ỦY BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 937/NQ-UBTVQH15
|
Hà Nội, ngày 13
tháng 12 năm 2023
|
NGHỊ QUYẾT
GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ
PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIAI ĐOẠN 2016 - 2021
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân số 87/2015/QH13;
Căn cứ Nghị quyết số 23/2022/UBTVQH15 ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về Chương trình giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
năm 2023 và Nghị quyết số 582/NQ-UBTVQH15 ngày 29 tháng 8 năm 2022 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Đoàn giám sát chuyên đề “Việc thực hiện
chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021”;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số
709/BC-ĐGS ngày 04 tháng 12 năm 2023 của Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính
sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021”; ý kiến của thành
viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Đánh giá việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng
giai đoạn 2016-2021
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản
tán thành nội dung của Báo cáo số 709/BC-ĐGS ngày 04/12/2023 của Đoàn giám sát
với những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập, nguyên nhân, trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ yếu như sau:
1. Việc ban
hành chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng
1.1. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn
kinh tế nhà nước trong lĩnh vực năng lượng đã bám sát chủ trương của Đảng, triển
khai việc ban hành chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (sau
đây gọi chung là chính sách, pháp luật) về phát triển năng lượng và đạt những kết
quả quan trọng, góp phần đáp ứng yêu cầu quản lý, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Việc thể chế hoá chủ trương của
Đảng về phát triển năng lượng đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành nghiêm túc thực hiện, trong đó trọng
tâm là Nghị quyết số 18- NQ/TW ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị khóa X về định
hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2050, Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 23/7/2015 của Bộ Chính trị khóa
XI về định hướng chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2035, Nghị quyết số 55-NQ/TW
ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị khóa XII về định hướng Chiến lược phát triển
năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các chủ
trương lớn khác có liên quan của Đảng, Nhà nước.
Quốc hội đã ban hành 01 Bộ luật,
26 Luật, 07 Nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 07 Nghị quyết; Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành hơn 500 văn bản; chính quyền địa
phương ban hành khoảng 600 văn bản về phát triển năng lượng.
1.2. Bên cạnh những kết quả đạt
được, việc ban hành chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng còn một số hạn
chế, bất cập.
Các luật liên quan đến điện lực,
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, quy hoạch, đất đai, tín dụng, khoáng
sản, quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh
nghiệp chưa thực sự đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi. Một số văn bản
hướng dẫn thi hành được ban hành chưa kịp thời, chưa phù hợp cơ chế thị trường,
thiếu cụ thể, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, nhất là các chính sách về giá điện,
than, khí và xăng dầu, chính sách thu hút đầu tư và nguồn lực thực hiện các dự
án năng lượng. Có 13 luật cần sửa đổi, bổ sung; 02 luật cần nghiên cứu, xây dựng
mới; 35 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Một số văn bản hướng dẫn quy
định chung chung dẫn đến nhiều Bộ, ngành, địa phương có cách hiểu khác nhau về
thời hạn thực hiện từng nhiệm vụ, làm cho kết quả thực hiện không đạt yêu cầu đề
ra.
Tính khả thi, đồng bộ, liên
thông, kết nối trong quy hoạch từng phân ngành, giữa các phân ngành năng lượng
với nhau và các quy hoạch liên quan còn hạn chế. Yếu tố thị trường, cơ chế huy
động nguồn lực còn thiếu cụ thể. Việc xác định cụ thể nhà đầu tư các công trình
điện lực tại các Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trước đây, trong đó có
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm
2030 (Quy hoạch điện VII) và điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia
giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh) đã hạn
chế thực hiện nguyên tắc thị trường, tạo cơ chế “xin - cho” trong triển khai.
Công tác điều chỉnh, bổ sung quy hoạch còn bị động, thiếu kiểm soát. Một số cơ
chế, chính sách chưa phù hợp với quy hoạch, thiếu căn cứ pháp lý khi ban hành,
có nội dung trái với văn bản chỉ đạo đã ban hành của cấp trên. Điển hình là việc
ban hành chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời, điện gió có sơ hở,
chưa sát với thực tế và chưa kịp thời, vi phạm quy định về trình tự, thủ tục
quy hoạch dẫn đến đối tượng áp dụng thiếu công bằng, để xảy ra lợi dụng chính
sách. Các dự án điện mặt trời, điện gió đã phát triển bùng nổ, vượt xa quy hoạch
chỉ trong thời gian ngắn, phá vỡ Quy hoạch điện VII điều chỉnh, gây hệ lụy xấu
và thiệt hại cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người
dân và doanh nghiệp.
Việc chậm ban hành Chiến lược
phát triển năng lượng quốc gia, Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia, các
quy hoạch phân ngành năng lượng, trong đó có Quy hoạch phát triển điện lực quốc
gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), kế hoạch
thực hiện các quy hoạch liên quan đã ảnh hưởng tiêu cực tới việc cụ thể hóa,
triển khai các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai
đoạn 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025.
Khả năng huy động nguồn lực,
các điều kiện bảo đảm để thực hiện Quy hoạch điện VIII khó đáp ứng trong điều
kiện của Việt Nam. Một số dự án trọng điểm chưa thể hiện rõ ràng trong Quy hoạch
điện VIII. Đến nay, Kế hoạch phát triển điện lực quốc gia, phương án phát triển
điện lực của nhiều địa phương vẫn chưa được ban hành, ảnh hưởng lớn đến triển
khai các dự án nguồn điện, lưới điện. Nhiều dự án không có tên trong Quy hoạch
điện VIII không thể triển khai được do phải chờ kế hoạch và phương án phát triển
điện lực. Chưa có các cơ chế cụ thể để triển khai các dự án nguồn điện mới, đặc
biệt đối với 11 dự án điện sử dụng khí hóa lỏng (LNG) với tổng công suất trên
19.000 MW, các dự án điện gió ngoài khơi với 6.000 MW. Thời gian triển khai các
dự án trong kỳ quy hoạch đến năm 2030 chưa được quy định cụ thể dẫn đến việc
khó điều hành và kiểm soát tiến độ thực hiện. Trong quá trình lập Quy hoạch điện
VIII và kế hoạch thực hiện, do chưa có quy định mang tính quy phạm về trình tự,
thủ tục lập kế hoạch, về tiêu chí cụ thể đưa dự án vào quy hoạch, kế hoạch và về
thời gian đưa dự án vào vận hành theo kế hoạch nên dễ dẫn đến cơ chế “xin -
cho”. Trong bối cảnh Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt trước Quy hoạch tổng
thể về năng lượng quốc gia, nên cần thiết đánh giá, rà soát lại về cơ cấu, quy
mô phát triển các phân ngành năng lượng để bảo đảm tính đồng bộ và khả thi của
các Quy hoạch.
2. Việc thực
hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng
2.1. Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về phát triển năng lượng đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
- Việc triển khai quy hoạch các
phân ngành năng lượng, trong đó Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VII điều chỉnh
đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Nguồn cung năng lượng và nhập khẩu năng lượng
cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Tổng cung năng lượng sơ cấp trong nước liên tục tăng trưởng, bình quân
tăng 8,7%/năm. Ngành điện phát triển nhanh, công suất đặt nguồn điện tăng trưởng
trên 12%/năm, sản lượng điện thương phẩm đầu người tăng 1,42 lần. Việc đầu tư
xây dựng hạ tầng cung cấp điện có sự phát triển mạnh mẽ, là điều kiện quan trọng
cho việc bảo đảm an ninh cung ứng điện. Điện lưới quốc gia được đưa tới hầu hết
mọi miền của đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo. Hệ thống
điện vận hành an toàn, ổn định. Cơ cấu nguồn điện theo chủ sở hữu ngày càng đa
dạng, bên cạnh Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) còn có Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và các nhà đầu
tư tư nhân. Ngành dầu khí đã cơ bản hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra, giữ vững
là ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng. Ngành than tiếp tục ổn định, đáp ứng một
phần nhu cầu sử dụng trong nước. Ngành năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện
mặt trời có bước phát triển đột phá, đã hình thành và phát triển một số trung
tâm năng lượng tái tạo tại các vùng, địa phương có lợi thế, góp phần đa dạng
hóa nguồn cung năng lượng, phù hợp với xu thế chuyển đổi năng lượng. Đến cuối
năm 2021, đã có 16.364 MW điện mặt trời, 3.987 MW điện gió, 318 MW điện sinh khối.
Nhà máy điện rác Sóc Sơn, Hà Nội với công suất 15/75 MW và một vài nhà máy điện
rác quy mô nhỏ được đưa vào vận hành vào cuối năm 2022. Tổng sản lượng điện
năng lượng tái tạo thực tế trong giai đoạn 2015-2021 là 119.374 triệu kWh, đạt
118% mục tiêu chiến lược phát triển năng lượng tái tạo đã đề ra. Việc dừng thực
hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đã được thực hiện nghiêm
túc; đồng thời đã ban hành và thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ
tỉnh Ninh Thuận phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất, đời sống nhân
dân; đã quan tâm bố trí, sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo trong các hoạt động
nghiên cứu; tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hạt
nhân.
- Tổng tiêu thụ năng lượng cuối
cùng tăng bình quân 6,8%/năm theo hướng công nghiệp hóa, điện khí hóa; chuyển đổi
năng lượng theo hướng bền vững đã được chú trọng nhằm bảo đảm thực hiện các cam
kết quốc tế của Việt Nam. Công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu trong lĩnh vực năng lượng được chú trọng thông qua việc đầu tư đổi mới công
nghệ, phát triển các dự án năng lượng sạch. Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả ngày càng được quan tâm với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị
và tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp.
