CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 13-CP
|
Hà Nội, ngày 01
tháng 12 năm 1992
|
NGHỊ
ĐỊNH
CUẢ CHÍNH PHỦ SỐ 13-CP NGÀY 1-12-1992
VỀ
VIỆC BAN HÀNH BẢN QUY CHẾ LÀM VIỆC CỦA CHÍNH PHỦ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Theo đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ;
Căn cứ biên bản hội nghị Chính phủ ngày 16 tháng 10 năm 1992,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.
Ban hành kèm theo Nghị định này bản Quy chế làm việc của Chính phủ.
Điều 2.
Quy chế này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành và thay thế tất cả các văn
bản trước đây của Chính phủ về quy chế làm việc của Chính phủ.
Điều 3.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào quy chế này để xây dựng mới, hoặc sửa
đổi quy chế làm việc của Bộ, Uỷ ban cho phù hợp.
Điều 4.
Các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành bản
Quy chế này.
QUY CHẾ
LÀM VIỆC CUẢ CHÍNH PHỦ
(Ban hành kèm theo Nghị định số 13-CP ngày 1 tháng 12 năm 1992)
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Văn bản này quy định chế độ làm việc của Chính phủ.
Chương 1:
QUY ĐỊNH VỀ PHẠM VI GIẢI QUYẾT
CÁC CÔNG VIÊC
Điều 1.
Chính phủ thảo luận và quyết định tập thể những vấn đề được quy định ở điều 19
của Luật Tổ chức Chính phủ và những vấn đề khác mà Thủ tướng thấy cần.
Hàng năm, tại phiên họp đánh giá
kết quả thực hiện chương trình công tác, thông qua chương trình công tác năm
sau, Chính phủ tiến hành kiểm điểm trách nhiệm của tập thể và cá nhân mỗi thành
viên Chính phủ.
Điều 2.
Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm lãnh đạo, quản lý chung
và toàn diện công tác của Chính phủ, các hoạt động đối nội và đối ngoại của
Chính phủ, của các thành viên Chính phủ và Thủ trưởng các cơ quan trực thuộc
Chính phủ, của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp. Thủ tướng Chính phủ giải quyết:
1. Những vấn đề được Hiến pháp
và Luật Tổ chức Chính phủ quy định thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ,
nhưng không do tập thể Chính phủ giải quyết; những vấn đề được Hiến pháp và Luật
Tổ chức Chính phủ trao quyền cho Thủ tướng Chính phủ giải quyết.
2. Những vấn đề quan trọng có
tính liên ngành đã được các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ phối hợp
xử lý nhưng ý kiến còn khác nhau.
3. Những vấn đề do Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, người đứng đầu các đoàn thể
nhân dân đề nghị vượt quá thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng quản lý ngành,
lĩnh vực hoặc giữa Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, người
đứng đầu đoàn thể nhân dân ở Trung ương còn có ý kiến khác nhau.
4. Những vấn đề đột xuất hoặc mới
phát sinh như thiên tai, địch hoạ... nhưng vượt quá thẩm quyền và khả năng của
các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Trong hoạt động của mình, Thủ tướng
Chính phủ thường xuyên giữ mối liên hệ giữa Chính phủ với Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Điều 3.
Thủ tướng Chính phủ không trực tiếp chỉ đạo thường xuyên lĩnh vực công tác nào.
Tuỳ từng thời gian, Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo thực hiện những công tác lớn.
Các Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng chỉ đạo từng lĩnh vực công tác của Chính phủ;
chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, thay mặt Thủ tướng và được sử dụng quyền hạn
của Thủ tướng để giải quyết các việc được giao. Trong phạm vi công việc được
phân công, Phó Thủ tướng có trách nhiệm và có quyền:
1. Chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng các cơ chế, chính sách, bao gồm việc xây dựng
các dự thảo Luật, pháp lệnh, các chính sách kinh tế - xã hội cụ thể trình Chính
phủ, Thủ tướng.
2. Kiểm tra, đôn đốc các Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc tổ
chức thực hiện các quyết định của Chính phủ, các chủ trương, chính sách, luật
pháp thuộc lĩnh vực mình phụ trách, phát hiện và đề xuất những vấn đề cần sửa đổi,
bổ sung. Nếu phát hiện các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp ban hành văn bản hoặc làm những việc trái với quyết định của
Chính phủ, luật pháp của Nhà nước thì thay mặt Thủ tướng quyết định đình chỉ việc
thi hành văn bản đó và đề ra biện pháp xử lý.
