NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THÁNG 12 NĂM 2023
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức
Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính
phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
Trên cơ sở thảo luận của
các thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp
chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 12 năm 2023, tổ chức ngày 26 tháng 12 năm
2023,
QUYẾT NGHỊ:
Công tác xây dựng pháp luật
của Chính phủ năm 2023 đã đạt được kết quả quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; rà soát, sửa đổi, bổ sung
kịp thời các cơ chế chính sách, quy định pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn,
thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong thực hiện đột phá về xây dựng, hoàn thiện
thể chế. Năm 2023, Chính phủ đã tổ chức 10 phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật,
cho ý kiến được 49 nội dung quan trọng, trong đó có 23 Đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh; 14 dự án Luật; tiếp thu ý kiến Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối
với 03 dự án luật và 9 nội dung khác. Chính phủ đã ban hành 90 nghị định, 222
nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 33 quyết định quy phạm pháp luật; tổ
chức rà soát khối lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị quyết 101 của
Quốc hội (22 lĩnh vực trọng tâm và trên 500 văn bản) góp phần tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội, được
Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao. Tiến độ xây dựng các dự án được bảo đảm, chất
lượng các dự án được nâng lên.
Để đạt được kết quả nêu
trên, Chính phủ, các bộ, ngành đã nỗ lực, cố gắng rất lớn trong năm 2023. Tuy
nhiên, công tác xây dựng thể chế, pháp luật cần tiếp tục được coi trọng, đổi mới
và dành nhiều nguồn lực hơn nữa. Trong thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các bộ,
ngành, địa phương tiếp tục tập trung vào các nội dung: (1) Tăng cường vai trò
người đứng đầu, bộ trưởng, trưởng ngành trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng và
hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực quản lý; (2) Tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng chính sách, bảo đảm tiến độ, chất
lượng xây dựng, trình dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; (3) Tiếp tục
rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật, nâng cao năng lực phản ứng
chính sách trong bối cảnh tình hình mới, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng,
phát triển; (4) Đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất cho công tác thể chế; (5) Bổ
sung, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm công tác pháp chế; có chế độ, chính
sách ưu đãi phù hợp; (6) Rà soát, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính cho người
dân, doanh nghiệp; giảm tối đa chi phí đầu vào để tăng tính cạnh tranh; (7) Tập
trung phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, tăng cường năng lực cấp
dưới, thiết kế công cụ kiểm tra, giám sát; (8) Chú trọng, tăng cường cho công
tác xây dựng, ban hành, trình ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành
luật, pháp lệnh, không để xảy ra tình trạng nợ ban hành văn bản quy phạm pháp
luật; (9) Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan; phối hợp chặt chẽ,
chia sẻ, lắng nghe ý kiến của các cơ quan, Ủy ban của Quốc hội, báo cáo Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và Quốc hội; lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học,
người làm công tác thực tiễn, ý kiến của nhân dân và tiếp thu, chắt lọc kinh
nghiệm quốc tế áp dụng phù hợp vào điều kiện, hoàn cảnh đất nước; (10) Bộ Tư
pháp đẩy nhanh tiến độ tổng kết, đề xuất sửa đổi Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đổi mới, đơn giản hóa quy
trình xây dựng pháp luật; tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn
lực, cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng pháp luật; ...
Tại Phiên họp chuyên đề
xây dựng pháp luật tháng 12 năm 2023, Chính phủ đã dành nhiều thời gian thảo luận,
xem xét, cho ý kiến đối với 07 đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và 02 dự thảo
luật: (1) Đề nghị xây dựng Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; (2) Đề
nghị xây dựng Luật Dẫn độ; (3) Đề nghị xây dựng Luật Chuyển giao người đang chấp
hành án phạt tù; (4) Đề nghị xây dựng Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình
của Liên hợp quốc; (5) Đề nghị xây dựng Pháp lệnh Quản lý, bảo vệ Khu Di tích
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; (6) Đề nghị xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự;
(7) Đề nghị xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị; (8) Tiếp thu, chỉnh lý,
hoàn thiện dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi); (9) Tiếp thu, chỉnh lý,
hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
Chính phủ đánh giá cao
các Bộ: Công an, Quốc phòng, Tư pháp, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc chuẩn bị, trình Chính phủ các dự án luật,
đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ đã thực hiện
nghiêm túc vai trò của cơ quan thẩm định, thẩm tra, có ý kiến tham mưu độc lập,
chất lượng; các Thành viên Chính phủ có nhiều ý kiến tâm huyết, với tinh thần
trách nhiệm cao.