Việc thực hiện lộ trình chuyển
đổi ngành điện, than, dầu khí và sản phẩm xăng dầu sang hoạt động theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đầu tư
phát triển năng lượng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nòng cốt là
các doanh nghiệp nhà nước đã huy động được nguồn vốn lớn; hạ tầng năng lượng
ngày càng được tăng cường theo hướng đồng bộ, hiện đại. Công tác nghiên cứu
khoa học, ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực năng lượng đã được quan tâm; ngành
năng lượng bước đầu đã làm chủ một số công nghệ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa máy
móc, thiết bị và dịch vụ. Nguồn nhân lực, việc làm phát triển ổn định và từng
bước mở rộng sang lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng mới.
Công tác an sinh xã hội được bảo
đảm cơ bản đối với người dân bị ảnh hưởng trong khu vực triển khai các dự án
năng lượng. Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi, hải đảo được thực hiện tốt,
100% số xã với hơn 99,74% số hộ dân có điện.
Việc quy hoạch phát triển các dự
án năng lượng gắn với công tác quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược,
trong đó có việc bảo vệ các cơ sở sản xuất, truyền tải, phân phối và lưu trữ
năng lượng được chú trọng. Công tác ứng phó khi xảy ra cháy, nổ liên quan đến
các công trình năng lượng được triển khai tương đối kịp thời. Ngành dầu khí đã
góp phần tích cực trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên biển.
2.2. Bên cạnh những kết quả đạt
được, việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng còn có một
số hạn chế, bất cập.
- Việc đảm bảo an ninh năng lượng
quốc gia đối mặt với nhiều thách thức. Có 3/6 chỉ tiêu chủ yếu đánh giá đảm bảo
an ninh năng lượng quốc gia đang biến động theo chiều hướng bất lợi, cụ thể là
tỷ số trữ lượng và sản xuất than, dầu, khí tự nhiên ngày càng giảm; sự phụ thuộc
vào nhập khẩu than, dầu, khí tự nhiên và tỷ trọng chi phí nhập khẩu than, dầu,
khí tự nhiên trong tổng thu nhập quốc nội ngày càng tăng. Tỷ lệ nhập khẩu năng
lượng sơ cấp trong tổng cung cấp năng lượng tăng từ 8,4% năm 2015 lên 48% năm
2020. Trong khi đó, trữ lượng thủy điện cơ bản đã khai thác hết; sản xuất than
thiếu năng lực mở rộng, tỷ trọng sản lượng khai thác lộ thiên giảm, chỉ chiếm
35% - 40% tổng sản lượng khai thác toàn ngành; sản lượng dầu, khí ở một số mỏ lớn
đang suy giảm nhanh; hoạt động phát triển mỏ dầu, khí mới trên Biển Đông gặp
nhiều khó khăn.
Cơ cấu nguồn và sự phát triển
các nguồn điện còn nhiều điểm chưa thực sự cân đối, chưa sát với tình hình thực
tế, chưa có sự tính toán hợp lý trong tổng thể phát triển của cả hệ thống. Điện
từ năng lượng tái tạo tăng nhanh nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực miền Trung,
miền Nam, chưa đồng bộ với khả năng truyền tải và chưa có hệ thống dự phòng,
lưu trữ dẫn đến tình trạng quá tải lưới truyền tải ở một số địa phương; việc
huy động nhiều nguồn điện tái tạo với giá khá cao đã và đang làm tăng giá thành
điện, gây khó khăn trong hoạt động điều độ, điều tiết hệ thống điện lực quốc
gia. Sự tích tụ những tồn tại, hạn chế này trong thời gian dài đã dẫn đến tình
trạng thiếu điện ở miền Bắc vào đầu tháng 6/2023 ảnh hưởng xấu đến sản xuất và
đời sống của người dân. Nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn 2024 - 2025 và các
năm tiếp theo là hiện hữu nếu không có các giải pháp hữu hiệu, kịp thời.
Hiệu quả khai thác, sử dụng
năng lượng còn thấp. Công tác quản lý, khai thác tài nguyên năng lượng còn hạn
chế. Hệ số thu hồi dầu khí chưa cao; hệ số thu hồi than sạch tuy có cải thiện
nhưng vẫn còn thấp, nhất là trong khai thác hầm lò. Hệ số đàn hồi năng lượng
năm 2021 là 1,39, ở mức cao so với nhiều nước trên thế giới. Cường độ năng lượng
(chỉ số tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên một đơn vị GDP theo giá so sánh
năm 2010) năm 2015 là 408 kgOE/1000 USD, tăng lên 463 kgOE/1000 USD năm 2020 và
ở mức 1,04 lần so với năm 2015, so sánh ở cùng mốc năm 2017 còn cao hơn nhiều
quốc gia khác. Tỷ trọng tiêu thụ điện năng trong cơ cấu tổng tiêu thụ năng lượng
cuối cùng tăng từ 25,7% năm 2015 lên 28,4% vào năm 2020 đặt ra thách thức về đảm
bảo cung ứng điện.
Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng
còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc triển khai các dự án nguồn điện,
lưới điện bị kéo dài do vướng mắc về quy hoạch, cơ chế chuyển đổi mục đích sử dụng
đất, đền bù, giải phóng mặt bằng; dự phòng lưới điện còn chưa đáp ứng tiêu chí
N-1 ở một số khu vực quan trọng. Kho dự trữ quốc gia xăng dầu của Nhà nước và hệ
thống dự trữ quốc gia về than, khí thiên nhiên chưa được thiết lập.
Trình độ công nghệ, tỷ lệ nội địa
hóa máy móc, thiết bị năng lượng chậm được nâng cao, phụ thuộc nhiều vào nhà
cung cấp nước ngoài; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Chưa kiên quyết, kịp thời triển
khai đầy đủ, đồng bộ các giải pháp đề ra tại các Nghị quyết liên quan đến lĩnh
vực năng lượng của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đối với Nghị quyết số 134/2020/QH14 ngày 17/11/2020, còn chậm hoàn thiện
và phê duyệt Chương trình cấp điện nông thôn miền núi và hải đảo giai đoạn 2021
- 2025. Vẫn còn tồn tại một số dự án thủy điện chưa chấp hành nghiêm các quy định
về xây dựng, quy hoạch, chưa hoàn thiện các thủ tục về môi trường, chậm tiến độ,
chưa hoàn thành phương án cắm mốc giới hành lang bảo vệ hồ chứa. Công tác xử lý
vi phạm thiếu chế tài hoặc chế tài chưa đủ mạnh; chưa quan tâm đúng mức việc xử
lý các tồn tại sau thanh tra và kiểm tra, trong đó có các tồn tại liên quan tới
việc điều chỉnh quy mô, thay đổi thiết kế bản vẽ kỹ thuật thi công so với hồ sơ
thiết kế, việc kiểm tra, đánh giá an toàn trong quản lý, vận hành, nhất là tại
trước thời điểm mùa mưa lũ.
Đối với Nghị quyết số 61/2022/QH15 ngày 16/6/2022, đến ngày 20/9/2023
mới có 13/63 quy hoạch tỉnh được phê duyệt, trong khi đó còn chờ ban hành kế hoạch
thực hiện, do đó sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến độ triển khai dự án năng lượng tại địa
phương. Đối với Nghị quyết số 74/2022/QH15
ngày 15/11/2022, còn chưa hoàn thành việc phân loại và xây dựng kế hoạch, lộ
trình, làm rõ trách nhiệm, xử lý các sai phạm, tiêu cực, các tồn tại, hạn chế,
thất thoát, lãng phí đối với các tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan đến 13 dự
án, chuỗi dự án trọng điểm trong lĩnh vực điện, than, dầu khí chậm tiến độ đã
rà soát, xử lý. Đối với Nghị quyết số 499/NQ-UBTVQH15
ngày 28/3/2022, chưa thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung đã đề ra, phần nào gây
ra tình trạng thiếu điện, thiếu xăng dầu gần đây.
- Việc thực hiện một số chiến
lược, quy hoạch liên quan đến lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là quy hoạch điện gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc, trong đó có cơ chế quản lý, đầu tư, tài chính, chuyển
giao công nghệ và đào tạo nhân lực. Sự phát triển nhanh chóng các dự án điện mặt
trời, điện gió theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc
phát điện và truyền tải điện lên hệ thống. Việc triển khai các dự án nguồn điện,
lưới điện trong Quy hoạch điện VIII gồm cả các dự án được kế thừa, chuyển tiếp
từ Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VII điều chỉnh, trong đó có các dự án điện
mặt trời, điện gió gây khó khăn về cơ sở hạ tầng, đầu tư, thị trường và quản
lý, điển hình là tình trạng nghẽn lưới điện, dao động điện áp và tần số, cắt giảm
nguồn điện và các nguồn điện phát triển mới tập trung ở miền Nam và miền Trung,
trong khi phụ tải đang phát triển nhanh ở miền Bắc, gây mất cân đối cung cầu điện
giữa các vùng miền.
- Trung tâm Điều độ hệ thống điện
quốc gia (đơn vị điều độ và vận hành thị trường điện) trực thuộc EVN nên không
bảo đảm tính độc lập, khách quan trong điều độ, vận hành hệ thống điện, đã phần
nào gây ra tình trạng thiếu điện gần đây. Quá trình tách đơn vị này độc lập với
EVN còn chậm và đang chờ các quy định hướng dẫn cụ thể, trong đó có cơ chế thu
giá điều độ hệ thống, điều độ thị trường, cơ chế tài chính vận hành đơn vị.
