QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1-LCT/HĐNN7
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 7 năm 1981
|
LUẬT
TỔ CHỨC QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Chương
VI và Chương VII của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật
này quy định về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, về nhiệm
vụ và quyền hạn của các đại biểu Quốc hội.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng Nhà nước, do Quốc hội bầu ra, là cơ quan cao nhất
hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 2
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội
và Hội đồng Nhà nước bảo đảm cho Quốc hội và Hội đồng Nhà nước thực hiện những
nhiệm vụ và quyền hạn quy định trong Điều 83 và Điều 100 của Hiến
pháp, thực hiện và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
trong phạm vi cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm hoàn
thành những nhiệm vụ của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 3
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước
làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội
được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp Quốc hội, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng Nhà nước, của các Hội đồng, các Uỷ ban của Quốc hội và của các đại biểu Quốc
hội.
Điều 4
Khi thực hiện nhiệm vụ và sử dụng
quyền hạn của mình, Quốc hội,
Hội đồng Nhà nước, các Hội đồng,
các Uỷ ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội dựa vào sự tham gia của Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân và của công dân.
Các cơ quan và nhân viên Nhà nước,
trong phạm vi quyền hạn của mình, có trách nhiệm tạo điều kiện cho các Hội đồng,
các Uỷ ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ.
Chương
2:
KỲ HỌP QUỐC HỘI
Điều 5
Quốc hội họp thường lệ mỗi năm
hai kỳ, một kỳ vào giữa năm và một kỳ vào cuối năm, do Hội đồng Nhà nước triệu
tập.
Hội đồng Nhà nước có thể triệu tập
Quốc hội họp bất thường theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Hội đồng bộ
trưởng hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc
hội do Hội đồng Nhà nước khoá trước triệu tập chậm nhất là hai tháng sau cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc
hội do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khoá trước khai mạc. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
chủ toạ các phiên họp cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch Quốc hội khoá mới.
Điều 6
Quốc hội họp công khai.
Quốc hội quyết định họp kín theo
đề nghị của Hội đồng Nhà nước, của Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng bộ trưởng hoặc
của các đoàn đại biểu Quốc hội.
Điều 7
Trong phiên họp đầu tiên của kỳ
họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội, Quốc hội bầu Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu
Quốc hội.
Quốc hội căn cứ vào báo cáo của
Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội, xác nhận tư cách đại biểu của các đại
biểu Quốc hội hoặc tuyên bố việc bầu cử đại biểu cá biệt không có giá trị.
Trong trường hợp cần phải điều tra về tính hợp pháp của việc bầu cử một đại biểu
Quốc hội thì trong thời gian điều tra, đại biểu đó không có quyền biểu quyết.
Khi có bầu cử bổ sung thì Quốc hội
thành lập Uỷ ban thẩm tra mới làm nhiệm vụ thẩm tra và báo cáo kết quả để Quốc
hội xét việc xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu được bầu bổ sung.
Điều 8
Quốc hội bầu Chủ tịch và các Phó
Chủ tịch Quốc hội theo danh sách đề cử chức vụ từng người do Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước khoá trước và các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội giới thiệu chung, sau
khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu.
Quốc hội bầu Đoàn thư ký các kỳ
họp cho mỗi khoá Quốc hội theo danh sách do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu.
Điều 9
Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó
Chủ tịch, Tổng thư ký và các uỷ viên Hội đồng Nhà nước trong số các đại biểu Quốc
hội, theo danh sách đề cử chức vụ từng người do Chủ tịch Quốc hội và các trưởng
đoàn đại biểu Quốc hội giới thiệu chung, sau khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu.
Điều 10
Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng trong số các đại biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu chung của Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước và các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội, sau khi hỏi ý kiến các đoàn
đại biểu.
Quốc hội bầu các Phó Chủ tịch và
các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng theo danh sách đề cử chức vụ từng
người của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Các Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và
thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng chủ yếu chọn trong số các đại biểu Quốc
hội.