Chính phủ quyết nghị các
nội dung cụ thể như sau:
1. Về
Đề nghị xây dựng Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Thường trực Chính phủ
đánh giá cao Bộ Công an đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập
Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật
nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy[1];
đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác bảo đảm an ninh, trật tự; bảo vệ tính mạng,
sức khỏe con người, tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân; tạo môi
trường an toàn phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế;
tạo cơ sở pháp lý đầy đủ trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy, hoạt động cứu nạn,
cứu hộ; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật; khắc phục hạn
chế, vướng mắc, bất cập trong thời gian qua.
Cơ bản thống nhất 05
chính sách của Đề nghị xây dựng Luật, Bộ Công an nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
Chính phủ, ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện bảo đảm yêu cầu sau:
- Tiếp tục tổng kết Luật
và các quy định có liên quan về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; kế thừa
những quy định đã được thực tế chứng minh, áp dụng có hiệu quả; bổ sung các quy
định để xử lý những bất cập, vướng mắc phát sinh trên thực tiễn; bảo đảm tính đồng
bộ, thống nhất với các quy định pháp luật có liên quan như: Luật Xây dựng, Luật
Phòng thủ dân sự, Luật Đầu tư, Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ
sở và các văn bản về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan, lực
lượng có liên quan,...; bảo đảm không chồng chéo, phát sinh bộ máy, biên chế;
làm rõ phạm vi cứu nạn, cứu hộ trong Luật này.
- Tiếp tục rà soát,
nghiên cứu cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính hơn nữa; phân cấp, phân
quyền tối đa cho địa phương quản lý, thực hiện và chịu trách nhiệm về công tác
phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn, đồng thời có quy định về xử lý thủ tục hành
chính trên môi trường mạng, chuyển đổi số; phân định rõ chức năng quản lý nhà
nước với lĩnh vực xã hội hóa;
- Rà soát, nghiên cứu,
quy định về hoạt động thẩm định trong Luật này đồng bộ với hoạt động thẩm định
trong lĩnh vực xây dựng bảo đảm thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Nghiên cứu,
quy định tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư trong phòng cháy, chữa cháy; rà
soát, nghiên cứu quy chuẩn phòng cháy, chữa cháy bảo đảm khả thi, trong đó cho
phép áp dụng quy chuẩn nước ngoài cho phù hợp.
- Tiếp tục rà soát, phân
loại các nhóm công trình, cơ sở đang tồn tại mà có khó khăn, vướng mắc, vi phạm,
thiếu sót sau kiểm tra để có quy định chuyển tiếp trong Luật và giao cơ quan có
thẩm quyền ban hành giải pháp tháo gỡ, khắc phục trong thời gian tới.
Bộ Công an chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ
sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp, bổ sung dự án Luật này vào
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 của Quốc hội (trình Quốc hội cho
ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 và thông qua tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV) theo
quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
2. Về
Đề nghị xây dựng Luật Dẫn độ:
Chính phủ đánh giá cao Bộ
Công an đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập Đề nghị xây dựng
Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật nhằm thể chế
hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về hoàn thiện pháp
luật về dẫn độ; bảo đảm đồng bộ, hiện đại, khả thi, phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế; thúc đẩy hợp tác quốc tế về dẫn độ, nâng cao hiệu quả truy bắt
các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn ra nước ngoài; bảo vệ sự tôn
nghiêm của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
cũng như góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực dẫn
độ.