- Thị trường năng lượng cạnh
tranh chưa phát triển hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, chưa đạt mục tiêu đề ra, thiếu
liên thông giữa các phân ngành năng lượng, nhất là thị trường điện. Các điều kiện
tiên quyết để hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực chậm được
triển khai. Thị trường xăng dầu còn bị động, thiếu hụt nguồn cung và vướng mắc
trong cơ chế quản lý, điều hành. Việc cơ cấu lại ngành năng lượng, nhất là
ngành điện còn chậm, thiếu quyết liệt trong chuyển đổi hoạt động theo cơ chế thị
trường trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Giá điện chậm được thay đổi,
chưa phù hợp cơ chế thị trường; các tín hiệu thị trường trong khâu phát điện và
truyền tải điện chưa được phản ánh một cách đầy đủ ở giá điện áp dụng cho hộ
tiêu dùng cuối cùng. Cơ cấu biểu giá bán lẻ thực hiện theo Luật Điện lực chưa phù hợp với thực tế tiêu thụ
điện của các nhóm khách hàng, còn duy trì bù chéo, giá điện sinh hoạt của người
dân chi trả còn cao hơn mức giá cho nhóm khách hàng là hộ sản xuất, kinh doanh,
chưa phù hợp với mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với các
ngành, lĩnh vực sản xuất thâm dụng điện. Từ năm 2017 đến nay, giá điện chỉ được
điều chỉnh 4 lần (năm 2017 tăng 6,08%, năm 2019 tăng 8,36%, tháng 5 và tháng 11
năm 2023 tăng lần lượt là 3% và 4,5%), chưa bảo đảm tính đúng, đủ các chi phí đầu
vào sản xuất, kinh doanh của ngành điện, chưa thực hiện đúng Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 quy định về cơ chế
điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân. Việc điều độ, vận hành các nhà máy điện
gió và điện mặt trời được hưởng cơ chế giá FIT còn bất cập, ảnh hưởng đến lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp và người dân, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Quy
định chi phí kinh doanh định mức trong giá thành cơ sở xăng dầu gồm cả khâu bán
buôn và khâu bán lẻ còn chưa hợp lý, tạo kẽ hở cho doanh nghiệp đầu mối chèn ép
doanh nghiệp bán lẻ, tạo xung đột lợi ích trong hệ thống kinh doanh xăng dầu, tiềm
ẩn nguy cơ gây thiếu xăng dầu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu
xăng dầu vào cuối năm 2022.
- Chuyển đổi năng lượng đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là về huy động vốn, ứng dụng, phát triển công
nghệ, nguồn nhân lực, chuyển đổi việc làm, tạo sinh kế cho người dân và cơ chế
quản lý trong điều kiện quy mô nền kinh tế nước ta, nguồn lực, trình độ công
nghệ còn khiêm tốn, một số công nghệ về năng lượng mới chưa chín muồi. Nhiệt điện
than vẫn chiếm tỷ trọng cao, một số nhà máy có tuổi đời cao, công nghệ lạc hậu,
gây ô nhiễm môi trường và đặt ra nhiều thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi
nhiên liệu.
- Hạ tầng ngành điện, than, dầu
khí ở khu vực ven biển chịu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Công tác quản
lý môi trường, đa dạng sinh học trong khai thác và sử dụng năng lượng có nơi,
có lúc chưa được quan tâm đúng mức, còn để xảy ra sự cố môi trường. Việc xử lý
tro, xỉ thải của một số nhà máy nhiệt điện than còn bất cập, làm ảnh hưởng tới
môi trường sống của người dân trong khu vực. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về
bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng chưa đầy đủ và chưa phù hợp với chuẩn
mực quốc tế, nhất là đối với phân ngành năng lượng tái tạo.
- Việc giải quyết những tồn tại,
khó khăn, vướng mắc trong công tác tái định cư, chuyển đổi việc làm, tạo sinh kế
cho người dân bị ảnh hưởng do bị thu hồi đất sản xuất, đất ở trong quá trình
phát triển các dự án thuỷ điện, điện gió, điện mặt trời, các dự án lưới điện
còn chậm, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Đề án ổn định sản xuất, đời sống Nhân dân và phát triển khu dân cư đối với
các vị trí trước đây quy hoạch xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2
chưa được phê duyệt, dẫn đến khó khăn trong đời sống, sản xuất của một bộ phận
nhân dân và lãng phí nguồn lực đất đai trong khu vực.
Hiện cả nước vẫn còn gần
130.000 hộ dân chưa được cấp điện từ lưới quốc gia hoặc các nguồn điện năng lượng
tái tạo, đặc biệt là trên một số đảo như Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị, Thổ Châu, An
Sơn - Nam Du tỉnh Kiên Giang và Côn Đảo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Việc bảo đảm an ninh trên biển
cho các hoạt động năng lượng gặp nhiều khó khăn. Nguy cơ mất an toàn trong sử dụng
điện dẫn đến cháy, nổ, hỏa hoạn, nhất là trong các khu dân cư đông người có xu
hướng tăng lên.
- Nhiều dự án năng lượng trong
nước chậm tiến độ, trong đó có 21 dự án, chuỗi dự án năng lượng trọng điểm cần
quan tâm đặc biệt, nhất là 02 chuỗi dự án khí - điện Lô B và Cá Voi Xanh; việc
xử lý tồn tại, yếu kém đối với 03 dự án nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học
Dung Quất, Phú Thọ, Bình Phước còn chậm. Đầu tư một số dự án năng lượng ở nước
ngoài tiềm ẩn nhiều rủi ro mất vốn; quá trình xử lý, giải quyết các vấn đề phát
sinh chậm, gặp khó khăn do có sự khác biệt về thủ tục hành chính và hệ thống
pháp luật. Một số doanh nghiệp năng lượng nhà nước đã xảy ra tình trạng thua lỗ,
có dấu hiệu mất cân đối tài chính. Một số vi phạm, trách nhiệm cụ thể đã và
đang được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý; một số cá nhân đã bị khởi tố
hình sự.
3. Nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập.
3.1. Nguyên nhân khách quan
Lĩnh vực năng lượng có phạm vi
rộng, vừa có tính kinh tế, xã hội, môi trường, vừa có tính kỹ thuật chuyên sâu;
tính đồng bộ, liên thông, kết nối cao; chịu tác động trực tiếp của các yếu tố
trong và ngoài nước. Năng lượng tái tạo là lĩnh vực mới, các quốc gia trên thế
giới có những cách làm khác nhau, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Bối cảnh quốc tế,
thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường. Hỗ trợ tài chính,
chuyển giao công nghệ của cộng đồng quốc tế để chuyển đổi năng lượng gặp nhiều
thách thức. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, địa phương, trong nước và quốc tế, được quy định trong nhiều
VBQPPL khác nhau.
Hoạt động tìm kiếm, thăm dò,
khai thác và sản xuất than, dầu khí gặp nhiều khó khăn. Sản xuất, kinh doanh và
cân đối tài chính ngành điện gặp nhiều thách thức do thời tiết cực đoan, giá
nhiên liệu và tỷ giá hối đoái biến động theo xu hướng tăng. Huy động vốn từ các
thành phần kinh tế, vay tín dụng nước ngoài cho các dự án năng lượng trọng điểm,
đặc biệt là các dự án phát triển điện than gặp nhiều khó khăn.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức về vai trò, vị trí của
ngành năng lượng và mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia của các cấp,
các ngành còn chưa thực sự toàn diện, đầy đủ.
Hệ thống chính sách, pháp luật
và bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng còn bất cập, chưa tương xứng
với yêu cầu phát triển ngành năng lượng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhất là đối với phân ngành điện; sự phân công, phối hợp giữa các Bộ,
ngành và địa phương còn thiếu rõ ràng, chưa chặt chẽ; công tác thanh tra, kiểm
tra chưa sát sao, kịp thời; công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng có nơi, có lúc còn chậm, thiếu
quyết liệt, nhất là việc tổ chức và vận hành đơn vị điều độ hệ thống điện quốc
gia, phát triển các cấp độ thị trường điện lực, cơ cấu lại EVN, thực hiện các
biện pháp bảo đảm an ninh năng lượng điện, cân đối cung ứng xăng dầu, giải quyết
các khó khăn, vướng mắc của dự án trọng điểm về điện lực; việc đàm phán, thu xếp
vốn đầu tư, chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, thực hiện bồi thường, hỗ trợ,
giải phóng mặt bằng một số công trình, dự án năng lượng còn chậm.
Tổ chức và hoạt động của Quỹ
bình ổn giá xăng dầu còn thiếu công khai, minh bạch; nguyên tắc trích lập, chi
sử dụng Quỹ chưa rõ ràng, không có cơ sở thuyết phục, không đạt được mục tiêu đề
ra, thậm chí dẫn đến tác dụng “ngược” trong một số trường hợp. Một bộ phận cán
bộ, công chức trong ngành năng lượng có tâm lý e ngại, né tránh, đùn đẩy, sợ
trách nhiệm, có trường hợp vi phạm pháp luật.
Năng lực dự báo, xây dựng thể
chế và quản lý kinh tế, tài chính trong ngành năng lượng còn hạn chế. Chưa có
cơ chế, chính sách đặc thù đối với các dự án năng lượng cấp bách trong ngành dầu
khí và ngành điện; việc điều hành giá bán lẻ điện chưa được điều chỉnh kịp thời
với sự biến động thực tế của giá các loại nhiên liệu đầu vào, chưa quyết liệt
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để bảo đảm phát triển điện lực theo đúng quy hoạch.
Công tác thông tin, tuyên truyền về ngành năng lượng, đặc biệt về thị trường điện,
chính sách giá điện còn hạn chế.
4. Trách nhiệm
của các cơ quan liên quan
4.1. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã có nhiều
cố gắng, nỗ lực trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ban hành
hệ thống chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng; giữ vững an ninh năng
lượng trong bối cảnh nhu cầu tăng nhanh; phát triển hạ tầng năng lượng, hệ thống
điện đảm bảo cung cấp cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; phát triển một số
yếu tố của thị trường năng lượng cạnh tranh; thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả; chuyển dịch năng lượng theo hướng bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững.