Điều 11
Quốc hội bầu Phó Chủ tịch và các
Uỷ viên Hội đồng quốc phòng theo danh sách đề cử chức vụ từng người của Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước.
Điều 12
Quốc hội bầu Chánh án Toà án
nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong số các đại
biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu chung của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và các
trưởng đoàn đại biểu Quốc hội, sau khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu.
Điều 13
Trong các kỳ họp thường lệ của
Quốc hội, Hội đồng Nhà nước báo cáo công tác trước Quốc hội.
Tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá
Quốc hội, Hội đồng Nhà nước khoá trước báo cáo công tác đã làm từ kỳ họp cuối
cùng của Quốc hội khoá trước.
Điều 14
Trong các kỳ họp thường lệ của
Quốc hội, Hội đồng bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao báo cáo công tác trước Quốc hội.
Điều 15
Quốc hội xét các báo cáo và khi
cần thiết, ra những nghị quyết về công tác của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng bộ
trưởng, Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 16
Quốc hội quyết định các kế hoạch
Nhà nước và dự toán ngân sách Nhà nước do Hội đồng bộ trưởng trình Quốc hội. Hội
đồng bộ trưởng trình Quốc hội dự án kế hoạch Nhà nước và dự toán ngân sách Nhà
nước hàng năm vào kỳ họp Quốc hội cuối năm trước.
Quốc hội phê chuẩn quyết toán
ngân sách Nhà nước do Hội đồng bộ trưởng trình Quốc hội chậm nhất là một năm
sau khi năm ngân sách đã kết thúc.
Điều 17
Quốc hội xét các dự án luật do
các cơ quan Nhà nước, các chính đảng, các tổ chức xã hội và những người nói ở Điều 86 của Hiến pháp trình ra trước Quốc hội.
Điều 18
Các dự án kế hoạch Nhà nước, dự
toán ngân sách Nhà nước, các báo cáo, dự án luật và dự án khác phải gửi đến Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước và Chủ tịch Quốc hội chậm nhất là hai mươi ngày trước
khi Quốc hội họp.
Điều 19
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước có
thể giao cho Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban thường trực của Quốc hội thẩm tra các
báo cáo, các dự án luật, dự án kế hoạch Nhà nước, dự toán ngân sách Nhà nước và
các dự án khác. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội trình ý
kiến của mình về các báo cáo và các dự án đó để Quốc hội và Hội đồng Nhà nước
xem xét và quyết định.
Điều 20
Các luật và nghị quyết của Quốc
hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường
hợp sửa đổi Hiến pháp quy định ở Điều 147 của Hiến pháp.
Quốc hội biểu quyết bằng cách
giơ tay hoặc bằng cách bỏ phiếu kín theo đề nghị của Chủ tịch Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội không được biểu
quyết bằng cách gửi giấy hoặc nhờ người khác biểu quyết thay.
Các luật và nghị quyết của Quốc
hội phải được Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực.
Chương
3:
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
Điều 21
Hội đồng Nhà nước được bầu ra tại
kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội. Số thành viên của Hội đồng Nhà nước do
Quốc hội định.
Nhiệm kỳ của Hội đồng Nhà nước
theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng
Nhà nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Hội đồng
Nhà nước mới.
Điều 22
Hội đồng Nhà nước họp mỗi tháng
một lần, nếu cần thiết thì họp nhiều lần.
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước triệu
tập và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Nhà nước.
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước có thể
uỷ nhiệm một Phó Chủ tịch thay mặt để triệu tập và chủ toạ phiên họp của Hội đồng
Nhà nước.
Điều 23
Hội đồng Nhà nước thực hiện nhiệm
vụ và sử dụng quyền hạn ghi trong Hiến pháp theo thể thức quy định trong Luật
này và trong các văn bản khác của Quốc hội.
