QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
20-LCT/HĐNN8
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 6 năm 1989
|
LUẬT
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỦA QUỐC HỘI SỐ
20-LCT/HĐNN8 NGÀY 30/06/1989
Để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực của cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương;
Căn cứ vào Điều 7 và Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy định việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín.
Điều 2
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử làm
đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, trừ những người mất trí
và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.
Công dân đang ở trong Quân đội
nhân dân có quyền bầu cử và có quyền ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 3
Đại biểu Hội đồng nhân dân phải
là người trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có hiểu biết về quản lý
Nhà nước, kinh tế, xã hội, hiểu biết và gương vẫn chấp hành pháp luật, có năng
lực thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu Hội đồng nhân dân, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Điều 4
Công dân có đủ điều kiện và tiêu
chuẩn quy định ở Điều 2 và Điều 3 của Luật này chỉ được bầu
làm đại biểu Hội đồng nhân dân không quá hai cấp; nếu đang là đại biểu Quốc hội,
thì chỉ được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân một cấp.
Điều 5
Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu
Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân
dân.
Điều 6
Quyền giới thiệu người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân thuộc về các tổ chức xã hội, các tập thể cử tri ở cơ sở,
các đơn vị Quân đội nhân dân.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
ở địa phương có trách nhiệm tổ chức hội nghị hiệp thương để giới thiệu danh
sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và cùng với các cơ quan
chính quyền tổ chức việc bầu cử.
Điều 7
Hội đồng Nhà nước giám sát việc
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm cho các cuộc bầu cử tiến hành dân chủ,
đúng pháp luật.
Hội đồng bộ trưởng chỉ đạo Uỷ
ban nhân dân các cấp thực hiện công tác bầu cử theo pháp luật.
Điều 8
Kinh phí về tổ chức bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân do ngân sách Nhà nước đài thọ.
Chương 2:
SỐ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN, ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 9
Số đại biểu Hội đồng nhân dân của
mỗi cấp như sau:
1- Hội đồng nhân dân xã, phường,
thị trấn:
Xã và thị trấn miền xuôi có từ
ba nghìn người trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên ba nghìn người
thì cứ thêm năm trăm người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được
quá ba mười lăm đại biểu.
Xã và thị trấn miền núi và hải đảo
có từ một nghìn người trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên một
nghìn người thì cứ thêm hai trăm người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không được quá ba mươi lăm đại biểu.
Xã có từ năm trăm người trở xuống
được bầu mười lăm đại biểu.
Phường có từ ba nghìn người trở
xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên ba nghìn người thì cứ thêm một
nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại
biểu.
2- Hội đồng nhân dân huyện, quận,
thị xã và thành phố thuộc tỉnh:
Huyện miền xuôi và quận có từ bảy
mươi nghìn người trở xuống được bầu ba mươi lăm đại biểu, có trên bảy mươi
nghìn người thì cứ thêm tám nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng
số không quá năm mươi đại biểu.
Huyện miền núi và hải đảo có từ
ba mươi nghìn người trở xuống được bầu ba mươi lăm đại biểu, có trên ba mươi
nghìn người thì cứ thêm ba nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá năm mươi đại biểu.
Thị xã có từ ba mươi nghìn người
trở xuống được bầu ba mươi lăm đại biểu, có trên ba mươi nghìn người thì cứ
thêm năm nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá năm
mươi đại biểu.
Thành phố thuộc tỉnh có bảy mươi
nghìn người trở xuống được bầu ba mươi lăm đại biểu, có trên bảy mươi nghìn người
thì cứ thêm mười nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không
quá năm mươi đại biểu.
3- Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương:
Tỉnh miền xuôi và thành phố trực
thuộc trung ương có từ một triệu người trở xuống được bầu sáu mươi đại biểu, có
trên một triệu người thì cứ thêm hai mươi nghìn người được bầu thêm một đại biểu,
nhưng tổng số không được quá một trăm đại biểu.