4.2. Trách nhiệm chính đối với
những hạn chế, bất cập đã nêu thuộc về các tổ chức, cá nhân và người đứng đầu
các cơ quan, đơn vị chỉ đạo, chủ trì tham mưu, xây dựng, ban hành và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng, cụ thể như sau:
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
chịu trách nhiệm chung trong chỉ đạo công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng; chịu trách nhiệm chính
trong việc chưa bảo đảm yêu cầu về tiến độ, chất lượng ban hành chính sách,
pháp luật theo thẩm quyền, trong đó có việc chậm phê duyệt Chiến lược phát triển
năng lượng quốc gia, Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia, Quy hoạch điện
VIII, kế hoạch thực hiện các quy hoạch liên quan và chính sách giá khuyến khích
phát triển năng lượng tái tạo; những hạn chế, khuyết điểm về quản lý, thực hiện
quy hoạch và đầu tư xây dựng các công trình điện theo Quy hoạch điện VII, Quy
hoạch điện VII điều chỉnh, về tổ chức và vận hành đơn vị điều độ hệ thống điện
quốc gia. Chưa kịp thời chỉ đạo triển khai các nghị quyết có liên quan của Đảng,
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; chưa kiên quyết chỉ đạo xử lý, khắc phục
những hạn chế, bất cập trong phát triển năng lượng quốc gia, nhất là trong lĩnh
vực điện, xăng dầu và các dự án năng lượng chậm tiến độ, trong đó có 21 dự án,
chuỗi dự án năng lượng trọng điểm. Chậm chỉ đạo triển khai lộ trình, các điều
kiện tiên quyết để phát triển các cấp độ thị trường điện lực và cơ cấu lại
ngành năng lượng, nhất là phân ngành điện; chậm chỉ đạo xử lý các vướng mắc,
khó khăn về cơ chế mua bán điện trực tiếp.
- Bộ Công Thương chịu trách nhiệm
chính trong tham mưu ban hành, ban hành theo thẩm quyền và việc tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng; những hạn chế, bất cập, khuyết
điểm, vi phạm trong quản lý, thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng các công
trình điện theo Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VII điều chỉnh và chính sách
giá khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo. Chịu trách nhiệm một phần trong
việc chậm tham mưu ban hành Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia, Quy hoạch
điện VIII, kế hoạch thực hiện các quy hoạch liên quan; việc chậm xử lý 03 dự án
nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Dung Quất, Phú Thọ, Bình Phước; triển khai
lộ trình xây dựng thị trường điện và chính sách giá điện; cung ứng và bình ổn
giá xăng dầu; các dự án năng lượng chậm tiến độ; để xảy ra tình trạng thiếu
xăng dầu cuối năm 2022, thiếu điện ở miền Bắc vào đầu tháng 6/2023.
- Các bộ Tư pháp, Tài chính, Kế
hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng,
Giao thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước và Thanh tra Chính phủ, trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm về những tồn tại, hạn
chế, bất cập, chậm trễ trong việc chậm tham mưu, phối hợp, xây dựng, ban hành,
tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng, trong đó có
các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, công tác kiểm tra, thanh tra, phát hiện và
xử lý vi phạm, thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình, chịu trách nhiệm về những hạn chế, bất cập, khuyết điểm trong chỉ đạo, chấp
hành chính sách, pháp luật về quản lý, thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng
các công trình điện theo Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh
trên địa bàn; việc chưa phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong quá trình xây dựng, tổ
chức thực hiện, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm chính sách, pháp luật về
phát triển năng lượng.
Ủy ban nhân dân các tỉnh Bình
Thuận, Ninh Thuận, Đắk Nông, Đắk Lắk chịu trách nhiệm về việc để xảy ra vi phạm
pháp luật trong đầu tư xây dựng công trình năng lượng tái tạo tại địa phương.
- Các tập đoàn Điện lực Việt
Nam, Dầu khí Việt Nam, Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Xăng dầu Việt
Nam, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm
về những tồn tại, hạn chế, bất cập, khuyết điểm, vi phạm về việc chấp hành
chính sách, pháp luật trong quản lý, thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng các
công trình điện theo Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh; quản
lý và điều hành để xảy ra tình trạng thiếu xăng dầu cuối năm 2022, thiếu điện ở
miền Bắc vào đầu tháng 6/2023; chậm thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp; việc triển
khai các dự án năng lượng được Nhà nước giao làm chủ đầu tư đã xảy ra tình trạng
chậm trễ, thua lỗ, thất thoát, lãng phí, đầu tư ra nước ngoài gặp nhiều rủi ro
mất vốn; những hạn chế trong xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ, đội ngũ cán
bộ và trong phối hợp với các cơ quan, địa phương có liên quan.
Điều 2. Nhiệm
vụ, giải pháp
Để phát huy kết quả đạt được,
khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn
mới, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
các Bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình,
nghiên cứu, thực hiện các kiến nghị của Đoàn giám sát tại Báo cáo số 709/BC-ĐGS
ngày 04/12/2023 và tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:
1. Nhiệm vụ,
giải pháp thực hiện xong trước cuối năm 2025
1.1. Rà soát, trình Quốc hội
xem xét sửa đổi, bổ sung các luật theo Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15
ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đề án định hướng Chương trình
xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, bao gồm: Luật Điện lực, Luật
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật
Khoáng sản, Luật Hóa chất, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Dự trữ quốc
gia.
1.2. Cơ chế, chính sách phát
triển năng lượng, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
- Về chiến lược, quy hoạch
phát triển năng lượng quốc gia và các quy hoạch, kế hoạch liên quan:
Trong năm 2023, ban hành Chiến
lược phát triển năng lượng quốc gia, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, Kế
hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và Kế hoạch thực hiện
các quy hoạch liên quan đến lĩnh vực năng lượng; hoàn thiện chính sách, pháp luật
về phát triển điện lực, đầu tư, quy hoạch để thu hút nhà đầu tư thực hiện các dự
án nguồn, lưới điện; nghiên cứu, rà soát, đánh giá tác động, có cơ chế phù hợp,
nếu cần thiết đề xuất cơ chế đặc thù để triển khai kịp tiến độ các dự án nguồn
và lưới điện cấp bách.
Trong năm 2024, đánh giá, rà
soát, cập nhật tình hình triển khai Quy hoạch điện VIII để điều chỉnh kịp thời
đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội với chi phí hợp
lý, phù hợp với khả năng bố trí nguồn lực, năng lực, trình độ công nghệ; rà
soát để bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch tổng
thể về năng lượng quốc gia. Trình Quốc hội thông qua Quy hoạch không gian biển
quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, làm cơ sở thu hút đầu tư
phát triển hợp lý điện khí, năng lượng tái tạo, sản xuất nhiên liệu hydro,… Khẩn
trương xây dựng chính sách hỗ trợ, đột phá để phát triển điện gió ngoài khơi, đồng
thời kết hợp với triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
- Về cơ chế, chính sách về thị
trường năng lượng; giá điện, than, khí và xăng dầu; đầu tư phát triển các phân
ngành năng lượng:
Đối với thị trường năng lượng:
Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách phát triển, vận hành thị trường
năng lượng cạnh tranh phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp theo lộ trình phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh. Xác định vấn
đề còn bất cập, các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp phù hợp để
thúc đẩy quá trình chuyển đổi nhiên liệu. Thiết lập cơ chế ràng buộc trách nhiệm
của các bên tham gia vào thị trường năng lượng.
Đối với giá điện: Hoàn
thiện cơ chế giá phát điện nhằm khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh nguồn
điện năng lượng tái tạo, trong đó có điện rác và điện sinh khối; xử lý dứt điểm
vướng mắc các dự án điện gió, điện mặt trời giai đoạn trước. Khẩn trương xây dựng,
thực hiện cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa nhà máy điện năng lượng
tái tạo và khách hàng tiêu thụ điện lớn; cơ chế đấu giá, đấu thầu lựa chọn chủ
đầu tư công trình điện bảo đảm công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích và chia sẻ
rủi ro giữa các bên; điều chỉnh kịp thời giá bán lẻ điện theo biến động thực tế
của thông số đầu vào như giá nguyên nhiên liệu, tỷ giá, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô, an sinh xã hội, đồng thời bù đắp được chi phí và lợi nhuận hợp lý để bảo
toàn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là thúc đẩy cạnh tranh trong
khâu nguồn điện; rút ngắn thời gian giữa các lần điều chỉnh giá điện.
Sớm luật hóa việc điều hành giá
bán lẻ điện theo tinh thần “xoá bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch
do thị trường quyết định”. Hoàn thiện cơ chế giá truyền tải điện để thu hút đầu
tư vào lưới điện theo từng khu vực địa lý; không thực hiện bù chéo giá điện giữa
các nhóm khách hàng, giữa các vùng, miền; tách bạch chi phí hoạt động sản xuất
kinh doanh và hoạt động công ích, chi phí xã hội và chi phí quản trị doanh nghiệp.
Có cơ chế giá phù hợp trong việc xuất, nhập khẩu điện đối với các nước trong
khu vực.
Đối với giá than, khí: Nghiên
cứu, hoàn thiện cơ chế phát triển thị trường cạnh tranh đối với than, khí. Thiết
lập cơ chế, chính sách về giá than trong giao dịch than nhập khẩu bảo đảm phù hợp,
khả thi, hiệu quả. Tính toán, xác định cơ chế giá điện khí để bảo đảm hiệu quả
đầu tư của dự án điện, đặc biệt là các chuỗi dự án khí - điện sử dụng khí trong
nước.
Đối với giá xăng dầu: Nghiên
cứu điều chỉnh và hoàn thiện định mức phí bảo quản xăng dầu. Ban hành Nghị định
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP
ngày 01/11/2021 và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP
ngày 03/9/2014 về kinh doanh xăng dầu để giải quyết các tồn tại, hạn chế, vướng
mắc trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, đảm bảo phù hợp với tình hình thị trường
và yêu cầu thực tiễn. Có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất
xăng dầu, bảo đảm hạn mức sản xuất tối thiểu và cam kết sản lượng cung ứng.
