BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 34-KL/TW
|
Hà Nội, ngày
18 tháng 4 năm 2022
|
KẾT LUẬN
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
VỀ CHIẾN LƯỢC CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG ĐẾN
NĂM 2030
Qua hơn 10 năm thực hiện Kết luận số 72-KL/TW,
ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị khoá X về Chiến lược công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng đến năm 2020 (gọi tắt là Chiến lược), nhận thức của cán bộ, đảng
viên, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát được nâng lên; hệ thống văn bản của
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát cơ bản được ban hành đồng bộ, thống nhất; nội
dung, đối tượng kiểm tra, giám sát được thực hiện toàn diện, có trọng tâm, trọng
điểm. Uỷ ban kiểm tra các cấp được kiện toàn về tổ chức, cán bộ, bổ sung nhiệm
vụ, thẩm quyền; tích cực, chủ động tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật. Chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát được nâng lên, góp phần quan trọng vào công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.
Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chiến
lược ở một số nơi chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt; có nhiệm vụ, giải pháp
chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa toàn diện, đồng bộ, hiệu quả thấp. Một số
ban cán sự đảng, đảng đoàn, ban tham mưu của cấp uỷ, tổ chức đảng ở cơ sở chưa
thực sự quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; tổ
chức đảng trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập chưa
coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát, chất lượng còn nhiều hạn chế.
Chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật từ
Trung ương tới địa phương.
Những năm tới đây, tình hình thế giới, khu vực
tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đất nước đang đứng trước những thời cơ,
thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Bốn nguy cơ đối với Đảng, chế độ mà
Đảng ta đã chỉ ra có mặt còn gay gắt hơn. Tình trạng tham nhũng, vi phạm pháp
luật, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ còn diễn biến phức tạp. Đáng
chú ý là có sự cấu kết, bao che, tiếp tay của một bộ phận cán bộ, đảng viên
thoái hoá, biến chất, rất tinh vi, phức tạp, nghiêm trọng, liên quan đến nhiều
cấp, nhiều ngành...
Nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, tích cực góp phần xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời với việc tiếp tục
thực hiện Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị khoá X, Chiến
lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030, cần tập trung thực hiện
tốt các nội dung sau:
I- MỤC TIÊU
- Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và
hành động của các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, sự đoàn kết, thống nhất và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; chủ động
phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, kiên quyết xử lý suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị.
- Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực,
hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật của Đảng; bổ sung, hoàn thiện phương pháp, nội dung công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng trong tình hình mới.
- Đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng
viên để phát huy, nhân rộng, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn,
khắc phục và xử lý nghiêm khi có vi phạm.
II- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1. Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp uỷ đối với công tác kiểm tra, giám sát
- Cấp uỷ các cấp ban hành đầy đủ, kịp thời các
nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế... về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật;
đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Kịp thời phát hiện, biểu
dương, nhân rộng những nhân tố mới, cách làm hay, điển hình tốt, phát huy sự
năng động, sáng tạo của tổ chức đảng, đảng viên trong công tác kiểm tra, giám
sát.
- Cấp uỷ các cấp ban hành quy chế phối hợp giữa
uỷ ban kiểm tra với cơ quan điều tra, thanh tra, kiểm toán, viện kiểm sát, toà
án nhân dân cùng cấp; chỉ đạo phối hợp chặt chẽ, không để chồng chéo trong tổ
chức thực hiện.
- Cấp uỷ, nhất là người đứng đầu thường xuyên
làm việc với uỷ ban kiểm tra để nắm tình hình, kết quả thực hiện, kịp thời chỉ
đạo, định hướng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra.
2. Tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
- Thực hiện kiểm tra, giám sát theo phương châm
giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào việc
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng;
các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm; việc thực hành tiết kiệm, phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; kê khai tài sản, thu nhập,... Tăng cường
kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp
luật, kịp thời ngăn chặn vi phạm trong ban hành văn bản pháp luật, lồng ghép
"lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ. Mở rộng giám sát trên tất cả các địa
bàn, lĩnh vực; chú trọng vào những nơi nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, dư luận
xã hội quan tâm; nâng cao tính chủ động để kịp thời nhắc nhở, cảnh báo, phòng
ngừa, ngăn chặn vi phạm từ sớm, từ xa.