3. Thay mặt Thủ tướng giải quyết
các vấn đề cụ thể nảy sinh thuộc thẩm quyền của Thủ tướng. Phó Thủ tướng xin ý
kiến Thủ tướng để xử lý những vấn đề tài chính, tiền tệ, vật tư dự trữ ngoài kế
hoạch được duyệt, những vấn đề về chính sách chưa được Chính phủ quy định.
4. Phó Thủ tướng được phân công
thường trực, giải quyết công việc hàng ngày của Chính phủ; thay mặt Thủ tướng
lãnh đạo công tác của Chính phủ khi Thủ tướng vắng mặt; phụ trách trực tiếp một
số lĩnh vực công tác; chỉ đạo công tác của Văn phòng Chính phủ.
Khi Phó Thủ tướng được phân công
thường trực vắng mặt, Thủ tướng chỉ định một Phó Thủ tướng tạm thay làm nhiệm vụ
thường trực.
Trong phạm vi quyền hạn được giao,
các Phó Thủ tướng chủ động xử lý công việc. Nếu có vấn đề liên quan đến lĩnh vực
Phó Thủ tướng khác phụ trách thì chủ động phối hợp với nhau để giải quyết; trường
hợp không nhất trí thì báo cáo Thủ tướng quyết định.
Thủ tướng chịu trách nhiệm về
các quyết định của Phó Thủ tướng liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ được
Thủ tướng phân công.
Điều 4.
Các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giải quyết:
1. Các vấn đề thuộc thẩm quyền của
Bộ, cơ quang ngang Bộ được quy định ở các điều từ điều 22 đến điều 31 chương VI
Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992.
2. Giải quyết hoặc xem xét để
trình Chính phủ, Thủ tướng giải quyết các đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan Trung ương của các đoàn thể nhân dân, các Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về vấn đề thuộc chức năng quản
lý ngành, lĩnh vực công tác mình phụ trách.
3. Tham gia giải quyết các việc
thuộc tập thể Chính phủ; thực hiện các nhiệm vụ được Thủ tướng uỷ nhiệm.
4. Tham gia ý kiến với các thành
viên khác, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ để xử lý các vấn đề thuộc thẩm
quyền của thành viên đó, nhưng có liên quan đến chức năng của mình.
Các thành viên Chính phủ, Thủ
trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ, phải sử dụng đúng và đầy đủ quyền hạn của
mình để giải quyết mọi vấn đề thuộc chức năng quản lý ngành, lĩnh vực trong cả
nước, không đùn đẩy công việc thuộc chức năng, thẩm quyền của mình lên Thủ tướng
hoặc đùn đẩy các cơ quan khác; chỉ trình Thủ tướng những việc vượt quá thẩm quyền
mình hoặc đã cùng thành viên khác bàn bạc giải quyết, nhưng còn có ý kiến khác
nhau.
Thành viên Chính phủ phụ trách Bộ,
cơ quan ngang Bộ và Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm trước
Thủ tướng về công việc của cơ quan mình, nếu phân công hoặc uỷ nhiệm cho người
phó giúp giải quyết công việc nào thì vẫn phải chịu trách nhiệm về việc làm của
người mà mình đã phân công và uỷ nhiệm.
Điều 5.
Các Bộ trưởng phụ trách công tác của Chính phủ giải quyết các việc:
1. Trực tiếp giúp Thủ tướng chỉ
đạo những lĩnh vực công tác được phân công.
2. Được Thủ tướng uỷ nhiệm đôn đốc,
kiểm tra việc chuẩn bị các đề án, các văn bản để trình Chính phủ hoặc Thủ tướng,
tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quyết định của Chính phủ; điều hoà, phối
hợp xử lý những công việc thuộc thẩm quyền của Thủ tướng trong lĩnh vực được
phân công phụ trách.
3. Được Thủ tướng uỷ nhiệm xử lý
một số công việc về đối ngoại liên quan đến lĩnh vực công tác được phân công.
Điều 6.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ giải quyết các việc:
1. Giúp Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng nắm tình hình hoạt động của Chính phủ, của các thành viên Chính phủ và của
các ngành, các cấp.
2. Lập và trình Chính phủ, Thủ
tướng thông qua các chương trình công tác, dự thảo các báo cáo của Chính phủ.