- Về việc bảo đảm tính khả thi,
hiệu quả đầu tư và nguồn vốn thực hiện các dự án năng lượng:
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện các VBQPPL để tháo gỡ các vướng mắc, điểm nghẽn trong triển khai đầu
tư các dự án, hạ tầng năng lượng phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đặc thù của từng
phân ngành năng lượng, chú trọng các quy định về quy hoạch, lựa chọn nhà đầu tư
các dự án năng lượng, hoạt động xây dựng; trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất
rừng; trong phòng cháy và chữa cháy.
Đối với phân ngành điện
Nghiên cứu, rà soát, đánh giá,
ban hành cơ chế, chính sách thu hút đầu tư nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước đối
với các dự án nguồn và lưới điện trong giai đoạn 2023-2030; bảo đảm hài hòa lợi
ích của các chủ thể từ khâu khai thác khí đến khâu mua điện đối với các chuỗi dự
án khí - điện để sớm đưa vào khai thác các nguồn khí trong nước; bảo đảm các
nhà đầu tư thu hồi được vốn và có mức lợi nhuận hợp lý đối với các dự án điện
quan trọng, ưu tiên, trong đó có các dự án điện sử dụng LNG, điện gió ngoài
khơi và lưới điện truyền tải cho điện gió ngoài khơi.
Sớm có giải pháp bảo đảm cho
các hộ dân được cấp điện từ lưới quốc gia hoặc các nguồn điện năng lượng tái tạo,
đặc biệt trên một số đảo như Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị, Thổ Châu, An Sơn - Nam Du tỉnh
Kiên Giang và Côn Đảo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Đối với phân ngành dầu khí
Nghiên cứu, rà soát, đánh giá,
ban hành cơ chế, chính sách về: đẩy mạnh đầu tư phát triển, khai thác các dự án
mỏ khí trong nước, đặc biệt là 02 chuỗi dự án khí - điện Lô B và Cá Voi Xanh, bảo
đảm đồng bộ các khâu đầu vào và đầu ra trong chuỗi nhiên liệu, tận dụng nguồn
tài nguyên quốc gia; ưu tiên triển khai xây dựng hạ tầng kho cảng nhập khẩu LNG
theo hướng phát triển các kho cảng LNG trung tâm có công suất lớn, gần các
trung tâm điện lực sử dụng LNG để tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng vận chuyển,
phân phối khí, tối ưu hóa chi phí và giảm giá thành sản xuất điện; thẩm định và
phê duyệt cước phí vận chuyển khí qua các hệ thống khí; triển khai các hợp đồng
mua LNG dài hạn; giá khí cho sản xuất điện (gồm giá nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa
khí, vận chuyển, phân phối khí) phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc
tế; đầu tư xây dựng hệ thống đường ống phân phối khí, kết nối khu vực để đảm bảo
ổn định và đa dạng hóa nguồn cung, đáp ứng nhu cầu năng lượng của khu vực và
thúc đẩy phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp có quy mô lớn.
Đối với dự trữ xăng dầu quốc
gia
Nghiên cứu, đánh giá tác động,
hoàn thiện cơ chế, chính sách về huy động nguồn vốn đầu tư xây dựng, quy chế quản
lý kho dự trữ quốc gia về dầu thô và sản phẩm xăng dầu tại mỗi miền Bắc, Trung,
Nam, bảo quản xăng dầu dự trữ quốc gia, trường hợp vượt thẩm quyền báo cáo Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội xem xét, quyết định.
Khẩn trương xây dựng, ban hành
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xăng dầu dự trữ quốc gia, định mức kinh tế - kỹ
thuật về bảo quản xăng dầu dự trữ quốc gia phù hợp thực tế. Có chính sách về:
ưu tiên cân đối, bố trí vốn đầu tư công trung hạn và dài hạn cho các dự án đầu
tư phát triển hệ thống kho xăng dầu dự trữ quốc gia phù hợp với tiến độ quy hoạch;
cơ cấu lại mặt hàng xăng dầu dự trữ quốc gia phù hợp với các loại sản phẩm được
lưu thông trên thị trường; biện pháp bảo đảm đủ nguồn cung xăng dầu, tránh đứt
gãy ở mọi phân khúc, thị trường, kể cả sản lượng được phân giao bổ sung và sản
phẩm theo nhu cầu thị trường, nhất là trong thời gian bảo dưỡng các nhà máy lọc
dầu. Khẩn trương triển khai thực hiện Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu,
khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đối với phân ngành than
Nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện
cơ chế, chính sách về: bảo đảm nguồn vốn thực hiện các dự án than trong nước
theo quy hoạch; đầu tư, mua tài nguyên than ở nước ngoài trong dài hạn, đa dạng
hóa nguồn than nhập khẩu; đầu tư hệ thống hạ tầng kho, cảng trung chuyển than,
vận chuyển và dự trữ than. Ban hành văn bản hướng dẫn chủ đầu tư các nhà máy điện
than về cơ chế mua than nhập khẩu dài hạn từ các chủ mỏ (hoặc đại diện chủ mỏ)
tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp thông lệ quốc tế, đảm bảo
nguồn than cho sản xuất điện ổn định, dài hạn với giá cạnh tranh, minh bạch.
Đối với phân ngành năng lượng
tái tạo, năng lượng khác
Hoàn thiện chính sách, pháp luật
về phát triển năng lượng tái tạo, trọng tâm là các cơ chế về: điện gió ngoài
khơi trên cơ sở đánh giá tác động và bảo đảm quốc phòng, an ninh; điện mặt trời
mái nhà tự sản, tự tiêu, điện mặt trời mái nhà tại các tòa nhà công sở, nhà
dân, công trình công cộng, khu công nghiệp; hệ thống lưu trữ năng lượng, pin
nhiên liệu trong phương tiện giao thông vận tải. Sớm ban hành cơ chế phát triển
điện gió, điện mặt trời mái nhà cho khu vực miền Bắc để hạn chế tình trạng thiếu
điện ngay trong năm 2024 và các năm tiếp theo.
Tiến hành tổng kết Nghị quyết số
115/NQ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ về việc
thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh Ninh Thuận phát triển
kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất, đời sống nhân dân giai đoạn 2018 - 2023,
kéo dài thời gian thực hiện nếu cần thiết hoặc xây dựng cơ chế, chính sách mới,
bảo đảm tuân thủ theo tinh thần Nghị quyết số 31/2016/QH14,
phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và của địa phương.
- Về sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả:
Nghiên cứu, rà soát, ban hành
cơ chế, chính sách về: chuyển đổi cơ cấu ngành, lĩnh vực sản xuất theo hướng
tiêu thụ ít năng lượng; khuyến khích, hỗ trợ đi đôi với thực thi chế tài cụ thể
trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, gắn với yêu cầu bảo vệ môi
trường, nâng cao khả năng hội nhập quốc tế và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam.
- Về chuyển đổi năng lượng theo
hướng bền vững:
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
chính sách, pháp luật và tăng cường năng lực, chuẩn bị các điều kiện bảo đảm thực
hiện lộ trình chuyển đổi năng lượng theo hướng bền vững, vừa đáp ứng đồng thời
yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh tài chính, an sinh xã hội và phấn đấu
thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam với sự hỗ trợ từ các đối tác quốc tế.
Trước mắt, tập trung xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kiểm kê
khí nhà kính, phát triển thị trường các-bon và áp dụng cơ chế, chính sách về
tín chỉ các-bon, thuế các- bon, cơ chế giải quyết các vấn đề môi trường đối với
các nhà máy nhiệt điện than và trong phát triển năng lượng tái tạo nhằm đáp ứng
yêu cầu, cam kết quốc tế về an toàn môi trường, phát triển bền vững.
1.3. Về nâng cao hiệu quả, hiệu
lực quản lý nhà nước về phát triển năng lượng
Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị
và người dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của chính sách, pháp luật và việc
thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng, trọng tâm là yêu cầu
bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, tiết kiệm điện, tiết kiệm năng lượng. Thực
hiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các
chương trình tiết kiệm điện. Thực hiện nghiêm các chỉ thị, quy định về tăng cường
tiết kiệm điện. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và giám sát việc tuân thủ pháp luật,
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả.
Tiếp tục tăng cường công tác
giám sát, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, điều tra và kết luận, xử lý dứt điểm
các vụ việc sai phạm. Trong năm 2023, xác định cụ thể những vướng mắc về cơ chế,
chính sách đầu tư, tài chính hiện nay của các tập đoàn, tổng công ty kinh tế
nhà nước trong lĩnh vực năng lượng; nghiên cứu đề xuất hoặc quyết định theo thẩm
quyền các giải pháp xử lý, không để tình trạng tiếp tục thua lỗ, mất cân đối
tài chính trong các đơn vị này.
Tăng cường trách nhiệm và phối
hợp hoạt động giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các địa phương, chủ đầu tư để giải
quyết những hạn chế, bất cập trong thực thi chính sách, pháp luật về phát triển
năng lượng, trọng tâm là chuyển mục đích sử dụng rừng đối với các dự án lưới điện
truyền tải và lưới điện phân phối, công tác giải phóng mặt bằng theo hướng đảm
bảo quyền lợi và đền bù hợp lý cho người dân bị ảnh hưởng, tạo điều kiện thuận
lợi để người dân tái định cư và có sinh kế bền vững; về phát triển các dự án
nhiệt điện than sử dụng công nghệ tiên tiến, có hiệu suất cao, ít gây ô nhiễm
môi trường, dự án điện khí với ưu tiên nguồn khí trong nước, dự án điện gió
ngoài khơi, năng lượng tái tạo theo hình thức tự sản, tự tiêu hoặc mua bán điện
trực tiếp không qua EVN; về bảo đảm an toàn điện tại các khu dân cư tập trung
đông người và khu vực có nguy cơ cháy, nổ cao.