- Chủ động kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, tập
trung vào những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực,
nhất là kiểm tra dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội. Xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp
thời, triệt để, đồng bộ các tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm.
- Cấp uỷ, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cấp uỷ
viên và cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý phải thường xuyên tự kiểm tra, kịp thời
phát hiện những hạn chế, khuyết điểm để chủ động khắc phục, chấn chỉnh không để
dẫn đến vi phạm. Kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên không đủ năng lực, uy
tín; việc miễn nhiệm, từ chức, trách nhiệm người đứng đầu khi cấp có thẩm quyền
kết luận đã để xảy ra tham nhũng, tiêu cực ở cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản
lý, phụ trách.
- Uỷ ban kiểm tra cấp trên thường xuyên, kịp thời
chỉ đạo, hướng dẫn cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra cấp dưới trong công
tác kiểm tra, giám sát, nhất là trong xử lý các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp,
dễ xảy ra vi phạm, các vụ việc về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích
nhóm"; kịp thời xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên suy thoái, "tự
diễn biến", "tự chuyển hoá" ngay tại cơ sở, chi bộ.
3. Chủ động dự báo, kịp thời
ban hành các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
- Đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chủ động dự báo sớm, cung cấp cơ
sở khoa học để kịp thời tham mưu cho Đảng về các chủ trương, đường lối, giải
pháp có tính chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh.
- Chủ động nghiên cứu, tham mưu, ban hành các
văn bản của Đảng bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, đồng thời tăng cường
trách nhiệm, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kịp thời thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng;
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong thực
hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, khuyết điểm;
phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực.
- Tập trung xây dựng, hoàn thiện các quy định về
cơ chế phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên;
cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, việc
thực thi quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý; quy định các hành vi vi phạm,
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cơ chế về kiểm soát tài sản,
thu nhập, quyền lực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán…
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công
nghệ trong hoạt động của ngành Kiểm tra. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật từ Trung ương đến cơ sở phục vụ công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, nghiên cứu, dự báo, tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát, kỷ luật.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ
kiểm tra công minh, liêm chính; tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp
đồng bộ, tinh gọn
- Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban
kiểm tra các cấp bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả. Phân định rõ tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của cơ quan uỷ ban kiểm tra
các cấp; quy định cụ thể cơ cấu, số lượng uỷ viên uỷ ban kiểm tra kiêm nhiệm ở
các cấp.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra liêm khiết,
công minh, chính trực, có bản lĩnh, dũng khí đấu tranh, gương mẫu, giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, tận tuỵ, trách nhiệm.
Ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn, khung năng lực cán bộ làm công tác kiểm tra theo
hướng chuyên nghiệp. Thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra các cấp để đào tạo,
rèn luyện cán bộ. Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh chế độ, chính sách đối với
cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp.
- Xây dựng giáo trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp
vụ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật cho cấp uỷ viên, cán bộ kiểm tra các cấp.
Thường xuyên cập nhật kiến thức, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp uỷ viên,
uỷ viên uỷ ban kiểm tra các cấp.
- Nghiên cứu để báo cáo cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định thí điểm cơ chế đại hội đảng bộ bầu uỷ ban kiểm tra; uỷ ban kiểm
tra cấp trên lựa chọn, giới thiệu, chuẩn y... thành viên uỷ ban kiểm tra cấp dưới.
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các cấp uỷ, tổ chức đảng chỉ đạo quán
triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện Kết luận này.
2. Giao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xây dựng
Kế hoạch thực hiện; phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực hiện và
kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị,
Ban Bí thư.
Nơi nhận:
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương,
- Các đảng uỷ đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Uỷ viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BỘ CHÍNH
TRỊ
Võ Văn Thưởng
|