộ kiêm nhiệm làm công tác XĐGN-GQVL ở
các cấp và tổ chức điều động cán bộ cấp tỉnh trong biên chế Nhà nước biệt phái
giúp đỡ xã nghèo.
1.10. Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh có
trách nhiệm thực hiện tốt chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi cho người nghèo và
các đối tượng chính sách khác theo quy định.
1.11. Sở Y tế có trách nhiệm chỉ đạo tổ chức
tốt công tác khám chữa bệnh cho người nghèo.
1.12. Sở Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm
chỉ đạo thực hiện chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo.
1.13. Sở Tư pháp chỉ đạo, thực hiện chính
sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo và người thất nghiệp.
1.14. Ủy ban Dân số - Gia đình và trẻ em tỉnh chỉ
đạo, thực hiện tốt các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
1.15. Cục Thống kê tỉnh phối hợp với Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội để khảo sát, điều tra, thống nhất các chỉ số về tỷ
lệ hộ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thời gian lao động ở khu vực nông thôn
để có căn cứ thực hiện các chính sách, dự án phù hợp.
1.16. Các cơ quan thông tin tuyên truyền (Báo Quảng
Bình, Đài Phát thanh truyền hình, Văn hóa - thông tin...): Có trách nhiệm
tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa của chương trình;
tuyên truyền các mô hình, các cách làm hay, sáng tạo, có hiệu quả về XĐGN-GQVL;
tuyên truyền về kết quả hoạt động của Chương trình, thông qua đó nâng cao trách
nhiệm về XĐGN -GQVL cho toàn xã hội.
1.17. Đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh,
Liên minh HTX, Liên đoàn lao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh... phối hợp chặt chẽ
với các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch, chương
trình hành động trong phạm vi hoạt động của tổ chức mình tham gia thực hiện có
hiệu quả chương trình. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đoàn viên của tổ chức, đoàn thể mình về công tác XĐGN-GQVL; tiếp tục thực
hiện “Quỹ vì người nghèo”, “Quỹ giải quyết việc làm”; xây dựng mạng lưới “Tổ tiết
kiệm - tín dụng”, “Tổ tương trợ”...; xây dựng và nhân rộng các mô hình
XĐGN-GQVL có hiệu quả.
1.18. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố
có trách nhiệm huy động nguồn lực tổ chức thực hiện các nội dung của chương
trình, kịp thời xây dựng chương trình XĐGN-GQVL giai đoạn 2006-2010 của địa
phương mình, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chính sách,
dự án của Chương trình đạt hiệu quả. Lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự
án trên địa bàn; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc quản lý thực hiện các
chính sách, dự án thuộc địa phương quản lý và thực hiện chế độ báo cáo theo định
kỳ.
1.19. Các sở, ban, ngành, đoàn thể khác tùy
theo chức năng nhiệm vụ của mình xây dựng kế hoạch, chương trình của đơn vị và
phối hợp với UBND các huyện, thành phố để thực hiện có hiệu quả Chương trình.
2. Triển khai thực hiện:
Căn cứ vào Chương trình XĐGN-GQVL của tỉnh giai đoạn
2006 - 2010, các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, các địa phương cụ thể hóa
những nội dung của Chương trình để xây dựng kế hoạch, chương trình tổ chức thực
hiện theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, địa phương, góp phần thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIV.
Các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh có liên quan
và UBND các huyện, thành phố 6 tháng một lần báo cáo tình hình thực hiện về Ban
chỉ đạo Chương trình XĐGN-GQVL tỉnh (qua Sở Lao động - Thương binh và Xã hội) để
tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh. Trong quá trình tổ chức thực hiện nếu có những vấn
đề vướng mắc, phát sinh kịp thời báo cáo UBND tỉnh để xem xét, xử lý./.