Tổ chức đánh giá toàn diện tình
hình triển khai thị trường điện cạnh tranh, làm cơ sở thúc đẩy tái cơ cấu ngành
điện, phục vụ phát triển thị trường điện hiệu quả. Tăng cường tính độc lập,
minh bạch và năng lực của cơ quan điều tiết điện lực và đơn vị vận hành thị trường
điện. Đẩy nhanh việc thực hiện lộ trình phát triển thị trường điện bán buôn và
bán lẻ cạnh tranh. Xử lý các vướng mắc hiện nay trong thị trường điện. Hoàn
thành việc sắp xếp, tổ chức lại, xây dựng cơ chế tài chính bảo đảm hoạt động của
Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia phù hợp với yêu cầu thực tế. Nghiên cứu,
phát triển các công ty mua bán điện theo hướng đa dạng các chủ sở hữu, nâng cao
hiệu quả, năng lực cạnh tranh, phù hợp với yêu cầu phát triển hạ tầng điện và
thị trường điện. Khẩn trương tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức, hiệu quả hoạt
động của Quỹ bình ổn giá xăng dầu để có các giải pháp phù hợp.
Thực hiện cơ cấu lại các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước trong lĩnh vực năng lượng theo hướng Nhà nước tiếp
tục nắm 100% vốn tại công ty mẹ và các nội dung khác theo đề án đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước
trong lĩnh vực năng lượng. Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế phối hợp
giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong phát triển
năng lượng; nghiên cứu, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý, điều hành thị trường
và giá năng lượng, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường năng lực đội
ngũ cán bộ, công chức, quản lý doanh nghiệp và cán bộ chuyên môn kỹ thuật trong
các cơ quan quản lý, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong lĩnh vực năng lượng.
Tập trung thực hiện các giải
pháp tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc đối với 21 dự án, chuỗi dự
án năng lượng trọng điểm, trong đó có 12/13 dự án thuộc danh mục dự án, chuỗi dự
án trọng điểm trong lĩnh vực điện, than, dầu khí chậm tiến độ giai đoạn 2016 -
2021 theo Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày
15/11/2022; xử lý tồn tại, yếu kém đối với 03 dự án nhà máy sản xuất nhiên liệu
sinh học Dung Quất, Phú Thọ và Bình Phước. Có giải pháp tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc để đảm bảo tiến độ xây dựng, hoàn thành các công trình, dự án về nguồn
điện, lưới điện truyền tải, không để chậm hòa lưới các dự án nguồn, hạn chế
năng lực giải tỏa công suất của các nhà máy điện. Thực hiện quản lý kỹ thuật hiệu
quả các nhà máy điện để tránh hư hỏng, sự cố trong vận hành, đảm bảo công suất
phát điện khả dụng. Bảo đảm nguồn cung năng lượng từ than, dầu thô và khí (bao
gồm khí hoá lỏng LNG) trong dài hạn, bao gồm cả nguồn cung năng lượng nhập khẩu.
2. Nhiệm vụ,
giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
2.1. Hoàn thiện chính sách,
pháp luật về phát triển năng lượng, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng
quốc gia, quốc phòng, an ninh và hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường. Trong
đó, trọng tâm là rà soát, trình Quốc hội sửa đổi Luật
Quy hoạch, Luật Lâm nghiệp, Luật Xây dựng, Luật
Quản lý nợ công, Luật Tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo; nghiên cứu, xây dựng các dự án luật về năng lượng tái tạo,
về biến đổi khí hậu.
Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực năng lượng phù hợp với các quy định,
tiêu chuẩn quốc tế và yêu cầu thực tiễn, đồng bộ giữa chính sách phát triển
năng lượng với các chính sách có liên quan. Tiếp tục rà soát các quy hoạch năng
lượng và quy hoạch liên quan để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi,
tăng dần tỷ lệ các nguồn cung năng lượng tái tạo.
Xây dựng lộ trình chuyển đổi
nhiên liệu cho các nhà máy điện than và khí trên cơ sở hiệu quả kinh tế, xã hội
và môi trường. Nâng cao chất lượng trong xây dựng các chiến lược, quy hoạch
phát triển năng lượng đảm bảo tính ổn định, đồng bộ và linh hoạt, gắn với các
quy hoạch kinh tế - xã hội của địa phương và các ngành có liên quan.
2.2. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ
chế tài chính và huy động tối đa nguồn lực xã hội hóa, khuyến khích tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển năng lượng; đặc biệt cho đầu tư
phát triển nguồn và lưới điện. Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, theo hướng tập trung
vào các lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xử lý, cơ
cấu lại triệt để các dự án, doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ trong
lĩnh vực năng lượng.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế,
chính sách, phát triển thị trường năng lượng định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ,
hiện đại và hiệu quả; bảo đảm liên thông giữa các phân ngành năng lượng và kết
nối với thị trường khu vực, thế giới.
2.3. Phát triển các nguồn cung
và hệ thống truyền tải, phân phối năng lượng theo hướng tăng cường khả năng tự
chủ, đa dạng hoá, với cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả, tin cậy, đáp ứng
yêu cầu bảo vệ môi trường và bền vững. Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò nhằm
gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí, than tại các khu vực tiềm
năng; nâng cao chất lượng công tác đánh giá trữ lượng và tài nguyên. Tiếp tục
khai thác dầu khí tại các khu vực nước sâu, xa bờ. Khai thác than trong nước
trên cơ sở bảo đảm an toàn, hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên; sớm nghiên cứu, ứng
dụng công nghệ khí hóa than khi điều kiện cho phép.
Nhân rộng mô hình trung tâm
năng lượng tái tạo tại các địa phương có lợi thế. Sớm nghiên cứu, đánh giá tổng
thể về tiềm năng và phát triển một số nguồn năng lượng mới như năng lượng địa
nhiệt, sóng biển, thuỷ triều… Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao
công nghệ sản xuất năng lượng mới và công nghệ chuyển đổi nhiên liệu các nhà
máy nhiệt điện than, khí sang nhiên liệu sinh khối, hydrogen, amoniac, trong đó
có một số đề án thử nghiệm sản xuất hydrogen, amoniac. Xây dựng cơ chế, chính
sách đưa các loại hình tích trữ điện năng vào ứng dụng nhanh chóng, kịp thời.
Triển khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt
nhân cho mục đích hoà bình.
2.4. Cơ cấu lại các ngành và
khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng
lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp
tiêu thụ ít năng lượng và hiệu quả về kinh tế - xã hội. Trên cơ sở các quy hoạch
đã được phê duyệt, điều chỉnh phân bố các nguồn tiêu thụ năng lượng theo hướng
phân tán, kết hợp chặt chẽ với phân bố lại không gian phát triển công nghiệp
trên phạm vi cả nước, từng vùng và địa phương; đẩy mạnh thực hiện Chương trình
quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030, các
chương trình quản lý nhu cầu điện và điều chỉnh phụ tải; giảm thiểu tối đa tổn
thất điện năng. Có chính sách khuyến khích các hộ tiêu thụ sử dụng năng lượng sạch,
tái tạo, nhất là trong công nghiệp và giao thông phù hợp trình độ công nghệ sẵn
có. Hoàn thiện khung pháp lý, khuyến khích và đẩy mạnh việc triển khai mô hình
các công ty dịch vụ năng lượng, thúc đẩy việc thực hiện các dự án đầu tư tiết
kiệm năng lượng theo cơ chế thị trường.
2.5. Có chính sách ưu tiên đầu
tư phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực; thúc đẩy nhanh xã hội
hoá đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ trong ngành năng lượng. Xoá bỏ độc quyền và
những rào cản bất hợp lý trong sử dụng cơ sở vật chất, dịch vụ hạ tầng năng lượng,
đồng thời yêu cầu dùng chung hạ tầng năng lượng vào các dự án thực hiện theo
các hình thức đối tác công tư. Thúc đẩy nhanh chuyển đổi số trong lĩnh vực năng
lượng, chú trọng xây dựng hạ tầng năng lượng thông minh; hoàn thiện cơ chế, xây
dựng cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia phục vụ công tác quản lý, điều hành hiệu
quả ngành năng lượng.
2.6. Nâng cao năng lực, trình độ
khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng
đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạo cơ chế khuyến
khích và biện pháp bắt buộc để các doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho nghiên cứu
và phát triển, đổi mới công nghệ và thiết bị, nhất là các cơ sở sử dụng nhiều
năng lượng. Xây dựng và triển khai chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm
quốc gia về nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng, tập trung
nghiên cứu ứng dụng các dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng
thông minh, chế tạo thiết bị năng lượng, tiến tới làm chủ một số công nghệ hiện
đại. Chủ động, kịp thời cập nhật thông tin để nghiên cứu, phát triển đồng bộ, ứng
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ năng lượng mới.
Có chính sách phát triển tổng
thể nguồn nhân lực và các chương trình đào tạo cho những khâu then chốt của
ngành năng lượng. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản
lý, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ trong lĩnh vực năng lượng; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ngang tầm thế giới. Sử dụng có hiệu quả số nhân lực
đã được đào tạo và tiếp tục đào tạo nâng cao đối với nhân lực năng lượng nguyên
tử.