Cơ bản thống nhất 03
chính sách của Đề nghị xây dựng Luật, Bộ Công an nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
Chính phủ, ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện bảo đảm yêu cầu sau:
- Rà soát, chỉnh lý tên gọi
của các chính sách để thể hiện rõ nội hàm, mục tiêu, nội dung của Chính sách.
Tiếp tục đánh giá, làm rõ nội dung “Cam kết không thi hành hình phạt tử hình nếu
người bị yêu cầu dẫn độ bị kết án tử hình và có đơn xin ân giảm hình phạt tử
hình lên Chủ tịch nước” bảo đảm vừa thể hiện pháp luật Việt Nam có quy định về
hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trong hợp tác quốc tế về dẫn độ, vừa bảo
đảm tuân thủ trình tự, thủ tục, điều kiện của pháp luật các bên theo nguyên tắc
có đi, có lại; bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
- Tiếp tục rà soát Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Công an nhân dân, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, các quy định pháp
luật khác liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ, đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sự phối hợp của
các cơ quan có liên quan trong hoạt động dẫn độ.
Bộ Công an chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ
sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp vào Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2025 của Quốc hội (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 và
thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Về
Đề nghị xây dựng Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù:
Chính phủ đánh giá cao Bộ
Công an đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập Đề nghị xây dựng
Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật nhằm hoàn thiện
pháp luật về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù theo hướng nhân đạo, đầy
đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, ổn định, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong chuyển
giao người đang chấp hành án phạt tù; giúp bảo đảm tốt hơn quyền tái hòa nhập cộng
đồng của người đang chấp hành án phạt tù; tạo nền tảng cho việc ký kết và thực
hiện các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này.
Cơ bản thống nhất 03
chính sách của Đề nghị xây dựng Luật, Bộ Công an nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
Chính phủ, ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện bảo đảm yêu cầu sau:
- Thể chế hóa đầy đủ, đồng
bộ các quy định của Hiến pháp về quyền con
người, quyền công dân. Tiếp tục tổng kết Luật và các quy định có liên quan về
chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; kế thừa những quy định đã được thực
tế chứng minh, áp dụng có hiệu quả; bổ sung các quy định để xử lý những bất cập,
vướng mắc phát sinh trên thực tiễn; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các
quy định pháp luật có liên quan; bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
- Rà soát, chỉnh lý tên gọi
của các chính sách để thể hiện rõ nội hàm, mục tiêu, nội dung của các chính
sách.
- Tiếp tục rà soát Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Công an nhân dân, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, các quy định
pháp luật khác liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để bảo
đảm đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan
có liên quan trong hoạt động chuyển giao người chấp hành án phạt tù.
Bộ Công an chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ
sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp vào Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2025 của Quốc hội (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 và
thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
4. Về
Đề nghị xây dựng Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc:
Chính phủ đánh giá cao Bộ
Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập Đề nghị xây dựng
Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Thống nhất với mục tiêu xây dựng Luật để thể chế hóa chủ
trương của Đảng[2], của Hiến
pháp về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc,
góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới; trên cơ sở thực tiễn triển
khai tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc thời gian qua, luật
hóa các quy định hiện hành phù hợp, đồng thời sửa đổi, bổ sung các quy định cho
phù hợp thực tiễn của hoạt động này.
Cơ bản thống nhất 03
chính sách của Đề nghị xây dựng Luật, Bộ Quốc phòng nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
Chính phủ, ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện bảo đảm yêu cầu sau:
- Tiếp tục nghiên cứu,
làm sâu sắc thêm cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn; tổng kết các
quy định pháp luật liên quan, xác định các vấn đề bất cập, hạn chế, lấy ý kiến
các chuyên gia, nhà khoa học để đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp;
tăng cường phân cấp, phân quyền trong thực hiện các nhiệm vụ; cần bảo đảm tính
thống nhất về lực lượng, về chỉ đạo, chỉ huy trong quá trình Việt Nam tham gia
hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
- Không quy định trong Luật
nội dung thành lập “Ban Chỉ đạo quốc gia về tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình
Liên hợp quốc”.