3. Tổ chức thẩm tra các đề án về
mặt bảo đảm yêu cầu, phạm vi đã quy định, về mặt pháp chế hành chính trước khi
trình Chính phủ.
4. Quản lý thống nhất việc ban
hành các văn bản của Chính phủ, của Thủ tướng, việc đăng trên Công báo các văn
bản của Chính phủ và của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
5. Tổ chức việc công bố, truyền
đạt và theo dõi kiểm tra các ngành, các cấp thực hiện các quyết định của Chính
phủ.
6. Giải quyết một số việc cụ thể
theo sự uỷ nhiệm của Thủ tướng (sẽ được cụ thể hoá trong văn bản uỷ nhiệm của
Thủ tướng).
7. Lãnh đạo và điều hành công
tác Văn phòng Chính phủ.
8. Giúp Thủ tướng (Phó Thủ tướng)
tổ chức thực hiện mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội, với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các đoàn thể nhân dân.
Điều 7.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phải tôn trọng
chức năng của nhau, phối hợp và tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ:
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, khi giải quyết vấn đề thuộc thẩm quyền của
mình có liên quan đến chức năng của Bộ khác, thì phải chủ động tham khảo ý kiến
hoặc bàn bạc với Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có liên
quan; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ được hỏi ý kiến có trách
nhiệm trả lời hoặc trao đổi bàn bạc với Bộ trưởng đó hoặc uỷ quyền cho người
phó của mình trả lời, không được phó thác cho cấp dưới trả lời. Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xấu, nếu giải
quyết các việc có liên quan đến cơ quan khác mà không thực hiện đúng quy định
này.
2. Đối với những vấn đề cụ thể nảy
sinh vượt quá thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và những vấn đề đã được các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ bàn bạc giải quyết nhưng giữa các Bộ hoặc giữa Bộ với Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn có ý kiến khác nhau, thì do
Thủ tướng (Phó Thủ tướng) giải quyết:
a) Nếu là vấn đề nảy sinh không
có tính chất thường xuyên, thì Thủ tướng (Phó Thủ tướng) xem xét và quyết định.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm tổ chức để Thủ tướng,
Phó Thủ tướng giải quyết hoặc trực tiếp làm việc với các Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để giải quyết. Văn phòng
Chính phủ không được để các Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương phải đi làm việc với từng bộ phận trong Văn phòng.
b) Nếu là vấn đề quan trọng mang
tính liên ngành đòi hỏi phải thường xuyên xử lý thì Thủ tướng Chính phủ thành lập
Hội đồng hoặc Tiểu ban do một Phó Thủ tướng hoặc một Bộ trưởng chủ trì, có các
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan
tham gia để làm tư vấn cho Thủ tướng (Phó Thủ tướng) giải quyết. Thành phần,
nhiệm vụ và cách làm việc của Hội đồng hay Tiểu ban được quy định trong văn bản
thành lập.
3. Khi cần thiết, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ trực tiếp làm việc với Thủ tướng để xin ý kiến về
những vấn đề thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách, đề xuất ý kiến với Thủ tướng
về các công việc chung của Chính phủ. Thủ tướng cần định kỳ làm việc trực tiếp
với các thành viên Chính phủ.
Điều 8.
Các vấn đề trình Chính phủ, Thủ tướng giải quyết đều phải:
1. Do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chuẩn bị đầy đủ, theo đúng quy định và ký tờ trình. Trường
hợp uỷ nhiệm cho người phó ký trình, thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương vẫn phải chịu trách nhiệm về nội dung tờ trình do người được uỷ quyền
ký.
2. Có đủ hồ sơ (tuỳ tính chất vấn
đề mà quy định tài liệu cần có trong hồ sơ) và phải được đăng ký tại văn thư của
Văn phòng Chính phủ.
3. Văn phòng Chính phủ không được
trình Chính phủ hoặc Thủ tướng giải quyết:
- Những việc không do Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc người phó được uỷ nhiệm ký trình.
- Những việc do các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trình có liên quan đến Bộ, ngành khác, nhưng không có ý kiến của
Bộ trưởng phụ trách ngành, lĩnh vực liên quan đó.
- Những văn bản không được đăng
kỳ tại văn thư của Văn phòng Chính phủ.
