CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 01/2002/NQ-CP
|
Hà Nội , ngày 03
tháng 1 năm 2002
|
NGHỊ QUYẾT
Trong ngày 27, 28 và sáng ngày
29 tháng 12 năm 2001, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 12 năm 2001, thảo luận
và quyết nghị các vấn đề sau đây:
1- Chính phủ
nghe Bộ trưởng Bộ Thương mại trình bày Tờ trình Chính phủ về Chương trình Tổ chức
thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:
Hiệp định Thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2001. Căn cứ trên
tinh thần Nghị quyết của Quốc hội ngày 28 tháng 11 năm 2001 về việc Phê chuẩn
Hiệp định giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về
quan hệ thương mại và những cam kết đã được thoả thuận, Chính phủ chỉ đạo xây dựng
Chương trình để chủ động thực hiện Hiệp định có hiệu quả. Chương trình bao gồm
các hoạt động cụ thể, đồng bộ với các bước đi thích hợp, nhằm mục đích: giới
thiệu và quán triệt cho các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp hiểu biết đầy
đủ về nội dung chủ yếu của Hiệp định, những thuận lợi, khó khăn và trách nhiệm
của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Hiệp định;
các việc phải khẩn trương triển khai thực hiện nhằm tạo thế chủ động như:
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, đổi mới, sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước, xúc tiến thương mại và các biện pháp tự vệ trong thương
mại hàng hoá...; tổ chức đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu trước mắt cũng
như lâu dài cho các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương và các doanh nghiệp
để thực hiện tốt nhiệm vụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nói chung,
cũng như thực hiện Hiệp định nói riêng.
Chính phủ nhất trí thông qua nội
dung Chương trình. Giao Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ,
Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá
- Thông tin và các Bộ, ngành có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính
phủ, hoàn chỉnh dự thảo Chương trình nói trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, ban hành Quyết định phê duyệt trong tháng 01 năm 2002.
Trên cơ sở Chương trình chung được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, trong
quý I năm 2002 phải xây dựng chương trình hành động cụ thể của mình về các việc
cần triển khai, đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, ngành hàng và của doanh nghiệp, tạo thế chủ động thực hiện
đúng các cam kết trong Hiệp định.
2- Chính phủ
nghe Bộ trưởng Bộ Thương mại trình bày Tờ trình Chính phủ về dự án Pháp lệnh Đối
xử Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế; dự án Pháp lệnh về
Các biện pháp tự vệ trong thương mại hàng hoá với nước ngoài; nghe Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình bày Báo cáo Tổng hợp ý kiến các thành viên
Chính phủ về hai dự thảo Pháp lệnh.
Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử quốc
gia là hai nguyên tắc cơ bản trong quan hệ thương mại quốc tế và cũng là yếu tố
quan trọng trong chính sách kinh tế thương mại. Cho đến nay, các nội dung pháp
lý của việc đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia chưa được quy định cụ thể
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Khi nước ta tham gia thị trường quốc tế ngày
càng sâu, rộng, bên cạnh những mặt tích cực, cũng tiềm ẩn nhiều tác động tiêu cực
khó dự đoán trước, do vậy, việc ban hành Pháp lệnh về Đối xử Tối huệ quốc và Đối
xử quốc gia trong thương mại quốc tế, Pháp lệnh về Các biện pháp tự vệ trong
thương mại hàng hoá với nước ngoài tại thời điểm này là rất cần thiết. Các Pháp
lệnh được ban hành sẽ thể chế hoá các nguyên tắc của thương mại quốc tế trong
pháp luật Việt Nam, làm cơ sở cho việc ký kết và tham gia các hiệp định thương
mại song phương và đa phương, tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới trong thời gian tới.
Giao Bộ Thương mại chủ trì, phối
hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành liên quan, tiếp thu ý
kiến của các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh hai dự án Pháp lệnh trên, trình
Thủ tướng Chính phủ xem xét, trước khi trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
3- Chính phủ
nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình trình
bày Tờ trình Chính phủ về dự án Pháp lệnh Dân số; nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ trình bày Báo cáo Tổng hợp ý kiến thành viên Chính phủ về dự thảo
Pháp lệnh.
Những năm qua, Nhà nước ta đã
chú trọng chỉ đạo và đầu tư nhiều cho công tác dân số, ban hành nhiều chủ
trương, chính sách và các văn bản pháp luật về công tác dân số, nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác dân số đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ổn định tốc độ phát triển
dân số và chất lượng dân số, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo... Trước sự
phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
chính sách dân số hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, đòi hỏi phải có một văn bản
có giá trị pháp lý cao, tạo cơ sở cho việc thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội
dung của công tác dân số.
Giao Uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế
hoạch hoá gia đình chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các
Bộ, ngành có liên quan, tiếp thu ý kiến của các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh
dự án Pháp lệnh trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, trước khi trình Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội.