- Cụ thể hóa nội dung
chính sách “Quy định cụ thể rút lực lượng Việt Nam triển khai tại địa bàn về nước
trong trường hợp khẩn cấp” bảo đảm tăng cường phân cấp, phân quyền, điều hành
linh hoạt, kịp thời và phù hợp về thẩm quyền của Hội đồng Quốc phòng và An
ninh, của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp và Luật
Tổ chức Chính phủ.
Bộ Quốc phòng chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ
sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp vào Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2025 của Quốc hội (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 và
thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV) theo quy định của Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật.
5. Về
Đề nghị xây dựng Pháp lệnh Quản lý, bảo vệ Khu Di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh:
Chính phủ đánh giá cao Bộ
Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập Đề nghị xây dựng
Pháp lệnh theo đúng quy định của Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Pháp lệnh
nhằm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối
thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và quản lý, bảo vệ Khu Di tích Lăng, tạo cơ sở
pháp lý cho thực hiện công tác này đạt hiệu quả tốt nhất.
Cơ bản thống nhất 04
chính sách của Đề nghị xây dựng Pháp lệnh, Bộ Quốc phòng nghiên cứu, tiếp thu ý
kiến Chính phủ, ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện bảo đảm yêu cầu
sau:
- Tiếp tục nghiên cứu làm
rõ hơn cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn của sự cần thiết xây dựng Pháp lệnh.
Tổng kết các quy định pháp luật có liên quan, lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học;
người làm công tác thực tiễn; kế thừa những quy định đã được thực tế chứng
minh, áp dụng có hiệu quả, sửa đổi, bổ sung các quy định để xử lý những bất cập
trên thực tiễn; đánh giá tác động chính sách một cách kỹ lưỡng, bảo đảm chính
sách được đưa ra là khả thi, hiệu quả và phát huy được giá trị Khu Di tích.
- Nghiên cứu tổ chức, quản
lý bảo vệ Khu Di tích Lăng theo hướng tập trung, thống nhất, tinh gọn đầu mối
quản lý, tránh chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan.
- Bảo đảm tính đồng bộ,
thống nhất với các quy định pháp luật có liên quan như: Pháp lệnh Bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến
an ninh quốc gia, Luật Quản lý, bảo vệ công
trình quốc phòng và khu quân sự, Luật Khoa học
và Công nghệ, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu và các văn bản về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy của các bộ, ngành có liên quan...
Bộ Quốc phòng chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ
sơ Đề nghị xây dựng Pháp lệnh, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp, bổ sung vào Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 (trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý
kiến vào tháng 7 năm 2024 và thông qua vào tháng 12 năm 2024) theo quy định của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
6. Về
Đề nghị xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự:
Chính phủ đánh giá cao Bộ
Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập Đề nghị xây dựng
Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật nhằm hoàn
thiện pháp luật Tương trợ tư pháp về dân sự theo hướng hiện đại, khả thi, thúc
đẩy hợp tác quốc tế, hỗ trợ quy trình giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài và vụ án hành chính được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả; giúp bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan, tăng cường khả
năng thực hiện quyền tiếp cận công lý của người dân; tạo nền tảng cho việc ký kết
và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.
Cơ bản thống nhất 03
chính sách của Đề nghị xây dựng Luật, Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
Chính phủ, ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện bảo đảm yêu cầu sau:
- Thể chế hóa đầy đủ, đồng
bộ các quy định của Hiến pháp về quyền con
người, quyền công dân. Rà soát, kế thừa những quy định đã được thực tế chứng
minh, áp dụng có hiệu quả; bổ sung các quy định để xử lý những bất cập, vướng mắc
phát sinh trên thực tiễn; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định
pháp luật có liên quan, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
- Tiếp tục rà soát Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, các quy định
pháp luật liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để bảo đảm
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan có
liên quan trong hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối
hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ Đề nghị
xây dựng Luật; tổng hợp vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025 của
Quốc hội (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 và thông qua tại Kỳ họp thứ
10 Quốc hội khóa XV) theo quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
7. Về
Đề nghị xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị
Chính phủ đánh giá cao Bộ
Xây dựng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan lập Đề nghị xây dựng
Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật nhằm thể
chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
phát triển đô thị[3]; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về quản lý
phát triển đô thị ở Việt Nam hiện nay; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống
pháp luật và tính khả thi trong quản lý phát triển đô thị.