2.7. Xây dựng chiến lược phát
triển công nghiệp thiết kế, chế tạo, dịch vụ ngành năng lượng với mục tiêu nâng
cao nội lực, tăng cường tỷ lệ nội địa hoá. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến
khích và hỗ trợ phát triển nghiên cứu công nghệ, công nghiệp thiết kế, chế tạo,
lắp đặt và dịch vụ ngành năng lượng đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước, hướng đến
xuất khẩu. Ưu tiên phát triển các ngành chế tạo máy, thiết bị điện, dầu khí, dịch
vụ dầu khí. Thực hiện tốt các yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nội địa hoá đối
với các nhà máy điện nói riêng và công trình năng lượng nói chung. Khuyến khích
phát triển các doanh nghiệp trong nước có quy mô lớn, đạt trình độ công nghệ
tiên tiến, có khả năng thực hiện những dự án phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật cao
trong ngành năng lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
2.8. Thực thi chính sách bảo vệ
môi trường trong ngành năng lượng gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính
theo các cam kết quốc tế. Triển khai vận hành thị trường các-bon và thực hiện
chính sách tín chỉ các-bon, thuế các- bon thích hợp đối với việc sử dụng nhiên
liệu hoá thạch. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy thực hiện thu hồi, tồn
trữ và xử lý khí các-bon trong các dự án năng lượng. Đào tạo chuyển đổi việc
làm và tạo sinh kế bền vững cho những người bị ảnh hưởng do chuyển đổi năng lượng.
2.9. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức ngành
năng lượng. Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng
cao nhận thức về chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng trong toàn xã hội.
Chủ động và tích cực hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực năng lượng để tranh thủ tối đa cơ hội, vượt qua thách thức,
huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài, tiếp thu kinh
nghiệm quốc tế, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tri thức trong lĩnh vực năng lượng.
Xây dựng các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng
trong dài hạn và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài.
3. Chính phủ
chỉ đạo nghiên cứu, hoàn thiện hoặc trình cấp có thẩm quyền hoàn thiện các
VBQPPL tại Phụ lục 1 về Danh mục VBQPPL đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
trong lĩnh vực năng lượng; chỉ đạo tập trung tháo gỡ, giải quyết vướng mắc, đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các dự án năng lượng trọng điểm tại Phụ lục 2 về Danh mục
dự án năng lượng trọng điểm vướng mắc, chậm tiến độ giai đoạn 2016 - 2021.
Điều 3. Tổ
chức thực hiện
1. Giao Chính phủ ban hành kế
hoạch thực hiện Nghị quyết trong năm 2023, trong đó xác định rõ cơ quan chủ
trì, cơ quan phối hợp, lộ trình, tiến độ và kinh phí bảo đảm hoàn thành từng
nhiệm vụ.
Căn cứ kế hoạch của Chính phủ,
các Bộ, ngành, địa phương ban hành chương trình, kế hoạch cụ thể bảo đảm thực
hiện đồng bộ, kịp thời, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp quy định tại Điều 2
Nghị quyết này.
Hằng năm, Chính phủ báo cáo Quốc
hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về kết quả thực
hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng.
2. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và
Môi trường của Quốc hội tiếp tục giám sát việc triển khai thực hiện chính sách,
pháp luật về phát triển năng lượng; Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc
thực hiện Nghị quyết này./.
Nghị quyết này được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV thông qua
ngày 13 tháng 12 năm 2023.
Nơi nhận:
- Quốc hội;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ;
- Ủy ban Trung ương MTTQVN;
- HĐDT, các Ủy ban của QH, các CQ thuộc UBTVQH;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ; CQ thuộc CP;
- Đoàn ĐBQH, HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Lưu: HC, KHCNMT.
e-PAS: 182664
|
TM. ỦY BAN THƯỜNG
VỤ QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
Vương Đình Huệ
|
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ
SUNG, BAN HÀNH MỚI TRONG LĨNH VỰC NĂNG LƯỢNG
(Kèm theo Nghị quyết số 937/NQ-UBTVQH15 ngày 13 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội)
TT
|
Tên văn bản
|
Thời hạn thực hiện
|
2023 - 2025
|
2026 - 2031
|
I
|
CÁC LUẬT
|
1.
|
Luật Điện lực
|
√
|
|
2.
|
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
|
√
|
|
3.
|
Luật Dự trữ quốc gia
|
√
|
|
4.
|
Luật
Đầu tư
|
|
√
|
5.
|
Luật
Đất đai
|
√
|
|
6.
|
Luật Quy hoạch
|
|
√
|
7.
|
Luật
Các tổ chức tín dụng
|
√
|
|
8.
|
Luật Lâm nghiệp
|
|
√
|
9.
|
Luật Hóa chất
|
√
|
|
10.
|
Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp
|
√
|
|
11.
|
Luật Quản lý nợ công
|
|
√
|
12.
|
Luật Khoáng sản
|
√
|
|
13.
|
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
|
|
√
|
14.
|
Nghiên cứu, xem xét xây dựng
mới Luật Năng lượng tái tạo, Luật Biến đổi khí hậu
|
|
√
|
II
|
CÁC VĂN BẢN THUỘC THẨM QUYỀN
CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
|
|
|
15.
|
Nghị định của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều hoặc Nghị định thay thế Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01/11/2021 và Nghị định số
83/2014/NĐ-CP ngày 03/9/2014 về kinh
doanh xăng dầu
|
√
|
|
16.
|
Nghị định của Chính phủ quy định
về cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện từ năng lượng tái tạo
với khách hàng sử dụng điện lớn
|
√
|
|
17.
|
Nghị định 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2021 của Chính phủ về
quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của
các nhà tài trợ nước ngoài
|
√
|
|
18.
|
Nghị định của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP
ngày 31/3/2017 về tín dụng đầu tư của Nhà nước
|
√
|
|
19.
|
Nghị định của Chính phủ quy định
việc chuyển giao các công trình điện là tài sản công sang EVN (thay thế cho
Quyết định số 41/2017/QĐ-TTg ngày 15/9/2017
của Thủ tướng Chính phủ)
|
√
|
|
20.
|
Nghị định 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Khoáng sản
|
√
|
|
21.
|
Các Nghị định của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung các Nghị định số 04/2022/NĐ-CP
ngày 06/01/2022, số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020
với Luật số 12/2017/QH14 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13
(tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên)
|
√
|
|
22.
|
Nghị định sửa đổi Nghị định số
67/2019/NĐ-CP ngày 31/7/2019 của Chính phủ
quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
(theo hướng thực hiện nộp tiền cấp quyền khai thác tương ứng theo sản lượng
khai thác thực tế và nộp hàng năm theo số năm được cấp phép)
|
√
|
|
23.
|
Nghị định 83/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 156/2018/NĐ-CP
ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Lâm nghiệp
|
√
|
|
24.
|
Nghị định 10/2019/NĐ-CP ngày 30/1/2019 của Chính phủ về
thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước
|
√
|
|
25.
|
Nghị định 10/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Chính phủ về
quy chế quản lý tài chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
|
√
|
|
26.
|
Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng
Chính phủ quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân
|
√
|
|
27.
|
Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg ngày 07/4/2014 của Thủ tướng
Chính phủ quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện
|
√
|
|
28.
|
Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 06/4/2020 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam
|
√
|
|
29.
|
Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam
|
√
|
|
30.
|
Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg 05/5/2014 của Thủ tướng Chính
phủ quy định về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải
rắn tại Việt Nam
|
√
|
|
31.
|
- Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24/3/2014 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án sinh khối tại Việt Nam
- Quyết định số 08/2020/QĐ-TTg ngày 05/3/2020 của Thủ tướng
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24/3/2014 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án sinh khối tại Việt Nam
|
√
|
|
32.
|
Quyết định số 84/2010/QĐ-TTg ngày 15/12/2010 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế khai thác dầu khí
|
√
|
|
33.
|
Quyết định số 49/2017/QĐ-TTg ngày 21/12/2017 của Thủ tướng
Chính phủ thu dọn các công trình, thiết bị và phương tiện phục vụ hoạt động dầu
khí
|
√
|
|
34.
|
Các Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông
|
√
|
|
35.
|
Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi,
bổ sung, xây dựng mới theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan đến nội dung tại Mục I, Phụ lục 1 này để đáp ứng yêu cầu thực tiễn
|
√
|
|
III
|
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA CÁC BỘ, NGÀNH
|
|
BỘ CÔNG THƯƠNG
|
36.
|
Thông tư số 43/2013/TT-BCT ngày 31/12/2013 của Bộ Công
Thương quy định trình tự thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt điều chỉnh bổ sung
quy hoạch
|
√
|
|
37.
|
Thông tư số 30/2015/TT-BCT ngày 16/9/2015 của Bộ Công
Thương quy định phương pháp xác định mức chi phí lập, thẩm định, công bố, điều
chỉnh và quản lý Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và Quy hoạch thủy điện nhỏ
|
√
|
|
38.
|
Thông tư số 43/2016/TT-BCT ngày 30/12/2016 của Bộ Công
Thương quy định về cam kết phát triển dự án và cơ chế xử lý các dự án nhà máy
điện không thực hiện đúng tiến độ cam kết
|
√
|
|
39.
|
Thông tư số 32/2015/TT-BCT ngày 08/10/2015 của Bộ Công
Thương quy định về phát triển dự án và Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho
các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn
|
√
|
|
40.
|
Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15/01/2019 của Bộ Công
Thương quy định thực hiện phát triển dự án điện gió và Hợp đồng mua bán điện
mẫu cho các dự án điện gió
|
√
|
|
41.
|
Thông tư số 18/2020/TT-BCT ngày 17/7/2020 của Bộ Công
Thương quy định về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho
các dự án điện mặt trời
|
√
|
|
42.
|
Thông tư số 01/2023/TT-BCT ngày 19/01/2023 của Bộ Công
Thương về bãi bỏ một số quy định tại Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15/01/2019 của Bộ Công
Thương quy định thực hiện phát triển dự án điện gió và hợp đồng mua bán điện
mẫu cho các dự án điện gió và Thông tư số 18/2020/TT-BCT
ngày 17/7/2020 của Bộ Công Thương quy định về phát triển dự án và hợp đồng
mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời
|
√
|
|
43.
|
Thông tư số 23/2015/TT-BCT ngày 13/7/2015 của Bộ Công
Thương quy định trình tự, thủ tục đầu tư dự án nhà máy nhiệt điện theo hình
thức hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
|
√
|
|
44.