Tỉnh miền núi có từ năm trăm
nghìn người trở xuống được bầu sáu mươi đại biểu, có trên năm trăm nghìn người
thì cứ thêm mười lăm nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không được quá một trăm đại biểu.
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh được bầu không quá một trăm hai mươi đại biểu.
Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo được
bầu năm mươi đại biểu.
Điều 10
Đại biểu Hội đồng nhân dân được
bầu theo đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu
không quá ba đại biểu.
Điều 11
Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương, danh sách
các đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và cấp tương đương ấn định và phải được Hội đồng bộ trưởng phê
chuẩn.
Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp khác, danh sách các đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị do Uỷ
ban nhân dân cùng cấp ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp
phê chuẩn.
Điều 12
Danh sách các đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp nào phải được Uỷ ban nhân dân cấp ấy công bố, chậm
nhất là năm mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 13
Mỗi đơn vị bầu cử có thể chia
thành nhiều khu vực bỏ phiếu; mỗi khu vực bỏ phiếu gồm từ năm trăm đến bốn
nghìn người.
Đối với những xã và thị trấn miền
xuôi có dưới bốn nghìn người, cũng như đối với những bản buôn, thôn xóm cách
nhau quá xa ở miền núi, hải đảo thì dù chưa tới năm trăm người cũng có thể
thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Các bệnh viện, nhà an dưỡng, nhà
hộ sinh, nhà nuôi người tàn tật có từ năm mươi cử tri trở lên có thể tổ chức
khu vực bỏ phiếu riêng.
Điều 14
Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên
trực tiếp phê chuẩn.
Điều 15
Các đơn vị Quân đội nhân dân tổ
chức khu vực bỏ phiếu riêng.
Chương 3:
HỘI ĐỒNG BẦU CỬ, BAN BẦU
CỬ, TỔ BẦU CỬ
Điều 16
Những tổ chức phụ trách bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân gồm có: Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử.
Điều 17
Chậm nhất là sáu mươi ngày trước
ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc cấp ấy có trách nhiệm thành lập Hội đồng bầu cử có từ năm đến hai
mươi mốt người gồm đại diện các tổ chức xã hội và tập thể cử tri ở địa phương.
Hội đồng bầu cử bầu Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và Thư ký.
Danh sách Hội đồng bầu cử tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương phải báo cáo lên Hội đồng
Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng và Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc.
Danh sách Hội đồng bầu cử các cấp khác phải báo cáo lên Thường trực Hội đồng nhân
dân cùng cấp, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc cấp trên trực tiếp.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ
và quyền hạn như sau:
1- Kiểm tra, đôn đốc việc thi
hành pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong địa phương;
2- Xét và giải quyết những khiếu
nại về công tác bầu cử của các Ban bầu cử và Tổ bầu cử;
3- Nhận hồ sơ, nhận và công bố
danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, xét và giải quyết những
khiếu nại về việc lập danh sách đó;
4- Nhận tài liệu và phiếu bầu cử
của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và phân phối cho các Ban bầu cử chậm nhất là hai
mươi ngày trước ngày bầu cử;
5- Nhận và kiểm tra biên bản bầu
cử do các Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả cuộc bầu cử trong địa
phương;
6- Công bố kết quả cuộc bầu cử;
7- Chuyển giao biên bản tổng kết
bầu cử cho Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cùng cấp và cấp trên trực tiếp; nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương, thì chuyển giao
biên bản tổng kết bầu cử cho Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, đồng thời gửi lên Hội đồng Nhà nước, Hội đồng bộ
trưởng và Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chuyển giao hồ sơ tài liệu
về cuộc bầu cử cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Điều 18
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước
ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc cấp ấy có trách nhiệm thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử
có từ năm đến mười lăm người, gồm đại diện các tổ chức xã hội và tập thể cử tri
ở địa phương.
Ban bầu cử bầu Trưởng ban, Phó
Trưởng ban và Thư ký.