Về 05 chính sách trong Đề
nghị xây dựng Luật theo đề xuất của Bộ Xây dựng tại Tờ trình số 56/TTr-BXD ngày
15 tháng 12 năm 2023, Chính phủ cơ bản thống nhất việc ban hành các chính sách
nhằm quản lý phát triển đô thị, cải tạo, chỉnh trang, tái phát triển đô thị; quản
lý phát triển hạ tầng đô thị đồng bộ, không gian ngầm đô thị; tăng cường hiệu lực,
hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về phát triển đô thị, bảo đảm đô thị
phát triển bền vững theo các mô hình đô thị hiện đại, phù hợp với quy hoạch đô
thị, phát huy tối đa giá trị của đô thị trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội -
an ninh - quốc phòng..., góp phần quan trọng vào quá trình phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
Để tiếp tục hoàn thiện
các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị và hồ sơ Đề
nghị xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị, Chính phủ giao Bộ Xây dựng chủ
trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan liên quan
nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến của Thành viên Chính phủ, chỉnh lý, hoàn thiện
hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo yêu cầu sau:
- Tiếp tục tổng kết các
quy định pháp luật về quản lý phát triển đô thị; làm rõ những vướng mắc, bất cập
phát sinh trong thực tiễn để đề xuất các chính sách phù hợp, bảo đảm thể chế
hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về quản lý
phát triển đô thị;
- Rà soát để xác định rõ
phạm vi điều chỉnh, nội dung chính sách và các giải pháp thực hiện trong Đề nghị
xây dựng Luật, bảo đảm hướng tiếp cận tổng thể, toàn diện về quản lý sự phát
triển đô thị, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật Quy hoạch, Luật
Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật
Bảo vệ môi trường, Luật Thủ đô, Luật Đất đai, Luật
Nhà ở, dự án Luật Đường bộ, dự án Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, các
Luật, dự án Luật khác có liên quan.
- Nghiên cứu, chỉnh lý
tên gọi, nội dung, giải pháp thực hiện chính sách, Đề cương chi tiết Luật, bảo
đảm sự thống nhất về đường lối, định hướng của Chính phủ khi xây dựng Luật này.
Nội dung và giải pháp thực hiện chính sách phải thể hiện rõ chủ trương tăng cường
phân cấp, phân quyền, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý
phát triển đô thị; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số; đổi mới
cách thức quản lý, kiểm tra, giám sát để hạn chế tối đa thủ tục hành chính, bảo
đảm thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
- Thuyết minh rõ nội dung
cụ thể của từng chính sách, ý nghĩa về xã hội, kinh tế, pháp luật khi ban hành
các chính sách và có minh chứng cụ thể về sự cần thiết xây dựng Luật này theo từng
nội dung chính sách, như: phân loại đô thị, đánh giá đô thị, mô hình đô thị;
yêu cầu tuân thủ khi xây dựng đô thị mới, cải tạo, chỉnh trang đô thị, mối liên
kết giữa các đô thị để hình thành hệ thống đô thị xanh, hiện đại và bền vững.
- Đánh giá tác động chính
sách một cách khoa học, đầy đủ theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo
đảm tính khả thi và hiệu quả; nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và tiếp
thu, vận dụng cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; tăng cường công tác truyền
thông để tạo sự đồng thuận cao đối với Đề nghị xây dựng Luật này; tham vấn các
chuyên gia, nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn để hoàn thiện hồ sơ Đề
nghị xây dựng Luật, bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn.