Điều 24
Trong việc triệu tập và tiến
hành kỳ họp Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước phối hợp với Chủ tịch Quốc hội
để:
1/ Dự kiến chương trình làm việc
của kỳ họp Quốc hội;
2/ Bảo đảm việc chuẩn bị các dự
án luật và các dự án khác trình Quốc hội;
3/ Quyết định những vấn đề khác
liên quan đến kỳ họp Quốc hội.
Điều 25
Trong thời gian Quốc hội không họp,
Hội đồng bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước theo quyết định của Hội đồng
Nhà nước hoặc theo đề nghị của các cơ quan đó.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và cấp tương đương báo cáo với Hội đồng Nhà nước về hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp mình và cấp dưới theo quy định của Hội đồng Nhà
nước.
Hội đồng Nhà nước ra những nghị
quyết để hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.
Điều 26
Hội đồng Nhà nước thông qua kế
hoạch xây dựng pháp luật theo đề nghị của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân
dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và giám sát việc thực
hiện kế hoạch đó.
Điều 27
Hội đồng Nhà nước ra các pháp lệnh
do sáng kiến của mình hoặc do đề nghị của các cơ quan Nhà nước, các chính đảng,
các tổ chức xã hội và những người nói ở Điều 86 của Hiến pháp.
Điều
28
Trong thời gian Quốc hội không họp,
Hội đồng Nhà nước quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các Uỷ ban
Nhà nước; cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, các Bộ trưởng,
các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và
trình Quốc hội phê chuẩn các quyết định đó trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
Điều 29
Hội đồng Nhà nước cử và bãi miễn
các Phó Chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước; cử và bãi miễn các hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao
theo đề nghị của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cử
và bãi miễn các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 30
Hội đồng Nhà nước quyết định bổ
nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế, theo đề
nghị của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.
Điều 31
Hội đồng Nhà nước đình chỉ việc
thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội
đồng bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh, theo sáng kiến của mình,
theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoặc của các đoàn đại
biểu Quốc hội.
Điều 32
Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc
bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng nhân dân nói
trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi
của nhân dân, theo sáng kiến của mình, theo đề nghị của Hội đồng bộ trưởng, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
hoặc của các đoàn đại biểu Quốc hội.
Điều 33
Các pháp lệnh và nghị quyết của
Hội đồng Nhà nước phải được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Nhà nước biểu
quyết tán thành.
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký
các pháp lệnh và nghị quyết đã được Hội đồng Nhà nước thông qua.
Điều 34
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thay
mặt Hội đồng công bố các luật và pháp lệnh chậm nhất không quá mười lăm ngày
sau khi đã được Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước thông qua.
Điều
35
Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ
tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối
ngoại.
Điều 36
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tiếp
nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài và của các tổ chức quốc
tế tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; ký thư uỷ nhiệm và thư triệu hồi
đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài và ở các tổ chức quốc tế.
Điều 37
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thống
lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân toàn quốc và giữa chức vụ Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng.
Điều 38
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước điều
khiển công tác của Hội đồng Nhà nước.
Khi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
vì lý do sức khoẻ không làm việc được trong một thời gian dài hoặc khi khuyết
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thị Hội đồng Nhà nước cử một Phó Chủ tịch quyền Chủ
tịch cho đến khi Chủ tịch làm việc trở lại hoặc Quốc hội bầu Chủ tịch mới của Hội
đồng Nhà nước.
Chương
4:
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI, CÁC HỘI
ĐỒNG VÀ CÁC UỶ BAN CỦA QUỐC HỘI CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Điều 39
Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các
phiên họp của Quốc hội; bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội; giữ quan hệ
với các đại biểu Quốc hội; chứng thực những luật và những nghị quyết đã được Quốc
hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội điều hoà và phối
hợp hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội; có quyền tham dự hội nghị của các Uỷ
ban, phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết; triệu tập và chủ trì hội nghị Chủ
nhiệm các Uỷ ban để điều hoà và phối hợp chương trình làm việc của các Uỷ ban.
Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp
Chủ tịch Quốc hội và có thể được uỷ nhiệm đảm nhận từng phần những nhiệm vụ và
quyền hạn của Chủ tịch hoặc thay Chủ tịch khi Chủ tịch vắng mặt.