Chương 2:
QUY ĐỊNH VỀ CÁC MẶT CÔNG
TÁC CỤ THỂ
I- LẬP CHƯƠNG
TRÌNH CÔNG TÁC CỦA CHÍNH PHỦ
Điều 9.
Chính phủ có chương trình công tác năm, 6 tháng, 3 tháng và hàng tháng.
Chương trình năm do Chính phủ thảo
luận và quyết định. Căn cứ vào chương trình năm, Thủ tướng xác định chương
trình 6 tháng, 3 tháng và từng tháng.
Trong chương trình công tác, phải
ghi rõ những việc do Chính phủ thảo luận quyết định, những việc do Thủ tướng
quyết định. Đối với từng vấn đề có đề án hoặc dự thảo văn bản để thảo luận quyết
định, phải ghi rõ yêu cầu, phạm vi cần giải quyết, chỉ định cơ quan chủ trì chuẩn
bị, cơ quan tham gia chuẩn bị, cơ quan thẩm tra đề án và thời hạn hoàn thành từng
đề án (hoặc dự thảo văn bản).
Điều 10. Trình
tự lập chương trình công tác của Chính phủ được quy định như sau:
- Tuần đầu tháng 11, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trình Chính phủ những vấn
đề cần đưa vào chương trình công tác năm sau.
- Giữa tháng 11, theo sự chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ và căn cứ vào kiến nghị của các Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ dự thảo
chương trình công tác năm sau gửi cho các thành viên Chính phủ. Chậm nhất là 7
ngày kể từ ngày nhận được dự thảo chương trình, các thành viên của Chính phủ có
trách nhiệm xem xét và báo cáo cho Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ những
vấn đề cần thay đổi, bổ sung. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ hoàn chỉnh
dự thảo và trình Chính phủ thông qua tại phiên họp đầu tháng 12.
- Chương trình quý phải được gửi
đến các thành viên Chính phủ chậm nhất là ngày 25 tháng thứ 3 của quý trước. Chương
trình tháng phải được gửi đến các thành viên Chính phủ chậm nhất là ngày 25 của
tháng trước.
- Khi Thủ tướng quyết định thay
đổi chương trình, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ phải thông báo ngay
cho các thành viên Chính phủ và các cơ quan có liên quan biết.
II- CHUẨN BỊ
ĐỀ ÁN TRÌNH CHÍNH PHỦ
Điều 11.
Đề án hoặc dự thảo văn bản (sau đây gọi chung là đề án) trình Chính phủ và Thủ
tướng thuộc ngành, lĩnh vực nào thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan phụ trách
ngành, lĩnh vực đó làm chủ đề án (sau đây gọi là cơ quan chủ trì đề án) và phải
chịu trách nhiệm bảo đảm nội dung, thể thức hành chính và thời hạn trình.
Đối với những đề án quan trọng
có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc có nội dung phức tạp, thì Thủ tướng
Chính phủ chỉ định một Tiểu ban để chuẩn bị.
Điều 12.
Theo sự phân công chuẩn bị các đề án đã được ghi trong chương trình, cơ quan chủ
trì đề án lập kế hoạch chuẩn bị từng đề án theo đúng yêu cầu, phạm vi giải quyết
vấn đề trong đề án và bảo đảm thời hạn trình đề án đã được Chính phủ ấn định.
Nếu cơ quan chủ trì đề án muốn
thay đổi yêu cầu, phạm vi giải quyết vấn đề hoặc thời hạn trình đề án thì phải
được sự đồng ý của Thủ tướng, hoặc Phó Thủ tướng được uỷ nhiệm phụ trách lĩnh vực.
Điều 13. Trong
quá trình chuẩn bị đề án, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan chủ trì đề án có quyền:
1. Mời các Bộ trưởng hoặc Thủ
trưởng cơ quan có liên quan đến bàn việc chuẩn bị đề án hoặc cử cán bộ tham gia
xây dựng đề án. Các cơ quan được mời có trách nhiệm cử người tham gia theo yêu
cầu của cơ quan chủ trì đề án.
2. Gửi dự thảo đề án đến các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
có liên quan để lấy ý kiến. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan được hỏi ý kiến
có trách nhiệm phát biểu ý kiến chính thức của mình bằng văn bản trong thời hạn
do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan chủ trì đề án đề nghị. Thời hạn này phải đủ
cho việc nghiên cứu, góp ý kiến. Sau thời hạn đó, nếu cơ quan được hỏi ý kiến
không trả lời, thì coi như đồng ý và phải chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan
đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành mình.