Ban bầu cử có những nhiệm vụ và
quyền hạn như sau:
1- Kiểm tra, đôn đốc các Tổ bầu
cử chấp hành đúng pháp luật về bầu cử;
2- Kiểm tra việc lập và niêm yết
danh sách cử tri;
3- Nhận tài liệu và phiếu bầu cử
của Hội đồng bầu cử. Phân phối tài liệu và phiếu bầu cử cho các Tổ bầu cử, chậm
nhất là mười ngày trước ngày bầu cử;
4- Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí
các phòng bỏ phiếu và công việc bầu cử ở tất cả các phòng bỏ phiếu;
5- Xét và giải quyết những khiếu
nại về công tác của các Tổ bầu cử;
6- Nhận, tổng hợp và kiểm tra
biên bản kiểm phiếu do các Tổ bầu cử gửi đến, trên cơ sở đó lập biên bản xác định
kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình;
7- Chuyển giao biên bản xác định
kết quả bầu cử cho Hội đồng bầu cử và Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
Điều 19
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị
trấn có trách nhiệm thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử có từ năm đến
chín người gồm đại diện các tổ chức xã hội, tập thể cử tri ở địa phương. Trong
trường hợp đơn vị bầu cử chỉ có một khu vực bỏ phiếu thì Ban bầu cử kiêm nhiệm
vụ của Tổ bầu cử.
Các đơn vị Quân đội nhân dân
thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử gồm các đại biểu quân
nhân trong đơn vị.
Tổ bầu cử bầu Tổ trưởng, Tổ phó
và Thư ký.
Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và
quyền hạn như sau:
1- Phụ trách công tác bầu cử
trong khu vực bỏ phiếu;
2- Bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn
bị hòm phiếu;
3- Phát phiếu bầu cử có đóng dấu
của Tổ bầu cử cho các cử tri;
4- Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh
nội quy của phòng bỏ phiếu;
5- Kiểm phiếu và làm biên bản kiểm
phiếu;
6- Xét và giải quyết những khiếu
nại về công tác bầu cử ở khu vực bỏ phiếu;
7- Chuyển giao biên bản kiểm phiếu
và tất cả những phiếu bầu cử cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn; chuyển
giao biên bản kiểm phiếu cho Ban bầu cử và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường,
thị trấn.
Điều 20
Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ
bầu cử không được vận động cho những người ứng cử.
Chương 4:
DANH SÁCH CỬ TRI
Điều 21
Khi lập danh sách cử tri, những
công dân có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều được ghi tên
vào danh sách cử tri ở nơi mình cư trú.
Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào
một danh sách cử tri.
Điều 22
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri trong các đơn vị
Quân đội nhân dân do ban chỉ huy đơn vị lập theo mỗi khu vực bỏ phiếu.
Điều 23
Chậm nhất là ba
mươi ngày trước ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri phải niêm yết danh
sách đó ở trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và ở những nơi công cộng
của khu vực bỏ phiếu; đồng thời phải thông báo rộng rãi danh sách đó và việc
niêm yết để nhân dân kiểm tra danh sách cử tri.
Điều 24
Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu
thấy có sai lầm hoặc thiếu sót, thì trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày
niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng giấy hoặc bằng miệng với
cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những
khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu
nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết xong và thông
báo cho người khiếu nại hoặc người báo cáo biết kết quả giải quyết.
Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo
không đồng ý về cách giải quyết đó, thì có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Toà án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Toà
án nhân dân là quyết định cuối cùng.
Điều 25
Từ khi công bố danh sách cử tri
cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào thay đổi nơi cư trú, thì có quyền xin giấy
chứng nhận của Uỷ ban nhân dân nơi đang cư trú để được ghi tên vào danh sách cử
tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi cư trú mới. Khi cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban nhân
dân phải ghi ngay vào danh sách cử tri, bên cạnh tên người đó: "Đi bỏ phiếu
nơi khác".
