CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 46/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 31
tháng 3 năm 2023
|
NGHỊ QUYẾT
PHIÊN
HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THÁNG 3 NĂM 2023
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức
Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP
ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
Trên cơ sở thảo luận của các thành viên Chính phủ
và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật,
tổ chức ngày 27 tháng 03 năm 2023,
QUYẾT NGHỊ:
Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí
thư, Bộ Chính trị, sự đồng hành của các cơ quan của Quốc hội, nỗ lực của các bộ,
ngành, địa phương, Chính phủ đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng để thực hiện
các đột phá chiến lược theo Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII, trong đó có
đột phá chiến lược về xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật.
Chính phủ đánh giá cao các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã
triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, pháp luật,
đề xuất nhiều nội dung quan trọng, khó, phức tạp, cấp bách, nhạy cảm để tháo gỡ
các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Từ đầu
năm 2023 đến nay, Chính phủ đã tổ chức các Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật
để cho ý kiến, thông qua nhiều đề nghị xây dựng luật, dự án Luật, dự thảo Nghị
quyết để trình Quốc hội cho ý kiến trong năm 2023 và thời gian tiếp theo.
Trong thời gian tới, công tác xây dựng pháp luật cần
hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định
chưa phù hợp, cần tháo gỡ các nút thắt, điểm nghẽn, tăng cường thực hiện nhiệm
vụ lập pháp của Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất để hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý, tạo động lực, nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội trong
nhiều ngành, lĩnh vực, có nhiều đột phá về thể chế để sửa đổi các quy định chưa
phù hợp nhằm tháo gỡ vướng mắc, bổ sung các quy định về các vấn đề mới. Với thời
gian chuẩn bị gấp rút, khối lượng công việc lớn, yêu cầu cao về thủ tục và chất
lượng để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, tháng 5 năm 2023, yêu cầu Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cần tập trung chỉ đạo việc hoàn thiện các hồ sơ văn
bản theo quy định của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và Quy chế làm việc của Chính phủ và chỉ đạo của các cấp có
thẩm quyền.
Các bộ, cơ quan cần phối hợp chặt chẽ, gửi văn bản
góp ý kịp thời, có trách nhiệm, trao đổi kỹ lưỡng về các vấn đề còn ý kiến khác
nhau để nâng cao chất lượng dự thảo văn bản khi trình cấp có thẩm quyền. Các cơ
quan soạn thảo tiếp tục lấy ý kiến đối tượng chịu sự điều chỉnh, các nhà khoa học,
chuyên gia, nhà hoạt động thực tiễn để lắng nghe, phối hợp chặt chẽ với các bộ,
cơ quan liên quan, các cơ quan của Quốc hội nghiên cứu tiếp thu, trên tinh thần
không cầu toàn, không nóng vội, những vấn đề đã chín, đã rõ, đã được thực tiễn
chứng minh là đúng thì thể chế hóa; các vấn đề mới, nếu cần thì thí điểm thì báo
cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trước và trong quá trình soạn thảo
văn bản, trình cấp có thẩm quyền quyết định, cần chủ động phối hợp với các cơ
quan báo chí để đẩy mạnh truyền thông chính sách, làm rõ nội dung, lý do các đề
xuất chính sách đến người dân, góp phần tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng
và thi hành pháp luật.
Các bộ, cơ quan, địa phương cần tiếp tục thực hiện
cải cách thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách
nhiệm, tăng cường giám sát, kiểm tra, phối hợp để hoàn thiện khung pháp lý phục
vụ đời sống Nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các bộ, cơ
quan cần triển khai các giải pháp đồng bộ, quyết liệt đáp ứng các yêu cầu về
công tác xây dựng pháp luật: phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, tránh lợi ích cục
bộ, vì lợi ích chung của quốc gia, công khai, minh bạch, hội nhập, bền vững kiện
toàn đội ngũ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác pháp chế, bố
trí kinh phí, nguồn lực để hỗ trợ công tác này.
Để chuẩn bị cho Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật
này, các Bộ, cơ quan: Công an, Ngân hàng Nhà nước, Kế hoạch và Đầu tư, Ngoại
giao đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên chủ động xây dựng các đề nghị
xây dựng Luật, dự án Luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội gồm: Dự án Luật
căn cước công dân (sửa đổi); Dự án Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi); Đề nghị
xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của
công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam; Dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong đầu tư xây dựng công trình giao thông; Dự thảo
Nghị quyết về một số chính sách mới trong lĩnh vực quản lý nhập cảnh, xuất cảnh,
quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
Chính phủ quyết nghị các nội dung cụ thể như sau:
1. Về dự án Luật Căn cước công
dân (sửa đổi):
Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật nhằm quán
triệt và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng; kế thừa các quy định còn
phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế của Luật Căn cước công dân năm 2014; tiếp tục đơn giản
hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện
nay và thời gian tới; tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân trong các giao dịch phục vụ đời sống, phát triển kinh tế, xã hội, góp
phần thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ số, xã hội số.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan
liên quan khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án Luật như sau:
- Về tên gọi của Luật: Thống nhất đổi tên Luật Căn
cước công dân thành Luật Căn cước.