Tờ trình của Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan chủ trì đề án cần phải ghi rõ những ý kiến của các Bộ trưởng có liên
quan.
3. Mời họp để thảo luận và lấy ý
kiến về dự thảo đề án; Bộ trưởng chủ trì đề án phải gửi tài liệu cho các cơ
quan được mời ít nhất 5 ngày trước ngày họp. Nếu là đề án có nhiều nội dung
quan trọng, thì thời hạn ít nhất là 10 ngày trước ngày họp. Cơ quan được mời họp
phải cử đại diện có đủ thẩm quyền đến họp.
Bộ trưởng chủ trì đề án chịu
trách nhiệm tổ chức và chủ trì cuộc thảo luận, giới thiệu nội dung và thu thập
ý kiến để bổ sung hoàn chỉnh đề án, những ý kiến thảo luận phải được ghi vào
biên bản, có chữ ký của người chủ toạ hội nghị.
Điều 14.
Hồ sơ của một đề án trình Chính phủ gồm có:
1. Tờ trình của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan chủ trì đề án. Tờ trình phải ngắn gọn, không quá 5 trang đánh
máy, thuyết minh rõ:
- Tóm tắt nội dung chính của đề
án (hoặc dự thảo văn bản). Phải nêu đầy đủ luận cứ của các kiến nghị, những vấn
đề chưa được nhất trí.
- Văn bản của cơ quan thẩm định
đề án (nếu có).
Kèm theo tờ trình là những văn bản
phát biểu của Thủ trưởng các cơ quan có liên quan, của Hội đồng khoa học hoặc Hội
đồng tư vấn (nếu có).
2. Dự thảo văn bản sẽ ban hành,
và dự thảo văn bản hướng dẫn thực hiện văn bản ấy.
3. Kế hoạch tổ chức thực hiện
khi văn bản được ban hành.
Điều 15.
Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được đề án, Văn phòng Chính phủ phải thẩm
tra xong đề án:
1. Nếu đề án được chuẩn bị theo
đúng yêu cầu, phạm vi quy định và đúng thủ tục, thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định trình Chính phủ.
2. Nếu đề án chuẩn bị không đúng
yêu cầu, phạm vi hoặc chưa đúng thủ tục quy định ở điều 13 và điều 14 trên đây,
thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ yêu cầu cơ quan chủ trì đề án chuẩn
bị thêm. Nếu Bộ trưởng chủ trì đề án không nhất trí, thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Văn phòng Chính phủ báo cáo Thủ tướng quyết định.
Điều 16. Tuỳ
tính chất của đề án, Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng thay mặt Thủ tướng:
1. Trực tiếp nghe Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan chủ trì đề án hoặc các cơ quan nghiên cứu phát biểu về đề án hoặc
dự thảo văn bản sẽ trình Chính phủ, nhằm tìm hiểu căn cứ bảo đảm cho hội nghị
Chính phủ có thể quyết định được chính xác.
2. Nếu xét thấy cần thiết, chủ
trì họp với các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan đang có ý kiến khác nhau để trao
đổi giải quyết các điểm chưa nhất trí hoặc làm rõ các quan điểm khác nhau, tạo
điều kiện để hội nghị Chính phủ có thể thảo luận và thông qua.
Điều 17.
Chậm nhất là 7 ngày, trước ngày họp Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ phải trình Thủ tướng hồ sơ đề án. Nếu thấy việc chuẩn bị chưa đạt yêu
cầu thì Thủ tướng quyết định hoãn đưa ra phiên họp Chính phủ để chuẩn bị thêm.
III- PHIÊN HỌP CUẢ
CHÍNH PHỦ
Điều 18.
Phiên họp thường lệ gồm toàn thể các thành viên Chính phủ mỗi tháng một lần vào
những ngày cuối tháng. Thủ tướng triệu tập phiên họp bất thường theo quyết định
của mình hoặc theo yêu cầu của 1/3 tổng số thành viên Chính phủ.
Ngày họp và chương trình làm việc
của phiên họp do Thủ tướng Chính phủ ấn định.
Chương trình làm việc của phiên
họp, hồ sơ đề án và dự thảo Nghị quyết, Nghị định sẽ thông qua tại phiên họp phải
gửi đến thành viên Chính phủ trước khi họp ít nhất là 5 ngày, trừ trường hợp họp
bất thường.