Chương 5:
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ỨNG
CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Điều 26
Chậm nhất là hai mươi ngày, kể từ
ngày công bố thời gian bầu cử, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương tổ chức hội
nghị hiệp thương để thoả thuận tỷ lệ số lượng người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp cho các tập thể cử tri ở cơ sở, các tổ chức xã hội, các đơn vị
Quân đội nhân dân.
Trên cơ sở tỷ lệ đã thoả thuận,
hội nghị các tập thể cử tri ở cơ sở, hội nghị các tổ chức xã hội các cấp, hội
nghị các cử tri ở xã, phường, thị trấn và hội nghị các đơn vị Quân đội nhân dân
tiến hành đề cử những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Tại các Hội nghị này, công dân
có quyền tự ứng cử hoặc đề cử người khác ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Người
ứng cử nếu được quá nửa số thành viên hội nghị tán thành, thì được ghi vào danh
sách đề cử của hội nghị.
Căn cứ vào danh sách đề cử của
các hội nghị nói trên, và tỷ lệ phân bổ, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc địa phương có
trách nhiệm tổ chức hội nghị hiệp thương để thỏa thuận lập danh sách những người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và phân bổ theo các đơn vị bầu cử.
Người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân địa phương nào phải là người cư trú hoặc công tác thường xuyên ở địa
phương đó.
Số người ứng cử ở mỗi đơn vị bầu
cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó để cử tri chọn bầu khi bỏ
phiếu.
Điều 27
Người ứng cử chỉ được ghi tên ứng
cử ở một đơn vị bầu cử và không được tham gia các tổ chức bầu cử quy định tại
Chương III của Luật này.
Điều
28
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương phải gửi đến Hội đồng bầu cử
danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo đơn vị bầu cử và hồ
sơ gồm có:
1- Đơn xin ứng cử của những người
ứng cử;
2- Giấy của Uỷ ban nhân dân địa
phương chứng nhận những người ứng cử có đủ điều kiện quy định tại Điều
2 của Luật này;
3- Tiểu sử tóm tắt những người ứng
cử.
Khi nhận các giấy tờ trên, Hội đồng
bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Hội đồng bầu cử công bố danh
sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử ít nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử.
Điều 29
Trong thời hạn hai mươi ngày kể
từ ngày danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân được công bố, cử
tri có quyền tìm hiểu tiểu xử và hoạt động của những người ứng cử, ai thấy
trong danh sách có sai lầm hoặc thiếu sót thì có quyền khiếu nại, báo cáo bằng
giấy hoặc bằng miệng với Hội đồng bầu cử. Hội đồng bầu cử phải ghi vào sổ những
báo cáo hoặc khiếu nại hoặc báo cáo đó.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, Hội đồng bầu cử phải giải quyết; quyết định
của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
Điều 30
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức xã hội ở các cấp, tập thể cử tri ở cơ sở và đơn vị quân đội tổ
chức tiếp xúc giữa những người ứng cử với cử tri và theo quy định của pháp luật
có quyền cổ động cho những người ứng cử.
Người ứng cử phải báo cáo rõ
chương trình hành động của mình trước cử tri, có quyền cổ động cho mình trong
phạm vi pháp luật quy định.
Chương 6:
TRÌNH TỰ BẦU CỬ
Mục 1: THỜI
GIAN BẦU CỬ
Điều
31
Hội đồng Nhà nước ấn định ngày bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Ngày bầu cử phải được ấn định
vào ngày chủ nhật và công bố chậm nhất là chín mươi ngày trước ngày bầu cử.
Trong trường hợp đặc biệt không
thể tiến hành bầu cử theo đúng nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân thì Hội đồng Nhà
nước xét định.
Điều 32
Trong thời hạn mười ngày trước
ngày bầu cử, tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử,
nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng mọi phương tiện thông tin của địa phương.
Mục
2: THỂ THỨC BỎ PHIẾU
Điều 33
Cuộc bỏ phiếu tiến hành từ bảy
giờ đến mười chín giờ cùng ngày. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết
định cho bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn giờ quy định, nhưng không được
kéo dài quá hai mươi hai giờ.