4- Chính
phủ nghe Bộ trưởng Bộ Y tế trình bày Tờ trình Chính phủ về dự án Pháp lệnh Hành
nghề Y tế ngoài công lập; nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình
bày Báo cáo Tổng hợp ý kiến thành viên Chính phủ về dự thảo Pháp lệnh.
Với chủ trương Nhà nước và nhân
dân cùng làm, năm 1993 Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân đã được ban hành và
góp phần tích cực vào việc phát triển xã hội hoá các hoạt động y tế, chăm lo tốt
hơn cho sức khoẻ nhân dân. Xuất phát từ nhu cầu của nhân dân mong muốn được hưởng
các dịch vụ y tế thuận lợi hơn và với chất lượng cao hơn, việc ban hành Pháp lệnh
Hành nghề Y tế ngoài công lập trên nền tảng kế thừa Pháp lệnh Hành nghề Y, dược
tư nhân là cần thiết để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc phát triển các hoạt
động y tế ngoài công lập.
Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với
Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan, tiếp thu ý kiến
các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Pháp lệnh trên, trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, trước khi trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
5- Chính
phủ nghe Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trình bày Tờ trình
Chính phủ dự thảo Đề án Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ giai đoạn
2001-2005.
Khoa học và công nghệ những năm
qua đã phát huy nhiều tác dụng trong việc phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Mặc dù vậy, hoạt động khoa học - công nghệ vẫn chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với
các hoạt động kinh tế - xã hội, còn nhiều chồng chéo giữa các cơ quan quản lý
nhà nước trong lĩnh vực này; việc đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất về khoa học -
công nghệ chưa tập trung, chưa phát huy được hết tiềm năng của đội ngũ cán bộ
khoa học. Để tạo bước đổi mới cơ bản, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động và
nghiên cứu, ứng dụng khoa học- công nghệ, đưa khoa học - công nghệ thực sự trở
thành nền tảng và động lực của phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý hoạt
động khoa học công nghệ cần được tiếp tục đổi mới trên các mặt tổ chức, tài
chính, nhân lực, chính sách...
Giao Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ,
hoàn chỉnh Đề án trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
6- Chính
phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày Báo cáo Một số nét chủ yếu về
tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2001.
Chính phủ nhất trí thông qua Báo
cáo này.
7- Chính
phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo Kiểm điểm sự chỉ đạo
điều hành năm 2001 và Chương trình công tác năm 2002 của Chính phủ.
Chính phủ nhất trí thông qua Báo
cáo này.
Năm 2001, Chính phủ đã triển
khai sớm nhiệm vụ kế hoạch năm, đã quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc, dành
thời gian hợp lý cho công tác xây dựng thể chế, chiến lược vĩ mô; điều hành có
kết quả các công tác trọng tâm nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp, khai thông thị trường và khuyến khích xuất khẩu, đẩy mạnh tiến
độ thực hiện vốn đầu tư, khai thác các nguồn lực trong nước, cải thiện đời sống
nhân dân, cứu trợ và khắc phục thiệt hại ở những vùng bị lũ lụt... Hoạt động đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có những bước tiến quan trọng. Các mặt công
tác xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Ngăn chặn được âm mưu và hành động do
tổ chức phản động ở bên ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo gây rối ở một số
địa bàn.
Tuy vẫn còn một số hạn chế nhất
định, nhưng nhìn chung Chính phủ đã rất nỗ lực trong công tác chỉ đạo điều
hành. Tập thể Chính phủ đoàn kết, nêu cao ý thức cộng đồng trách nhiệm, bám sát
đường lối, đi sâu cơ sở, quyết sách kịp thời, điều hành linh hoạt, chỉ đạo thực
hiện có kết quả các nhiệm vụ được đề ra trong các nghị quyết của Đảng và Quốc hội.
Năm 2002, các Bộ, ngành và địa
phương cần tập trung chỉ đạo thực hiện thành công 5 nhiệm vụ trọng tâm mà Thủ
tướng Chính phủ đã trình bày trước kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá X; nghiêm chỉnh
thực hiện việc "Chấn chỉnh kỷ luật hành chính" trong bộ máy hành
chính nhà nước, nhằm khắc phục cơ bản tình trạng kỷ cương hành chính lỏng lẻo
hiện nay. Ngay từ quý I năm 2002, các cấp, các ngành và địa phương phải tổng kết,
đánh giá và báo cáo Chính phủ về việc chấp hành các chủ trương, quyết định của
Chính phủ và của các cấp trong hệ thống hành chính để có kế hoạch chấn chỉnh, xử
lý.
Về những giải pháp chủ yếu cần tập
trung thực hiện trong quý I năm 2002, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa
phương khẩn trương triển khai giao kế hoạch đến các Bộ, ngành, địa phương và
đơn vị; tập trung giải quyết tình hình khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ tồn đọng,
kéo dài; chăm lo cho nhân dân vui Tết cổ truyền Nhâm Ngọ vui tươi, an toàn và
tiết kiệm, tạo niềm tin và sự quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2002 ngay trong tháng đầu, quý đầu.