Điều 19.
Phiên họp của Chính phủ hợp lệ khi có mặt ít nhất 2/3 tổng số thành viên của
Chính phủ.
Các thành viên Chính phủ phải
tham dự đầy đủ phiên họp Chính phủ và phải ngồi đúng chỗ quy định, nếu vắng mặt
phiên họp hoặc vắng mặt một số thời gian của phiên họp, thì phải được Thủ tướng
đồng ý. Thủ tướng có thể cho phép thành viên vắng mặt được uỷ nhiệm một người
trong số cấp phó của mình đến họp. Người phó dự họp thay, nếu phát biểu, thì
bài phát biểu không được trái với ý kiến của người đã uỷ nhiệm. Trường hợp muốn
phát biểu ý kiến khác, thì phải được người chủ toạ phiên họp Chính phủ đồng ý.
Thủ tướng Chính phủ mời Chủ tịch
nước tham dự các phiên họp của Chính phủ.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc
hội, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự
phiên họp Chính phủ khi thảo luận những vấn đề có liên quan.
Thủ trưởng các cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được
mời dự phiên họp Chính phủ khi cần thiết.
Những người tham dự phiên họp
không phải là thành viên Chính phủ được phát biểu ý kiến, nhưng không có quyền
biểu quyết.
Điều 20.
Phiên họp Chính phủ do Thủ tướng chủ toạ, khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ
tướng được uỷ nhiệm chủ toạ.
Phiên họp Chính phủ làm việc
theo trình tự như sau:
1. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ báo cáo số thành viên Chính phủ có mặt và những người vắng mặt,
những người dự họp thay, những người được mời tham dự (nếu có).
2. Chủ toạ phiên họp giới thiệu
chương trình và cách làm việc của phiên họp, xác định thứ tự thảo luận và quyết
định từng đề án (nếu hội nghị có nhiều đề án).
3. Trong phiên họp, Chính phủ thảo
luận từng đề án (dự thảo văn bản) theo trình tự dưới đây:
a) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
chủ trì đề án trình bày ngắn gọn những vấn đề cần xin ý kiến trong dự thảo nghị
quyết, nghị định. Thời gian trình bày tối đa không quá 40 phút. Nếu vấn đề cần xin
ý kiến đã được thuyết minh rõ trong tờ trình, thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
chủ trì đề án có thể không trình bày thêm.
b) Các thành viên Chính phủ phát
biểu ý kiến, nói rõ tán thành hay không tán thành điểm nào trong dự thảo nghị
quyết, nghị định v.v... Bản phát biểu này gửi lại Văn phòng Chính phủ để lưu hồ
sơ Nhà nước. Thời gian mỗi lần phát biểu tối đa không quá 15 phút.
c) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
chủ trì đề án phát biểu ý kiến cuối cùng của mình về những điểm chưa nhất trí.
d) Chủ toạ phiên họp kết luận và
lấy biểu quyết bằng hình thức giơ tay. Nếu số phiếu ngang nhau, thì theo phía
có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Trường hợp Thủ tướng thấy thảo luận chưa đủ
rõ, thì có quyền yêu cầu Chính phủ chưa quyết định.
4. Sau khi đã thảo luận và quyết
định đối với từng vấn đề ghi trong chương trình phiên họp, chủ toạ phiên họp
phát biểu kết thúc phiên họp Chính phủ.
Điều 21.
Đối với một số vấn đề nội dung không phức tạp, không cần thiết phải thảo luận tại
phiên họp Chính phủ, thì theo chỉ thị của Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ gửi dự thảo văn bản để lấy ý kiến từng thành viên. Nếu được đa
số thành viên tán thành, thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình Thủ
tướng ký và báo cáo cho các thành viên Chính phủ biết.
Điều 22.
Biên bản phiên họp Chính phủ phải ghi đầy đủ nội dung, ý kiến phát biểu và diễn
biến của phiên họp, ý kiến kết luận của chủ toạ và kết quả biểu quyết. Biên bản
này do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ký và lưu vào hồ sơ Nhà nước và
được bảo quản theo chế độ mật.
Khi được phép của Thủ tướng, Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ gửi các bản trích sao biên bản cho các
thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ hoặc Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Điều 23.
Sau mỗi phiên họp, Chính phủ thông báo qua phương tiện thông tin đại chúng cho
nhân dân biết các nội dung chính của phiên họp Chính phủ, trừ các nội dung bí mật
quốc gia.