Bộ Xây dựng hoàn thiện hồ
sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp vào Đề nghị của Chính phủ về
Chương trình xây dựng luật năm 2025 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9
và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
8. Về
việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)
Chính phủ đánh giá cao
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước), Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ, các cơ quan liên quan đã tích cực phối hợp với các cơ quan của
Quốc hội nghiên cứu, giải trình, tiếp thu ý kiến Đại biểu Quốc hội, ý kiến của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật Các tổ chức
tín dụng (sửa đổi).
Chính phủ cơ bản thống nhất
với các nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật như đề xuất của
Ngân hàng Nhà nước tại Tờ trình số 166/TTr-NHNN ngày 21 tháng 12 năm 2023.
Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự thảo văn bản
ý kiến của Chính phủ đối với các nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) với các yêu cầu sau:
- Dự thảo Luật Các tổ chức
tín dụng (sửa đổi) phải bảo đảm có đủ cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động của
tổ chức tín dụng; bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của các tổ chức tín
dụng, phục vụ sự phát triển của đất nước.
- Các nội dung giải
trình, tiếp thu, chỉnh lý cần được phân tích sâu, thuyết phục, nêu rõ cơ sở
chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn của sự cần thiết ban hành các quy định
tại dự thảo Luật, tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thực tiễn
của các tổ chức tín dụng, ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, lợi dụng chính sách
của Nhà nước để tham nhũng, tiêu cực, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác; bảo đảm an ninh tiền tệ, lợi ích của quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức liên quan.
- Tăng cường vai trò quản
lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước trong việc kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm
công tác quản lý nhà nước, bảo đảm an ninh tiền tệ.
- Quy định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Ban kiểm soát trong các tổ chức tín dụng, bảo đảm tính
độc lập, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của Ban kiểm soát khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định.
Đối với các vấn đề cụ thể
được nêu tại Tờ trình số 166/TTr-NHNN của Ngân hàng Nhà nước:
- Chính phủ cơ bản thống
nhất với đề xuất của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước rà soát kỹ lưỡng để
bảo đảm đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, khả thi, có công cụ kiểm soát
chặt chẽ hoạt động của ngân hàng, phòng ngừa rủi ro và bảo đảm an toàn hệ thống
các tổ chức tín dụng, an ninh tài chính tiền tệ quốc gia, nhất là về các nội
dung: (1) Điều kiện, tiêu chí can thiệp sớm; (2) Cơ chế hỗ trợ áp dụng đối với
tổ chức tín dụng can thiệp sớm; (3) Kiểm soát đặc biệt; (4) Các trường hợp cho
vay đặc biệt; (5) Hạch toán giảm quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân
dân; (6) Việc cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm; (7) Chức năng thanh
tra, giám sát; (8) Xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản; (9) Quyền,
nghĩa vụ của người quản lý, người điều hành tổ chức tín dụng; (10) Yêu cầu, biện
pháp khác thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước khi thực hiện can thiệp sớm;
(11) Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình can thiệp sớm và kiểm
soát đặc biệt; (12) Chức năng thanh tra, giám sát; (13) Cung cấp số liệu liên
quan các trường hợp tổ chức tín dụng được can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt.
- Về các vấn đề: (1) Thẩm
quyền quy định phân loại nhóm nợ, xử lý rủi ro; (2) Thẩm quyền quyết định khoản
vay đặc biệt có lãi suất 0%/năm: Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, quy định tại dự
thảo Luật về thẩm quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định những nội
dung này do đây là vấn đề chuyên ngành, thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Về thẩm quyền quyết định
giới hạn cấp tín dụng: Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, quy định trong dự thảo Luật
theo hướng bảo đảm sự linh hoạt của Chính phủ trong quản lý, điều hành hoạt động
cấp tín dụng; quy định nguyên tắc trong dự thảo Luật, lộ trình cụ thể thực hiện
theo quy định của Chính phủ.
- Về các ý kiến khác của
Thành viên Chính phủ: Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, giải trình, tiếp thu đầy đủ,
bảo đảm việc quy định về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản trước thời
điểm Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) có hiệu lực, bảo đảm tính khả thi, thuận
lợi cho hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp và hoạt động tín dụng của
các tổ chức tín dụng; bỏ các Điều 188, 190 và 192 dự thảo Luật về xử lý tài sản
bảo đảm.