ở nơi nào đã có 100% số cử tri
đi bầu thì Tổ bầu cử có thể kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn.
Điều 34
Cử tri chỉ có quyền bỏ một phiếu
bầu và phải tự mình đi bầu, không được nhờ người bầu thay, không được bầu bằng
cách gửi thư, trừ trường hợp nói ở Điều 35 của Luật này.
Điều 35
Cử tri không tự viết phiếu được
thì có thể nhờ người viết hộ. Người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử
tri đó và cử tri phải tự bỏ phiếu. Nếu vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì cử
tri có thể nhờ người bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật
không đến phòng bỏ phiếu được thì có thể đề nghị Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ
và phiếu bầu đến chỗ ở để bỏ phiếu. Trong trường hợp này, Tổ bầu cử có thể mang
hòm phiếu phụ đến chỗ ở của cử tri để nhận phiếu bầu.
Điều 36
Khi cử tri viết phiếu, không ai
được đến xem, kể cả nhân viên Tổ bầu cử.
Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đề
nghị Tổ bầu cử đổi phiếu khác.
Điều 37
Mọi người đều phải tuân theo nội
quy của phòng bỏ phiếu. Không ai được tuyên truyền cổ động cho người ứng cử tại
phòng bỏ phiếu.
Điều 38
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn
một số cử tri có mặt ở phòng bỏ phiếu chưa kịp bỏ phiếu, thì sau khi số cử tri
đó bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều 39
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu
phải tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu,
thì Tổ bầu cử phải lập tức liêm phong các giấy tờ và hòm phiếu rồi báo cáo cho
Ban bầu cử biết; đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để cuộc bỏ phiếu
được tiếp tục.
Điều 40
Nếu vì lý do đặc biệt cần hoãn
ngày bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử biết để đề
nghị Hội đồng bầu cử xét định.
Chương
7:
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Mục 1: VIỆC
KIỂM PHIẾU
Điều 41
Việc kiểm phiếu phải được tiến
hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, Tổ bầu cử phải mời
hai cử tri không phải là người ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử và các phóng viên
báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, đài truyền hình, đài phát thanh được xem kiểm phiếu.
Điều 42
Những phiếu sau đây là không hợp
lệ:
1- Không phải là phiếu theo mẫu
quy định do Tổ bầu cử phát ra;
2- Không có dấu của Tổ bầu cử;
3- Ghi tên người ứng cử quá số đại
biểu được bầu.
Điều 43
Phiếu trắng là phiếu xoá hết tên
những người ứng cử đã ghi trên phiếu bầu.
Điều 44
Khi nghi ngờ phiếu nào là phiếu
không hợp lệ hoặc là phiếu trắng thì Tổ trưởng Tổ bầu cử phải đưa ra toàn tổ giải
quyết.
Điều
45
Những phiếu có ghi tên những người
ứng cử cùng với tên những người không ứng cử vẫn được coi là phiếu hợp lệ, song
không kể tên những người không ứng cử.
Tổ bầu cử không được xoá hoặc chữa
các tên ghi trên phiếu bầu.
Điều 46
Những khiếu nại tại chỗ về việc
kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản.
Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được thì phải đưa lên Ban bầu cử để giải quyết.
Điều 47
Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải
lập biên bản ghi rõ:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ
phiếu;
- Số phiếu phát ra; số phiếu thu
vào;
- Số cử tri đã đi bầu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Những khiếu nại đã nhận được
và cách giải quyết, những khiếu nại chưa giải quyết được.
Biên bản làm thành ba bản có chữ
ký của Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu; một
bản gửi Ban bầu cử, một bản gửi Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, một bản gửi
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
Mục 2: KẾT
QUẢ BẦU CỬ Ở ĐƠN VỊ BẦU CỬ
Điều 48
Sau khi nhận được biên bản của
các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết
quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Hội đồng nhân dân ấn
định cho đơn vị bầu cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu
cử;
- Số phiếu phát ra; số phiếu thu
vào;
- Số cử tri đã đi bầu, số cử tri
không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do Tổ bầu cử
đã giải quyết;
- Những khiếu nại do Ban bầu cử
đã giải quyết; những khiếu nại chuyển lên Hội đồng bầu cử giải quyết.