IV- QUY ĐỊNH
VỀ GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC CUẢ THỦ TƯỚNG
Điều 24. Thủ
tướng Chính phủ xét, giải quyết các công việc theo trình tự sau:
1. Các vấn đề do Thủ tướng Chính
phủ xét, giải quyết đều phải được đăng ký trước và đưa vào lịch giải quyết việc
của Thủ tướng, trừ vấn đề nảy sinh nói ở điểm 3 điều này, phải theo đúng thủ tục
quy định khi trình.
2. Những đề án trình Thủ tướng
giải quyết thuộc về chủ trương, chính sách phải được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan chủ trì đề án chuẩn bị theo quy định như đối với các vấn đề do Chính phủ
quyết định nói ở mục II của chương II bản quy chế này.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ có trách nhiệm, căn cứ vào tính chất của đề án, định thời gian chuẩn
bị, định thời gian trình Thủ tướng xét giải quyết. Trong khi xem xét, Thủ tướng
có thể mời Thủ trưởng cơ quan có liên quan để tham khảo ý kiến.
3. Đối với vấn đề cụ thể nảy
sinh thuộc thẩm quyền Thủ tướng giải quyết, trong thời hạn tối đa là 2 ngày, kể
từ ngày văn bản đăng ký tại Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ phải trình Thủ tướng (Phó Thủ tướng) giải quyết. Nếu là vấn đề cần gấp,
thì phải trình ngay sau khi nhận được.
Nếu văn bản đề nghị chưa có ý kiến
Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan, thì sau khi trả lại hoặc sau khi yêu cầu
cơ quan có đề nghị để chuẩn bị thêm, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
cũng phải báo cáo với Thủ tướng (Phó Thủ tướng) biết trong thời hạn không quá 2
ngày.
V- BAN HÀNH
VÀ CÔNG BỐ CÁC VĂN BẢN CUẢ CÍNH PHỦ
Điều 25.
Chậm nhất là 5 ngày, sau phiên họp Chính phủ, hoặc sau khi Thủ tướng đã xét, giải
quyết các đề án ở điểm 2 điều 24 trên đây, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính
phủ chỉnh lý dự thảo văn bản trình Thủ tướng ký ban hành.
Các văn bản của Bộ hướng dẫn thi
hành Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ phải được chuẩn bị cùng lúc với dự thảo
Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ và phải ban hành trong thời hạn chậm nhất
là 10 ngày kể từ ngày ban hành văn bản của Chính phủ, của Thủ tướng. Trường hợp
các Bộ phải hợp đồng với nhau để ra văn bản hướng dẫn, thì thời hạn chậm nhất
cũng không được quá 20 ngày, kể từ ngày ban hành văn bản của Chính phủ hoặc của
Thủ tướng.
Văn bản để giải quyết các vấn đề
cụ thể nảy sinh nói ở điểm 3 điều 24 trên đây phải được ban hành sau 2 ngày kể
từ ngày Thủ tướng (Phó Thủ tướng) có ý kiến giải quyết. Nếu là vấn đề cần gấp
thì phải ban hành ngay.
Điều 26.
Các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ và các quyết
định, chỉ thị của Thủ tướng về những chủ trương, chính sách quan trọng về tổ chức
bộ máy và nhân sự các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đều do Thủ
tướng ký.
Phó Thủ tướng được phân công thường
trực được uỷ nhiệm ký thay Thủ tướng một số văn bản thuộc thẩm quyền của Thủ tướng
và thay Thủ tướng ký các văn bản của Chính phủ khi Thủ tướng vắng mặt.
Phó Thủ tướng phụ trách các lĩnh
vực công tác được Thủ tướng uỷ nhiệm ký một số quyết định, chỉ thị của Thủ tướng
để chỉ đạo các công tác cụ thể, đôn đốc, hướng dẫn thi hành các quyết định của
Chính phủ và Thủ tướng ký các văn bản để xử lý các vấn đề cụ thể nảy sinh thuộc
thẩm quyền của Thủ tướng giải quyết.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ ký văn bản thừa lệnh Thủ tướng giải quyết những công việc cụ thể
không thuộc phạm vi phụ trách của các Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực và thông
báo các quyết định của Thủ tướng để các cơ quan có liên quan thực hiện.
Điều 27.