Chủ tịch Quốc hội có quyền tham
dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước.
Điều
40
Khi Chủ tịch Quốc hội vì lý do sức
khoẻ không làm việc được trong một thời gian dài hoặc khi khuyết Chủ tịch Quốc
hội thì Hội đồng Nhà nước cử một Phó Chủ tịch Quốc hội quyền Chủ tịch cho đến
khi Chủ tịch làm việc trở lại hoặc Quốc hội bầu Chủ tịch mới.
Các Hội đồng và các Uỷ ban của
Quốc hội
Điều 41
Hội đồng quốc phòng động viên mọi
lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc.
Trong trường hợp có chiến tranh,
Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể giao cho Hội đồng quốc phòng những nhiệm
vụ và quyền hạn đặc biệt.
Điều 42
Hội đồng dân tộc, được bầu ra
trong số các đại biểu Quốc hội, tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội, gồm
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, thư ký và các uỷ viên. Danh sách đề cử chức vụ từng
người do Chủ tịch Quốc hội và các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội giới thiệu
chung, sau khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu.
Điều 43
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và
kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những vấn đề dân tộc; giúp Quốc hội
và Hội đồng Nhà nước giám sát các cơ quan Nhà nước trong việc thi hành chính
sách dân tộc; thẩm tra các báo cáo, dự án luật, dự án pháp lệnh và những dự án
khác liên quan đến vấn đề dân tộc do Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước giao cho;
trình dự án luật, dự án pháp lệnh và những dự án khác về vấn đề dân tộc ra trước
Quốc hội và hội đồng Nhà nước.
Điều 44
Chủ tịch Hội đồng dân tộc điều
khiển công tác của Hội đồng dân tộc; triệu tập và chủ toạ hội nghị Hội đồng dân
tộc.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc có quyền
tham dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước.
Điều 45
Quốc hội thành lập các uỷ ban
thường trực sau đây để giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước;
1/ Uỷ ban pháp luật;
2/ Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và
ngân sách;
3/ Uỷ ban văn hoá và giáo dục;
4/ Uỷ ban khoa học và kỹ thuật;
5/ Uỷ ban y tế và xã hội;
6/ Uỷ ban thanh niên, thiếu niên
và nhi đồng;
7/ Uỷ ban đối ngoại.
Quốc hội thành lập những Uỷ ban
thường trực khác khi xét thấy cần thiết.
Điều 46
Uỷ ban thường trực của Quốc hội
gồm Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm, thư ký và các uỷ viên.
Quốc hội bầu Chủ nhiệm và các
thành viên khác của Uỷ ban theo danh sách do Chủ tịch Quốc hội và các trưởng
đoàn đại biểu Quốc hội giới thiệu chung, sau khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu.
Phó Chủ nhiệm và thư ký do Uỷ ban cử trong số thành viên của Uỷ ban.
Số thành viên của mỗi Uỷ ban do
Quốc hội định.
Điều 47
Các Uỷ ban thường trực của Quốc
hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1/ Thẩm tra các báo cáo, dự án
luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác mà Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước giao
cho;
2/ Trình dự án luật, dự án pháp
lệnh và các dự án khác ra trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước;
3/ Nghiên cứu và kiến nghị với
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước về những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ
ban;
4/ Giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, giám sát
hoạt động của Hội đồng bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân các cấp.
Điều 48
Các Uỷ ban thường trực của Quốc hội
hoạt động theo chương trình do Uỷ ban quyết định.
Các Uỷ ban gửi chương trình hoạt
động của mình đến Chủ tịch Quốc hội để Chủ tịch Quốc hội điều hoà và phối hợp
hoạt động của các Uỷ ban.
Điều 49
Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Hội
đồng Nhà nước có thể thành lập các Uỷ ban lâm thời để làm những nhiệm vụ nhất định.
Tổ chức và hoạt động của các Uỷ ban lâm thời do Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước
quy định khi thành lập các Uỷ ban đó.