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư
pháp, các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục phối hợp với các cơ quan của Quốc hội
nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), báo
cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ngân hàng Nhà nước tiếp
thu ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện văn bản ý kiến của Chính phủ về việc
giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi);
Giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ
ký văn bản ý kiến của Chính phủ, gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế
của Quốc hội.
Phó Thủ tướng Lê Minh
Khái chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật này.
9. Về
việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi)
Dự án Luật Đất đai (sửa đổi)
đã được Chính phủ trình Quốc hội tại 03 Kỳ họp Quốc hội. Quốc hội đã cho ý kiến
tại Kỳ họp thứ 4, 5 và 6 (năm 2022, 2023). Chính phủ đã tiếp thu ý kiến Đại biểu
Quốc hội[4] theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Dự án Luật Đất đai (sửa đổi)
là dự án khó, phức tạp, có nhiều chính sách quan trọng, nhạy cảm, có nhiều ý kiến
khác nhau trong quá trình góp ý, hoàn thiện. Chính phủ đánh giá cao Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Kinh tế
và Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và các bộ, cơ quan có liên quan nghiêm túc tiếp
thu các ý kiến góp ý để hoàn thiện các phương án chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi). Bộ Tài nguyên và Môi trường đã báo cáo Chính phủ đầy đủ
quá trình phối hợp với các cơ quan của Quốc hội trong quá trình tiếp thu, chỉnh
lý, hoàn thiện dự thảo Luật theo Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại
Phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữa 2 Kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XV (tháng
11/2023)[5] và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ[6],
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà[7].
Giao Bộ Tài nguyên và Môi
trường tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai
(sửa đổi), thể chế hóa đầy đủ các đường lối, chủ trương của Đảng về các chính
sách có liên quan đến nội dung dự thảo Luật, nhất là chủ trương tại Nghị quyết
số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành
Trung ương Khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo điều kiện đưa nước ta thành
nước phát triển có thu nhập cao. Nội dung tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, thực hiện nghiêm túc chủ trương phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục
hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ[8]; rà soát kỹ lưỡng,
bảo đảm tính thống nhất giữa Luật Đất đai với
các luật có quy định liên quan, nhất là thống nhất các quy định, thủ tục về
cùng một vấn đề.
Về một số vấn đề còn ý kiến
khác nhau, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu, giải trình làm rõ ý kiến của
các Thành viên Chính phủ và thiết kế các quy định cụ thể về các vấn đề:
(1) Về đối tượng được sử
dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng
kinh tế (điểm b khoản 1 Điều 201) và quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội,
công an khi sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản
xuất, xây dựng kinh tế (điểm h khoản 3 Điều 201) hoàn thiện theo hướng cho phép
sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng
kinh tế và quy định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công
an khi sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất,
xây dựng kinh tế. Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an thực hiện Kết luận của Chủ tịch Quốc hội[9] để hoàn thiện về
nội dung này.
(2) Về nội dung phương
pháp định giá đất và trường hợp, điều kiện áp dụng từng phương pháp (Điều 158):
Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện dự thảo Luật theo hướng quy định rõ
các phương pháp xác định giá đất; trường hợp, điều kiện áp dụng các phương pháp
định giá đất; đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết tại Nghị định hướng dẫn
thi hành, bảo đảm rõ ràng, công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước,
người sử dụng đất và nhà đầu tư.
(3) Về việc sử dụng đất để
thực hiện dự án nhà ở thương mại (Điều 122 và 127): Giao Bộ Tài nguyên và Môi
trường tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, chỉnh lý quy định này phù hợp với
chủ trương tại Nghị quyết số 18-NQ/TW về
“Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại”
và phù hợp với thực tiễn.