Các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng, các
quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc chính phủ đều phải đăng trong Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trừ các văn bản có nội dung bí mật quốc gia. Thời hạn gửi đăng
Công báo phải cùng với thời gian văn bản được ban hành. Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Văn phòng Chính phủ hướng dẫn cụ thể việc đăng Công báo.
VI- TIẾP
KHÁCH NƯỚC NGOÀI, HỘI HỌP, ĐI CÔNG TÁC
Điều 28.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ muốn mời Thủ tướng hoặc Phó
Thủ tướng tiếp khách nước ngoài thì phải trao đổi trước với Văn phòng Chính phủ;
trường hợp khách là quan chức nước ngoài, thì còn phải thoả thuận trước với Bộ
Ngoại giao.
Điều 29. Trong
thời gian họp Quốc hội; họp Chính phủ, các thành viên Chính phủ không được bố
trí đi công tác nước ngoài, đi địa phương xa Thủ đô. Trường hợp thật cần đi phải
báo cáo và được Thủ tướng đồng ý và phải thông báo cho Văn phòng Chính phủ biết
địa chỉ nơi đến công tác.
Điều 30.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ muốn mở hội nghị tổng kết
công tác (hàng năm hoặc một số năm) trong cả nước hoặc các hội nghị, có mời
lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, thì phải được Thủ tướng đồng ý trước về nội
dung, thành phần và thời gian họp.
Điều 31.
Sáu tháng một lần, Thủ tướng (Phó Thủ tướng) họp với lãnh đạo Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; ít nhất mỗi năm một lần, Thủ tướng họp với Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để kiểm điểm việc thực hiện
các chủ trương, chính sách của Chính phủ đã ban hành, hướng dẫn việc tổ chức
thi hành các chủ trương, chính sách mới.
VI- THÔNG TIN
BÁO CÁO
Điều 32.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải
thực hiện đầy đủ chế độ thông tin và báo cáo với Thủ tướng.
Nội dung và thời hạn gửi các
thông tin, báo cáo do Thủ tướng quy định.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phải đích thân xem xét, ký gửi Thủ tướng những báo cáo đánh giá công tác của Bộ
hoặc Uỷ ban nhân dân địa phương, những văn bản kiến nghị chủ trương chính sách
với Thủ tướng và Chính phủ.
Khi có vấn đề đột xuất xảy ra
trong ngành, địa phương, phải báo cáo ngay với Thủ tướng bằng phương tiện nhanh
nhất.
Điều 33.
Văn phòng Chính phủ gửi cho các thành viên Chính phủ, Thủ
trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ, mỗi tháng một lần báo cáo, thông báo về hoạt
động của Chính phủ, các quyết định quan trọng của Chính phủ, và Thủ tướng. Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ định kỳ thông báo cho Tổng biên tập các
báo, đài ở trung ương nội dung các quyết định quan trọng của Chính phủ và của
Thủ tướng Chính phủ.
VIII- THANH
TRA, KIỂM TRA VÀ GIẢI QUYẾT CÁC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Điều 34. Các
thành viên Chính phủ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm
thanh tra, kiểm tra các ngành, các cấp thực hiện các quyết định của Chính phủ về
ngành, lĩnh vực mình phụ trách; trực tiếp giải quyết và chỉ đạo cơ quan thuộc
quyền xét và giải quyết các kiến nghị khiếu nại, tố cáo của công dân và của cán
bộ, nhân viên.
Điều 35.
Tổng thanh tra Nhà nước trực tiếp chỉ đạo Thanh tra có trọng điểm và hướng dẫn
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Uỷ ban nhân dân địa
phương tiến hành công tác thanh tra và công tác giải quyết các kiến nghị khiếu
tố, thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính.
Tổng Thanh tra Nhà nước chịu
trách nhiệm tiếp nhận xem xét giải quyết hoặc báo cáo Thủ tướng giải quyết những
đơn từ, khiều tố gửi đến Thủ tướng.
Chương 3:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 36.
Quy chế này có hiệu lực thi hành kể từ ngày được ban hành và thay thế cho tất cả
các văn bản của Chính phủ trước đây về chế độ làm việc của Hội đồng Bộ trưởng
nay là Chính phủ.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ chịu trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi và định kỳ báo cáo với Chính phủ
việc thi hành Quy chế này.
Điều 37.
Các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm
thực hiện Quy chế này.