Điều 50
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội tiến hành điều tra, xem xét tại chỗ về những vấn đề cần thiết. Khi vấn
đề có liên quan đến nhiều Uỷ ban thì các Uỷ ban đó phối hợp để xem xét.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên của Hội đồng bộ trưởng và những nhân
viên hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tư liệu về những vấn đề cần thiết có
liên quan đến nhiệm vụ của Hội đồng và các Uỷ ban. Những người được yêu cầu có
trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.
Điều 51
Các đại biểu Quốc hội không phải
là thành viên của các Uỷ ban thường trực của Quốc hội có thể tham dự hội nghị của
Uỷ ban với sự đồng ý của Chủ nhiệm Uỷ ban, và có quyền phát biểu ý kiến nhưng
không biểu quyết.
Điều 52
Các Uỷ ban thường trực của Quốc
hội thành lập các tiểu ban giúp việc với sự đồng ý của Hội đồng Nhà nước.
Trưởng tiểu ban phải là thành
viên của Uỷ ban thường trực; các uỷ viên có thể không phải là thành viên của Uỷ
ban thường trực hoặc không phải là đại biểu Quốc hội.
Điều 53
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng bộ
trưởng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
Thủ tục chất vấn và trả lời chất
vấn theo quy định trong Điều 59 và Điều 60 của Luật này.
Điều 54
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội có thể đề nghị Hội đồng Nhà nước đưa một dự án luật, dự án pháp lệnh
hay là một vấn đề quan trọng ra trưng cầu ý kiến nhân dân.
Điều 55
Thể thức hoạt động cụ thể của Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội do điều lệ hoạt động của
các cơ quan đó quy định.
Điều 56
Hội đồng Nhà nước tổ chức văn
phòng để giúp việc Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Chương
5:
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Điều 57
Nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khoá
Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khoá Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của
khoá Quốc hội sau.
Điều
58
Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ
tham gia các kỳ họp và phiên họp của Quốc hội. Đại biểu nào không thể tham gia
các kỳ họp và phiên họp phải có lý do và phải báo trước cho Chủ tịch Quốc hội
biết.
Điều 59
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn
Hội đồng bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng bộ trưởng, Chánh án Toà án
nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Khi Quốc hội họp, đại biểu quốc
hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội để Chủ tịch Quốc hội chuyển cho các
cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Khi đại biểu chất vấn Hội đồng bộ
trưởng thì Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng hoặc một thành viên được uỷ nhiệm của Hội
đồng bộ trưởng trả lời. Khi đại biểu chất vấn một thành viên của Hội đồng bộ
trưởng thì thành viên đó trả lời.
Cơ quan hoặc ườngi bị chất vấn
phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó của Quốc hội. Trong trường hợp cần điều
tra thì Quốc hội quyết định thời gian trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc tại
kỳ họp sau của Quốc hội.
Giữa hai kỳ họp Quốc hội, đại biểu
Quốc hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Hội đồng Nhà nước để Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước chuyển cho các cơ quan hoặc người bị chất vấn. Cơ quan hoặc người bị
chất vấn phải trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc, theo quyết định của Hội đồng
Nhà nước, trước Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
Điều 60
Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Hội
đồng Nhà nước ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của những cơ quan hoặc
người bị chất vấn.
Điều 61
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ
chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và
báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội, trả lời những yêu cầu
và kiến nghị của cử tri. Sau mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội báo cáo
với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các luật và nghị quyết
đã được Quốc hội thông qua.
Đại biểu Quốc hội tuyên truyền,
phổ biến pháp luật và chính sách của Nhà nước, động viên nhân dân tham gia quản
lý Nhà nước.
Điều 62
Đại biểu Quốc hội nhận được những
điều khiếu nại và tố cáo của nhân dân, có trách nhiệm nghiên cứu và chuyển đến
cơ quan Nhà nước hữu quan, theo dõi việc giải quyết và báo cho đương sự biết kết
quả.