(4) Về Quỹ phát triển đất
(Điều 115): Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu, hoàn thiện các quy định
về Tổ chức phát triển quỹ đất và Quỹ phát triển đất tại dự thảo Luật nhằm tạo
quỹ đất và phát triển quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thể chế đầy đủ quan điểm của Nghị quyết
số 18-NQ/TW về “Thực hiện việc giao đất,
cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử
dụng đất”, “tạo lập, quản lý, khai thác quỹ đất, thực hiện tốt nhiệm vụ bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.
(5) Về sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công liên quan đến quy định tách nội
dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành dự án độc lập: Giao Bộ Tài nguyên và
Môi trường hoàn thiện quy định về các trường hợp tách việc bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập, phù hợp với chủ trương của
Nghị quyết 18-NQ/TW về “Tiếp tục thực hiện
thí điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước”.
- Về điều khoản chuyển tiếp,
cần rà soát kỹ lưỡng những trường hợp phát sinh trong thực tiễn để có cơ chế xử
lý, tránh khoảng trống pháp lý, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời bảo đảm chặt chẽ, không để sơ hở, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.
- Về hiệu lực thi hành luật,
thống nhất về dự kiến hiệu lực thi hành của Luật Đất đai (sửa đổi) từ ngày 01
tháng 01 năm 2025 để đồng bộ với hiệu lực của Luật
Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản đã
được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6; đề xuất về hiệu lực sớm hơn đối với
quy định về hoạt động lấn biển và quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lâm nghiệp.
Giao Bộ Tài nguyên và Môi
trường tiếp tục tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ nhất là ý kiến của các bộ,
ngành có liên quan về: đấu giá, thi hành án; quy hoạch, thủ tục đấu thầu, giao
đất, cho thuê đất gắn với quy trình phê duyệt dự án đầu tư, dự án đầu tư công,
tách dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập; các trường hợp
định giá đất và phương pháp định giá đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, quỹ
phát triển đất; thế chấp tài sản là nhà ở, dự án bất động sản; đất quốc phòng,
an ninh; quy hoạch lâm nghiệp, chuyển đổi đất rừng, đất nông nghiệp... ; phối hợp
với Bộ Tư pháp về tính thống nhất của hệ thống pháp luật đề xuất sửa đổi, bổ
sung của các luật khác tại dự thảo Luật.
Bộ Tài nguyên và Môi trường
khẩn trương tiếp thu ý kiến của các Thành viên Chính phủ về các đề xuất tiếp
thu, chỉnh lý, thể hiện đầy đủ nội dung tiếp thu trong dự thảo Luật nhằm tháo gỡ
các vướng mắc trên thực tế, hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai thông
thoáng, tạo điều kiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế
xã hội; đồng thời có cơ chế quản lý, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, tránh thất
thoát tài sản nhà nước, phòng chống tiêu cực, lợi ích nhóm, bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội
trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý, tạo sự đồng thuận khi trình Quốc hội dự án
Luật này vào tháng 01 năm 2024.
Chính phủ giao việc trong
thời gian đến khi Quốc hội cho ý kiến, thông qua dự án Luật Đất đai (sửa đổi):
- Giao Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm toàn diện về việc tiếp thu, hoàn thiện dự
thảo Luật Đất đai (sửa đổi); khẩn trương tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến
Thành viên Chính phủ tại Phiên họp này và tại Phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính
phủ. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên
quan, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các bộ, cơ quan liên
quan kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về những nội dung phát
sinh trước khi Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật Đất đai (sửa đổi) tại Kỳ
họp Quốc hội bất thường tháng 01 năm 2024.
- Giao các bộ, cơ quan chủ
động phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường về các nội dung thuộc phạm vi quản
lý nhà nước của mình trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai
(sửa đổi).
- Giao Bộ Tư pháp phối hợp
chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo
quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
- Văn phòng Chính phủ đôn
đốc việc thực hiện nhiệm vụ của các Bộ, cơ quan theo Quy chế làm việc của Chính
phủ.
- Phó Thủ tướng Trần Hồng
Hà chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý, Thư ký TTg,
các PTTg; các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc,
TGĐ Cổng TTĐTCP;
- Lưu: VT, PL (2b).
|
TM. CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Trần Lưu Quang
|