Biên bản làm thành bốn bản, có
chữ ký của Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Thư ký; một bản gửi Hội đồng bầu cử, một
bản gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp với Ban bầu cử. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, thì biên bản làm thành ba bản.
Điều 49
Những người ứng cử được quá nửa
số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Nếu có nhiều người được số
phiếu ngang nhau thì Hội đồng bầu cử xét, quyết định người trúng cử theo đề nghị
của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử ấy.
Mục 3: VIỆC BẦU
THÊM HOẶC BẦU LẠI
Điều 50
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu
số người trúng cử chưa đủ hai phần ba số đại biểu đã quy định cho đơn vị bầu cử,
thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu
cử để quyết định ngày bầu thêm số đại biểu còn thiếu, chậm nhất là mười lăm
ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong
danh sách những người ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu. Nếu bầu thêm mà chưa
đủ số đại biểu, thì không tổ chức bầu thêm lần thứ hai.
Điều 51
ở đơn vị bầu cử nào, nếu số cử
tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì Ban bầu cử phải
ghi rõ điều đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định
ngày bầu lại, chậm nhất là mười lăm ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu
lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử kỳ đầu.
Điều 52
Việc bầu thêm hoặc bầu lại vẫn
căn cứ vào danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và theo những điều
đã quy định trong Luật này.
Mục 4: TỔNG KẾT
BẦU CỬ
Điều 53
Sau khi nhận được biên bản của
các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại, nếu có, Hội đồng bầu cử làm biên
bản tổng kết cuộc bầu cử.
Hội đồng bầu cử tuyên bố công
khai kết quả cuộc bầu cử theo nội dung biên bản tổng kết quy định tại Điều 54 của Luật này chậm nhất là:
- Năm ngày, sau ngày bầu cử đối
với Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Bảy ngày, sau ngày bầu cử đối
với Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
- Mười ngày, sau ngày bầu cử đối
với Hội đồng nhân dân huyện miền núi, hải đảo, tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và cấp tương đương;
- Mười năm ngày, sau ngày bầu cử
đối với Hội đồng nhân dân tỉnh miền núi.
Điều 54
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu ấn định cho Hội
đồng nhân dân cấp đó;
- Tổng số người ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Số phiếu phát ra; số phiếu thu
vào;
- Số cử tri đi bầu, số cử tri
không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Các việc quan trọng đã xảy ra
và cách giải quyết.
Biên bản làm thành sáu bản, có
chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng bầu cử; một bản gửi
Thường trực Hội đồng nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc cấp bầu Hội đồng nhân dân; một bản gửi Thường trực Hội đồng
nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp
trên trực tiếp; nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và cấp tương đương thì một bản gửi Thường trực Hội đồng
nhân dân, Một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng
cấp, Một bản gửi Hội đồng Nhà nước, một bản gửi Hội đồng bộ trưởng, một bản gửi
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân xã, phường, thị trấn, thì biên bản làm thành năm bản.
Điều 55
Hội đồng Nhà nước quyết định huỷ
bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị nào có những vi phạm pháp luật
nghiêm trọng. Hội đồng Nhà nước ấn định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân ấy.
Điều 56
Trong thời gian từ ngày công bố
kết quả bầu cử đến kỳ họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân khoá mới, nếu khuyết đại
biểu, thì Hội đồng bầu cử cùng cấp với Hội đồng nhân dân lấy người có số phiếu
cao nhất trong số những người được quá nửa số phiếu hợp lệ nhưng không trúng cử
ở đơn vị bầu cử đại biểu bị khuyết, để bổ sung.