- Về thu thập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, khai thác
và sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước (Điều 17 dự thảo Luật): Thống
nhất giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.
- Về cấp căn cước công dân cho người dưới 14 tuổi
(Điều 20 dự thảo Luật); về tích hợp thông tin (Điều 23 dự thảo Luật); về quy định
chuyển tiếp (Điều 46 dự thảo Luật); ... cần tiếp tục đánh giá tác động, rà
soát, nghiên cứu kỹ, bảo đảm khả thi, tránh gây xung đột với pháp luật liên
quan. Quy định trong luật những nội dung có tính ổn định, thống nhất cao; những
nội dung mới, còn biến động thì giao Chính phủ quy định bảo đảm linh hoạt trong
điều hành và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Tiếp tục rà soát
các điều ước quốc tế liên quan để có quy định phù hợp với đặc điểm, điều kiện của
Việt Nam và sự phát triển của công nghệ trên nguyên tắc tạo thuận lợi tối đa
cho người dân khi sử dụng căn cước trong các giao dịch; bảo đảm bí mật đời tư,
bí mật cá nhân theo quy định của Hiến pháp.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các
Thành viên Chính phủ, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, ý kiến của Văn phòng
Chính phủ, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo quy định. Giao Bộ trưởng Bộ Công an
thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội dự án Luật Căn cước.
2. Về dự án Luật Các tổ chức
tín dụng (sửa đổi):
Chính phủ đánh giá cao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
trong việc chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng dự án Luật
Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối Đảng về
hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực ngân hàng tại Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết số 27-NQ/TW
ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn mới; bám sát, thể hiện được các nội dung, yêu cầu của Quốc hội tại Nghị
quyết số 31/2021/QH15 ngày 21 tháng 11 năm
2021 về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Nghị quyết số 63/2022/QH15 về nội dung Kỳ họp thứ 3; các định
hướng của Chính phủ tại Nghị quyết số 50/NQ-CP
ngày 20 tháng 5 năm 2021 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; các chính sách đã được
Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 03/NQ-CP
ngày 06 tháng 01 năm 2023 về Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 12
năm 2022; cụ thể các định hướng, chiến lược tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08 tháng 8 năm 2018 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030, Quyết định số 149/QĐ-TTg
ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược tài
chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08 tháng 6 năm 2022 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử
lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”.
Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung dự án Luật
Các tổ chức tín dụng (sửa đổi); giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan liên
quan nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm các yêu cầu sau:
- Việc xây dựng dự án Luật này phải thể chế hóa đầy
đủ chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực ngân
hàng và các yêu cầu, định hướng, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ tại các văn bản nêu trên.
- Nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến của
các Thành viên Chính phủ, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Đặt lợi ích chung của đất nước là mục tiêu của việc
xây dựng dự án Luật này; các quy định của Luật phải khắc phục được các vướng mắc
trong quá trình thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng
hiện hành, góp phần khơi thông nguồn tài chính phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội, xử lý vấn đề sở hữu chéo, góp phần phòng, chống các hành vi tham nhũng,
tiêu cực trong lĩnh vực ngân hàng.
- Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân
hàng; nâng cao vai trò của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Thống đốc Ngân hàng nhà
nước Việt Nam trong tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng; tăng cường kiểm
tra, thanh tra, giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề tiêu cực, vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng.
- Tiếp tục hoàn thiện Báo cáo tổng kết thi hành Nghị
quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử
lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, xác định rõ vấn đề khó khăn, bất cập và
nguyên nhân để đề xuất giải pháp hiệu lực, hiệu quả khắc phục các khó khăn, bất
cập đó.
- Xây dựng các quy định về thứ tự ưu tiên thanh
toán, thu giữ tài sản bảo đảm phù hợp với Hiến
pháp, pháp luật và thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng; quy định
rõ thẩm quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc quyết định
việc cho vay đặc biệt, không quy định việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết
định nội dung này để phù hợp với tinh thần tăng cường vai trò, nâng cao trách
nhiệm của Thành viên Chính phủ tại Nghị quyết số 27-NQ/TW
ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Ban chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới;
hoàn thiện các quy định liên quan đến tổ chức, quản trị, điều hành của tổ chức
tín dụng nhằm nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng,
ngăn ngừa tình trạng sở hữu chéo, thao túng, chi phối.
- Nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về thanh tra,
giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ trong lĩnh vực
ngân hàng, bảo đảm tính khả thi và tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
- Tiếp tục lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học,
các tổ chức, cá nhân liên quan để hoàn thiện dự án Luật này theo quy định.
Giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thừa ủy
quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ ký trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái chỉ đạo việc xây dựng,
hoàn thiện dự án Luật này.
3. Về Đề nghị xây dựng Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và
Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam:
Thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu sửa đổi, bổ
sung Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt
Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh,
cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng,
khắc phục những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành 02 luật này; tạo cơ
sở pháp lý để thúc đẩy cải cách hành chính, phân cấp giải quyết thủ tục hành
chính, thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; tạo thuận lợi cho
người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chính phủ cơ bản thống nhất với chủ trương xây dựng
01 luật sửa đổi, bổ sung 02 luật nêu trên để báo cáo Quốc hội thông qua tại Kỳ
họp thứ 6 (tháng 10 năm 2023) theo quy trình 01 kỳ họp. Giao Bộ Công an chủ
trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp
thu ý kiến của Thành viên Chính phủ về 04 chính sách; hoàn thiện hồ sơ Đề nghị
xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; trình Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ
thường kỳ tháng 3 (dự kiến ngày 03 tháng 4 năm 2023).
4. Về Dự thảo Nghị quyết về thí
điểm một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong đầu tư xây dựng
công trình giao thông:
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương tham gia ý
kiến đối với hồ sơ trình và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số
cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong đầu tư xây dựng công trình
giao thông (dự thảo Nghị quyết), gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 01
tháng 4 năm 2023.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, tiếp thu các ý kiến
tham gia của các Bộ, cơ quan, địa phương, các ý kiến phát biểu, thảo luận tại
phiên họp Chính phủ chuyên đề pháp luật tháng 3 năm 2023 để hoàn thiện hồ sơ về
dự thảo Nghị quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, bảo đảm
chặt chẽ, thuyết phục, rõ ràng, mạch lạc, trong đó lưu ý: (1) Bổ sung vào phần
căn cứ chính trị Kết luận số 20-KL/TW ngày 16 tháng 10 năm 2021 của Ban Chấp
hành Trung ương về kinh tế - xã hội năm 2021 - 2022, trong đó có yêu cầu về lấy
đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội; (2) Nghiên cứu đề xuất
chính sách theo hướng không tính chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP; (3) Bổ sung nguyên tắc giao cơ quan quản
lý sau đầu tư đối với dự án liên vùng; (4) Khẩn trương gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp
để thẩm định trước ngày 04 tháng 4 năm 2023; trên cơ sở đó, tiếp thu, hoàn thiện,
trình Chính phủ trước ngày 06 tháng 4 năm 2023 để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Quốc hội theo quy định.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên
quan khẩn trương thẩm định hồ sơ trình về dự thảo Nghị quyết theo đề nghị của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư; báo cáo Chính phủ trước ngày 06 tháng 4 năm 2023 để báo cáo
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội cho phép bổ sung dự thảo Nghị quyết vào
Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2023 của Quốc hội; trong đó đề xuất Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội cho phép xây dựng và ban hành Nghị quyết theo
trình tự, thủ tục rút gọn.
5. Về dự thảo Nghị quyết về một
số chính sách mới trong lĩnh vực quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú
của người nước ngoài tại Việt Nam
Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ
Tư pháp hoàn thiện thủ tục theo quy định pháp luật để Chính phủ trình Quốc hội
xem xét đưa vào Nghị quyết chung của Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2023) một
số chính sách mới trong lĩnh vực quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú
của người nước ngoài tại Việt Nam về 03 chính sách như sau: (1) Thực hiện chủ
trương cấp thị thực điện tử cho công dân tất cả các nước, vùng lãnh thổ. Giao
Chính phủ quyết định danh sách cụ thể các nước, vùng lãnh thổ trên cơ sở có đi
có lại, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và phát
triển kinh tế, xã hội của Việt Nam; (2) Nâng thời hạn thị thực điện tử từ không
quá 30 ngày lên không quá 03 tháng, có giá trị một lần hoặc nhiều lần; (3) Nâng
thời hạn cấp chứng nhận tạm trú tại cửa khẩu cho người nhập cảnh theo diện đơn
phương miễn thị thực từ 15 ngày lên 45 ngày. Giao Bộ trưởng Bộ Công an ký Tờ
trình của Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 về nội dung trên./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN,
Trợ lý, Thư ký TTg, các PTTg;
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc,
TGĐ Cổng TTĐTCP;
- Lưu: VT, PL (3b).
|
TM. CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Trần Lưu Quang
|