Các cơ quan Nhà nước phải báo
cho đại diện Quốc hội biết kết quả giải quyết những khiếu nại và tố cáo của
nhân dân do đại biểu Quốc hội chuyển đến.
Điều 63
Đại biểu Quốc hội có quyền kiến
nghị với các cơ quan Nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước
và những vấn đề thuộc lợi ích chung. Các cơ quan Nhà nước và những người có
trách nhiệm phải nghiên cứu và trả lời những kiến nghị đó của đại biểu.
Theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội,
các cơ quan Nhà nước và những người có trách nhiệm phải thi hành những biện
pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt những việc làm trái pháp luật của cơ quan
Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức xã hội hoặc của bất cứ cá nhân nào.
Khi đại biểu Quốc hội đến gặp
người phụ trách của một cơ quan Nhà nước hoặc cơ quan đoàn thể nhân dân thì người
đó có trách nhiệm phải tiếp đại biểu.
Điều 64
Đại biểu Quốc hội có quyền tham
dự hội nghị Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình được bầu, có quyền phát biểu ý
kiến nhưng không biểu quyết. Khi triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân phải thông báo cho các đại biểu Quốc hội ở địa phương mình biết.
Điều 65
Không có sự đồng ý của Quốc hội
và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Hội đồng Nhà nước,
thì không được bắt giam và truy tố đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam và
truy tố đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Nếu vì phạm pháp quả tang mà đại
biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội
hoặc Hội đồng Nhà nước xét và quyết định.
Điều 66
Đại biểu Quốc hội có thể bị cử
tri của đơn vị bầu ra mình bãi miễn, nếu không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân.
Thể thức bãi miễn đại biểu Quốc
hội được tiến hành theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
Điều 67
Đại biểu Quốc hội nào phạm pháp
và bị Toà án phạt tù thì mất quyền đại biểu Quốc hội.
Điều 68
Quốc hội xét và quyết định những
trường hợp đại biểu Quốc hội không xứng đáng là đại biểu Quốc hội theo đề nghị
của Hội đồng Nhà nước, của Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc địa phương đã giới thiệu đại biểu ra ứng cử.
Điều 69
Đại biểu Quốc hội có thể xin từ
chức vì lý do không đảm nhiệm được chức vụ đại biểu Quốc hội.
Việc chấp nhận đại biểu Quốc hội
từ chức do Hội đồng Nhà nước quyết định và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần
nhất của Quốc hội.
Điều 70
Trong trường hợp khuyết đại biểu
Quốc hội, Hội đồng Nhà nước xét và quyết định việc bầu cử bổ sung.
Nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội
được bầu bổ sung bắt đầu từ kỳ họp sau cuộc bầu cử bổ sung đến kỳ họp thứ nhất
của Quốc hội khoá mới.
Điều 71
Đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và đơn vi hành chính tương đương họp thành đoàn đại
biểu Quốc hội địa phương và cử ra trưởng đoàn. Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức
hoạt động của đại biểu Quốc hội tại các đơn vị bầu cử.
Các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội
và các đại biểu Quốc hội giữ quan hệ với Chủ tịch Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Mỗi năm hai lần, các đoàn đại biểu Quốc hội thông báo cho Chủ tịch Quốc hội, Hội
đồng Nhà nước và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc địa phương về hoạt động của các đại biểu
Quốc hội ở địa phương.
Điều 72
Trong phạm vi trách nhiệm của
mình, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ
quan Nhà nước khác có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của đại
biểu Quốc hội, như cung cấp tư liệu, thông tin, bảo đảm nơi tiếp xúc với cử
tri, các phương tiện đi lại theo tiêu chuẩn.
Những người cản trở đại biểu Quốc
hội làm nhiệm vụ đại biểu sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Chương
6:
ĐIỀU KHOẢN CUỔI CÙNG
Điều 73
Luật này thay thế Luật tổ chức
Quốc hội ngày 14 tháng 7 năm 1960.
Luật
này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp
thứ nhất, thông qua ngày 3 tháng 7 năm 1981.