Chương 8:
VIỆC BẦU CỬ BỔ SUNG ĐẠI
BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 57
Trong nhiệm kỳ, trường hợp khuyết
đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể được tổ chức bầu bổ sung theo Luật định.
Việc bầu bổ sung đại biểu Hội đồng
nhân dân tiến hành theo thể thức bầu cử được quy định trong Luật này.
Ngày bầu cử bổ sung phải được
công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 58
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân dân và Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cấp ấy có trách nhiệm thành lập Hội đồng bầu cử bổ sung từ
ba đến năm người để phụ trách việc bầu cử bổ sung ở địa phương, và chậm nhất là
mười lăm ngày trước ngày bầu cử, thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử bổ sung một ban
bầu cử từ ba đến năm người gồm đại diện các tổ chức xã hội.
Hội đồng bầu cử bổ sung bầu Chủ
tịch và Thư ký.
Ban bầu cử bổ sung bầu Trưởng
ban và Thư ký.
Điều 59
Chậm nhất là mười ngày trước
ngày bầu cử bổ sung, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc có trách nhiệm thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử bổ sung từ
năm đến bảy người gồm đại diện các tổ chức xã hội ở cơ sở.
Tổ bầu cử bổ sung bầu Tổ trưởng,
Tổ Phó và Thư ký.
Điều 60
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng
bầu cử bổ sung, Ban bầu cử bổ sung, Tổ bầu cử bổ sung, theo những quy định đối
với Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử quy định tại luật này.
Điều 61
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn lập và công bố chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu
cử bổ sung.
Điều 62
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa
phương phải tổ chức Hội nghị hiệp thương để lập danh sách những người ứng cử chậm
nhất là mười ngày trước ngày bầu cử bổ sung. Hội đồng bầu cử bổ sung phải công
bố danh sách đó chậm nhất là bảy ngày trước ngày bầu cử bổ sung.
Chương 9:
VIỆC BÃI MIỄN ĐẠI BIỂU HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 63
Tuỳ theo mức độ phạm sai lầm, đại
biểu Hội đồng nhân dân có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn hoặc đưa ra để cử
tri ở đơn vị bầu ra đại biểu ấy bãi miễn, theo đề nghị của Thường trực Hội đồng
nhân dân hoặc của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
Điều 64
Việc bãi miễn một đại biểu Hội đồng
nhân dân hoặc việc đưa một đại biểu Hội đồng nhân dân ra để cử tri bãi miễn, phải
được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán
thành.
Hội đồng nhân dân bãi miễn đại
biểu thì phải thông báo rộng rãi cho nhân dân biết.
Điều 65
Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp
ấn định ngày cử tri bỏ phiếu bãi miễn. Nếu bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương thì Hội đồng bộ trưởng
ấn định ngày bỏ phiếu bãi miễn.
Ngày cử tri bỏ phiếu bãi miễn phải
được công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bỏ phiếu. Thể thức tổ chức để
cử tri bỏ phiếu bãi miễn do Hội đồng bộ trưởng quy định.
Điều 66
Phải có quá nửa tổng số cử tri
trong đơn vị bầu cử bỏ phiếu bãi miễn thì việc bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân
dân mới có giá trị.
Chương
10:
VIỆC XỬ LÝ NHỮNG VI PHẠM
LUẬT BẦU CỬ
Điều 67
Người nào có hành vi sau đây thì
tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý kỷ Luật, xử lý hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự:
a) Lừa gạt, mua chuộc hoặc dùng
thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử của công dân;
b) Có trách nhiệm trong việc tổ
chức, giám sát việc bầu cử hoặc bãi miễn mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc
dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử hoặc bãi miễn đại biểu Hội đồng
nhân dân.
Chương
11:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 68
Luật này thay thế Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ngày 26 tháng 12 năm 1983.
Những quy định trước đây trái với
Luật này đều bị bãi bỏ.
Điều 69
Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết
thi hành Luật này.
Luật này đã được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 5 thông qua
ngày 30 tháng 6 năm 1989.