|
Thông tư số 44/2015/TT-BCT ngày 09/12/2015 của Bộ Công
Thương quy định về phát triển dự án, Biểu giá chi phí tránh được và Hợp đồng
mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện sinh khối
|
√
|
|
45.
|
Thông tư số 16/2020/TT-BCT ngày 07/7/2020 của Bộ Công
Thương sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 44/2015/TT-BCT ngày 09/12/2015
|
√
|
|
46.
|
Thông tư số 17/2020/TT-BCT ngày 17/7/2020 của Bộ Công
Thương quy định về bảo quản và hủy bỏ giếng khoan dầu khí
|
√
|
|
47.
|
Thông tư 24/2020/TT-BCT ngày 18/9/2020 của Bộ Công
Thương quy định về phân cấp và lập báo cáo tài nguyên, trữ lượng dầu khí
|
√
|
|
|
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
|
48.
|
Quyết định số 65/QĐ-BKH ngày
17/01/2003 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về định mức phí bảo quản xăng dầu dự trữ
quốc gia
|
√
|
|
|
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
|
|
|
49.
|
Thông tư số 64/2017/TT-BTNMT ngày 22/12/2017 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về xác định dòng chảy tối thiểu trên sông, suối
và hạ lưu các hồ chứa, đập dâng
|
√
|
|
PHỤ LỤC 2
DANH MỤC DỰ ÁN NĂNG LƯỢNG TRỌNG ĐIỂM VƯỚNG MẮC, CHẬM TIẾN
ĐỘ GIAI ĐOẠN 2016 - 2021(*)
(Kèm theo Nghị quyết số 937/NQ-UBTVQH15 ngày 13 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội)
STT
|
Tên dự án, chuỗi dự án
|
Cơ quan chủ trì/Chủ đầu tư
|
Thời hạn hoàn thành/vận hành
|
Theo Quy hoạch điện VII
|
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh
|
Theo Quy hoạch phát triển ngành dầu khí Việt Nam giai đoạn đến 2025,
định hướng đến 2035 (Quyết định số 1623/QĐ-TTg ngày 25/10/2017)
và các Quyết định khác của Thủ tướng Chính phủ
|
I
|
TỔNG HỢP THEO BÁO CÁO CỦA
CÁC ĐỐI TƯỢNG CHỊU SỰ GIÁM SÁT
|
1.
|
Dự án Nhà máy nhiệt điện Công
Thanh
|
Công ty cổ phần Nhiệt điện
Công Thanh
|
2015
|
2020
|
|
2.
|
Dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng
Trị
|
Công ty điện lực Quốc tế Thái
Lan EGATi
|
2019
|
2023
|
|
3.
|
Dự án Nhà máy nhiệt điện sông
Hậu 2
|
Tập đoàn Toyo Ink Group
Berhad (Malaysia)
|
2018
|
2021
|
|
4.
|
Dự án Nhà máy nhiệt điện Nam
Định I
|
Công ty TNHH Điện lực Nam Định
thứ nhất thành lập tại Singapore do Teakwang Power Holdings (Hồng Kông) và
Acwa Power (Ả-rập Xê-út) sở hữu
|
2018
|
2021
|
|
5.
|
Dự án Nhà máy nhiệt điện Vĩnh
Tân III
|
Công ty Cổ phần Năng lượng
Vĩnh Tân 3
|
2017
|
2022
|
|
6.
|
Chuỗi dự án khí - điện Lô B(**)
|
|
|
|
6.1
|
Dự án phát triển mỏ khí Lô B(**)
|
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (người
điều hành) và các nhà đầu tư (Tổng công ty Thăm dò Khai thác dầu khí; MOECO
(Nhật Bản); PTTEP (Thái Lan))
|
|
|
2021
|
6.2
|
Dự án Đường ống dẫn khí Lô B
- Ô Môn (**)
|
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
(người điều hành) và các nhà đầu tư (Tổng công ty Khí Việt Nam; MOECO (Nhật Bản)
và PTTEP (Thái Lan))
|
|
|
2021
|
6.3
|
Dự án NMĐ sử dụng khí Lô B (**)
|
Dự án NMĐ Ô Môn II do Tổ hợp
gồm Tổng công ty cổ phần Thương mại Xây dựng (Vietracimex) và Tập đoàn
Marubeni (Nhật Bản) làm chủ đầu tư
|
2016
|
2026
|
|
Dự án NMĐ Ô Môn III trước đây
giao EVN làm chủ đầu tư, hiện được chuyển cho PVN làm Chủ đầu tư
|
2015
|
2020
|
|
- Các Dự án NMĐ Ô Môn IV trước
đây giao EVN làm chủ đầu tư, hiện được chuyển cho PVN làm Chủ đầu tư
|
2016
|
2021
|
|
7.
|
Chuỗi dự án khí - điện Cá Voi
Xanh(*)
|
|
|
|
7.1
|
Dự án Phát triển mỏ khí Cá
Voi Xanh (*)
|
PVN, ExxonMobil (Người điều
hành), PVEP
|
|
|
2021 - 2025
|
7.2
|
Các Dự án NMĐ sử dụng khí Cá
Voi Xanh (*)
|
Các NMĐ Miền Trung I do PVN
làm Chủ đầu tư
|
|
2023
|
|
NMĐ Miền Trung II do PVN làm Chủ
đầu tư
|
|
2024
|
|
NMĐ Dung Quất I do EVN làm chủ
đầu tư
|
|
2023
|
|
NMĐ Dung Quất II do Sembcorp
làm Chủ đầu tư (theo hình thức BOT)
|
|
2024
|
|
NMĐ Dung Quất III do EVN làm
chủ đầu tư
|
|
2026
|
|
8.
|
Dự án Kho LNG Sơn Mỹ(**)
|
Công ty TNHH Kho cảng LNG Sơn
Mỹ (Liên doanh giữa Tổng công ty Khí Việt Nam - CTCP (PVGas) và Công ty đầu
tư AES (Hà Lan)).
|
|
|
2023 - 2025
|
9.
|
Dự án Trung tâm điện lực Sơn
Mỹ (**)
|
Dự án NMĐ TBKHH Sơn Mỹ I do Tổ
hợp Nhà đầu tư gồm: EDF (Pháp)/Sojitz (Nhật Bản)/Kyushu (Nhật Bản)/Tập đoàn
Thái Bình Dương (Việt Nam) đầu tư
|
2018 - 2019
|
2026 - 2028
|
|
Dự án NMĐ TBKHH Sơn Mỹ II do
AES (Hoa Kỳ) đầu tư
|
2021
|
2023 - 2025
|
|
10.
|
Dự án Nâng cấp, mở rộng Nhà
máy lọc dầu Dung Quất (**)
|
Công ty cổ phần lọc hóa dầu
Bình Sơn
|
|
|
2021 - 2022
|
11.
|
Dự án Nhà máy nhiệt điện Long
Phú 1
|
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
|
2015
|
2018
|
|
12.
|
Dự án điện Na Dương II
|
Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Nam
|
2018
|
2019
|
|
13.
|
Dự án nhà máy thủy điện Hòa
Bình mở rộng (**)
|
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
|
|
2021 - 2022
|
|
14.
|
Dự án thủy điện Hồi Xuân
(Thanh Hóa) (Dự án IPP) (**)
|
Từ năm 2007, Tổng công ty Cổ
phần Xây dựng điện Việt Nam được thống nhất chủ trương đầu tư xây dựng Dự án;
Năm 2008, Dự án được chuyển giao cho Chủ đầu tư mới là Công ty Cổ phần Đầu tư
và Xây dựng điện Hồi Xuân VNECO. Dự án đã được cấp Giấy Chứng nhận đăng ký lần
đầu năm 2014 và được Chính phủ bảo lãnh khoản vay thương mại 125 triệu USD từ
ngân hàng Goldman Sachs (Hoa Kỳ)
|
2016
|
2018
|
|
15.
|
Dự án thủy điện IALY mở rộng (**)
|
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
|
|
2020
|
|
16.
|
Nhiệt điện Vũng Áng II (Dự án
BOT) (**)
|
Công ty TNHH Nhiệt điện Vũng
Áng II (VAPCO)
|
2018 - 2019
|
2021 - 2022
|
|
17.
|
Nhiệt điện Quảng Trạch I (**)
|
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
|
2018 - 2019
|
2021 - 2022
|
|
18.
|
Nhiệt điện An Khánh, Bắc
Giang (Dự án IPP) (**)
|
Công ty CP nhiệt điện An
Khánh - Bắc Giang
|
2015 - 2018
|
2022 - 2023
|
|
19.
|
Dự án Nhà máy điện Nhơn Trạch
3 & 4 (**)
|
Tổng công ty Điện lực Dầu khí
Việt Nam (PV Power)
|
|
2020 - 2021
|
|
II
|
TỔNG HỢP THEO KẾT QUẢ KHẢO
SÁT THỰC TẾ CỦA ĐOÀN GIÁM SÁT
|
20.
|
Dự án Nhà máy Điện khí LNG Bạc
Liêu
|
Công ty Delta Offshore Energy
Pte. Ltd (DOE) là chủ đầu tư và Tập đoàn Bechtel (Hoa Kỳ)
|
|
2024 - 2027
|
|
21.
|
Tổng kho xăng dầu Phú Xuân -
Nhà Bè
|
Công ty cổ phần Kho cảng xăng
dầu hàng không Miền Nam
|
|
|
2017 - 2025
|
__________________________
(*) Các dự án này đều được chuyển
tiếp sang Quy hoạch điện VIII.
(**) Thuộc Danh mục 13
dự án, chuỗi dự án trọng điểm trong lĩnh vực điện, than, dầu khí chậm tiến độ
giai đoạn 2016 - 2021 ban hành kèm theo Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc hội về đẩy
mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí.