BỘ
NỘI VỤ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------
|
Số:
04/ĐA-BNV
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 01 năm 2003
|
ĐỀ ÁN
MỘT
SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ VÙNG TÂY NGUYÊN (GIAI
ĐOẠN 2002 – 2010)
Bốn tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk
và Lâm Đồng thuộc Tây Nguyên (gọi chung là vùng Tây Nguyên) có tổng diện tích
tự nhiên 54.474 km2, có gần 600 km đường biên giới với Lào và
Campuchia, có khoảng 4,7 triệu dân của 44 dân tộc sinh sống trong đó 1,57 triệu
người dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 33,5% dân số toàn vùng. Toàn vùng có 51 đơn
vị hành chính cấp huyện (trong đó: 3 thành phố và 2 thị xã), có 605 đơn vị hành
chính cấp xã (trong đó: 510 xã, 47 phường và 48 thị trấn).
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược về
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, là vùng có tiềm năng lớn về
tài nguyên đất đai, khoáng sản để phát triển nông – lâm nghiệp, thủy điện và
một số ngành công nghiệp. Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu về
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, tình hình trong vùng cũng
nảy sinh nhiều vấn đề mới phức tạp, bức xúc, qua đó bộc lộ nhiều điểm yếu kém
trong tổ chức và hoạt động của chính quyền xã, phường, thị trấn. Trình độ kiến
thức về các mặt và năng lực điều hành, quản lý, thuyết phục, tập hợp quần chúng
của đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung còn yếu, khi có vụ việc phức tạp xảy ra thì
không nắm và tập hợp được dân, không chủ động tìm giải pháp hợp lý để giải
quyết tình hình, mất phương hướng, trông chờ cấp trên.
Sau sự kiện tháng 2/2001, các tỉnh
vùng Tây Nguyên đã quyết định tăng cường cán bộ cấp tỉnh và cấp huyện về cơ sở
nhằm cùng chính quyền cơ sở bám sát dân, nắm chắc tình hình, giải quyết sự việc
tại chỗ, tuyên truyền vận động nhân dân giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội, an tâm lao động sản xuất. Giải pháp này tuy đạt được một số kết
quả nhưng mới chỉ bước đầu, chưa vững chắc, chủ trương và chính sách của các
tỉnh đối với cán bộ tăng cường cũng khác nhau và chưa thống nhất. Vì vậy cần
kết hợp thêm với một số giải pháp khác.
Căn cứ nhiệm vụ Thủ tướng giao cho
Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) tại Quyết định số 168/QĐ-TTg
ngày 30/10/2001 về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và những
giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên; Bộ Nội vụ nghiên
cứu, xây dựng Đề án này.
I. THỰC TRẠNG
TỔ CHỨC, CÁN BỘ CƠ SỞ VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CƠ SỞ VÙNG TÂY
NGUYÊN
1. Về tổ chức và
chất lượng cán bộ cơ sở
a. Tổ chức, cán bộ
xã:
Thực hiện Nghị định số 09/1998/NĐ-CP
của Chính phủ, các tỉnh Tây Nguyên có đa số các xã dân số dưới 10.000 người,
nên hầu hết mỗi xã được bố trí 19 cán bộ. Toàn vùng có 12.846 cán bộ xã,
phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ; trong đó
có: 3.170 cán bộ chủ chốt của Đảng và chính quyền (không tính chức vụ
kiêm nhiệm); 3.001 Chủ tịch Mặt trận và các đoàn thể; 2.261 cán
bộ 4 chức danh chuyên môn và 1.346 cán bộ các chức danh khác. Số cán bộ
là người dân tộc ít người có 3.992 (chiếm 31,07%), cán bộ là nữ
có 1.086 (chiếm 8,45%).
Ngoài định mức của Nghị định số
09/1998/NĐ-CP thì mỗi xã còn được bố trí 5 cán bộ phó các đoàn thể, với tổng số
toàn vùng là 3.025 cán bộ. Do đặc điểm địa hình miền núi phức tạp, nhiều
xã thuộc địa bàn xung yếu, vùng biên giới có yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh –
trật tự nên đã bố trí Trưởng Công an chuyên trách và thêm chức danh Phó Trưởng
Công an và Phó Xã đội trưởng (trước khi có Nghị định số 40/1999/NĐ-CP về Công
an xã và Nghị định số 46/2000/NĐ-CP về thi hành Pháp lệnh dân quân tự vệ).
Về cơ cấu thành viên Ủy ban nhân
dân, các tỉnh thực hiện đúng với quy định theo Nghị định số 174/CP của Chính
phủ và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP , nhưng khi Nghị định số 40/1999/NĐ-CP của
Chính phủ ban hành, phát sinh thêm chức danh Trưởng Công an chuyên trách, không
thực hiện theo quy định Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm nhiệm như Nghị định
số 174/CP; đồng thời, Trưởng Công an được cơ cấu ủy viên Ủy ban nhân dân.
b. Trưởng thôn.
Thôn, buôn ở Tây Nguyên có vị trí
rất quan trọng, là cộng đồng dân cư tự quản trong việc bảo đảm an ninh, trật tự
nông thôn, phát huy bản sắc văn hóa tiên tiến của các dân tộc, giúp đỡ nhau
trong cuộc sống, đồng thời giúp chính quyền các cấp một số nội dung về quản lý.
Nếu thôn, buôn ổn định, đoàn kết giúp đỡ nhau sẽ tạo ra động lực thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển. Do đó vai trò, vị trí của trưởng thôn, buôn rất quan
trọng trong tình hình hiện nay.
Theo số liệu thống kê của các tỉnh,
vùng Tây Nguyên có 6.387 Trưởng thôn, buôn, làng, tổ dân phố (gọi chung
là Trưởng thôn). Trưởng thôn là người đại diện cho thôn do nhân
dân thôn bầu ra với nhiệm kỳ thường từ 2 đến 2,5 năm và được chỉ định ở những
nơi tình hình an ninh chính trị có vấn đề nổi cộm.
Trưởng thôn có hai chức năng chủ
yếu:
- Thực hiện một số nhiệm vụ do UBND
xã giao như: quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, theo dõi biến động đất đai, thu thuế
nhà đất, lệ phí, …
- Tổ chức, vận động và hướng dẫn
các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức có trên địa bàn, thực hiện các công việc
mang tính tự quản tại cộng đồng như: trật tự trị an xã hội, lao động sản xuất,
phát triển kinh tế, vận động nhân dân đóng góp kinh phí, ngày công xây dựng cơ
sở hạ tầng trong thôn (đường, trường, hệ thống thủy lợi nội đồng, điện …), vận
động nhân dân thực hiện các phong trào do chính quyền và đoàn thể phát động, …
Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn
chế của Trưởng thôn như một số nơi Trưởng thôn lạm quyền, vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, có những quyết định gây thiệt hại tới tài sản của nhân dân, gây
bất bình trong nhân dân, nhất là ở những nơi chính quyền quan liêu, không sát
dân hoặc quản lý điều hành yếu.
Về chế độ đối với trưởng thôn, các
tỉnh vùng Tây Nguyên đã quyết định mức phụ cấp Trưởng thôn, trung bình từ 70.000
đ/tháng đến 90.000 đ/tháng. Tỉnh Đắk Lắk phụ cấp cho Trưởng thôn ở
các xã vùng biên giới 100.000đ/tháng. Ngoài chế độ phụ cấp hoạt động,
Trưởng thôn còn được hưởng chế độ khi đi lập huấn, bồi dưỡng.
c. Già làng
Khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên
trước đây chỉ tồn tại duy nhất có làng (tiếng địa phương gọi là Plêi). Trong đó
người có vai trò lãnh đạo cao nhất được suy tôn là Chủ làng (hay còn gọi là Già
làng) có độ tuổi từ 50 trở lên (cá biệt có nơi dưới 50 tuổi), có nhiều hiểu
biết phong tục, tập quán, lễ nghi, luật tục của dòng họ và của các dân tộc cùng
sinh sống trong làng, gương mẫu trong sinh hoạt và sản xuất, có uy tín được
nhân dân trong làng kính trọng, tôn sùng một cách tự nhiên và là người điều
khiển chung công việc của dòng tộc hoặc dân làng.
Hoạt động của già làng được tiến
hành theo nguyên tắc tự nguyện, không đòi hỏi thù lao. Các nội dung hoạt động
của già làng tập trung chủ yếu vào việc hòa giải mâu thuẫn trong nội bộ dòng
tộc, nội bộ các dân tộc cùng sinh sống trong một làng; nhắc nhở dân làng giữ
gìn tập tục, lễ nghi, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; già làng trực tiếp xét
xử đối với người dân trong làng khi vi phạm theo luật tục, tranh chấp nương
rẫy, vợ chồng không hòa thuận, hàng xóm, láng giềng đánh, cãi nhau, con cháu hư
hỏng; chủ trì các lễ hội, đám cưới, đám ma, cúng bái cầu mưa; đại diện cho dòng
tộc, cho dân làng trong quan hệ giao dịch, ứng xử với bên ngoài; vận động dân
làng đoàn kết thực hiện các phong trào do chính quyền và đoàn thể phát động …
Tuy nhiên vai trò của già làng ở
vùng ven đô thị lớn và ven các trục giao thông không được rõ nét như đối với
những buôn, làng ở vùng sâu, vùng xa. Qua sự kiện tháng 2/2001 ở một số thôn,
buôn vai trò của già làng bị mất hẳn, không nắm được dân, hoặc sợ, không điều
khiển được con cháu trong buôn, làng; bị khống chế và bị lôi kéo …
d. Chất lượng đội
ngũ cán bộ cơ sở
Trong những năm gần đây các tỉnh
vùng Tây Nguyên đã có sự quan tâm đến việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ cơ sở nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ thì còn nhiều cán bộ chưa đáp ứng
được. Đội ngũ cán bộ hiện nay ở cơ sở chủ yếu là cán bộ về hưu và bộ đội phục
viên, trình độ, năng lực không đồng đều. Chính sách đãi ngộ, sử dụng chưa phù
hợp, chưa tạo được động lực để thu hút cán bộ, hướng phát triển cán bộ chưa rõ,
… dẫn đến thiếu nguồn cán bộ để quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng.
Hiện nay, trình độ văn hóa của cán
bộ cơ sở ở các tỉnh trong vùng: Cấp I: 15,79 %, Cấp II: 36,91%, Cấp III:
47,30%. Trình độ quản lý Nhà nước từ sơ cấp trở lên 14,26%. Trình độ lý luận
chính trị: Sơ cấp 17,20%, Trung cấp 22,31%. Trình độ chuyên môn của 4 chức danh
chuyên môn: Sơ cấp 6,50%, Trung cấp 43,56%, Đại học 1,86%, Chưa đào tạo 48,08%.
So với các tỉnh trong khu vực, tỉnh Đắk Lắk có đội ngũ cán bộ cơ sở có trình độ
ở các mặt cao hơn các tỉnh khác.
2. Về công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở
Thực hiện Quyết định số 874/TTg của
Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 79/TTLT của Ban Tổ chức – Cán bộ
Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, thời gian
qua các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ cơ sở. Chỉ tính từ năm 1998 đến nay, kết quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cơ sở các tỉnh Tây Nguyên đạt được như sau:
a. Về đào tạo
- Tổng số cán bộ đã được đào tạo,
bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ từ sơ
cấp trở lên: 3.758/12.846 người (29,25%).
- Tổng số cán bộ đã được đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước từ trình độ sơ cấp trở lên: 1.832 người
(14,26%).
- Đối với cán bộ là Chủ tịch, Phó
Chủ tịch HĐND, UBND đã được đào tạo, bồi dưỡng trình độ trung cấp về quản lý
nhà nước và lý luận chính trị:
+ Trung cấp QLNN: 158/2.079 người
(7,60%).
+ Trung cấp LLCT: 938/2.079 người
(45,12%).
- Đối với cán bộ chuyên môn trình
độ trung cấp đã được đào tạo:
+ Trung cấp Văn phòng: 184/527
người (34,91%).
+ Trung cấp Pháp lý: 210/603 người (34,83%).
+ Trung cấp Tài chính: 347/605
người (57,35%).
+ Trung cấp Địa chính: 244/526
người (46,39%).
b. Về bồi dưỡng
Đã tiến hành bồi dưỡng kiến thức
cho các loại đối tượng cán bộ sau:
- Kiến thức quản lý Nhà nước: 3.917
người
- Kiến thức quản lý Nhà nước và kỹ
năng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân: 11.213 đại biểu
- Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
cho 4 chức danh chuyên môn: 1.060 người.
- Bồi dưỡng cán bộ mặt trận và các
đoàn thể: 1.987 người.
- Bồi dưỡng cán bộ thôn, buôn: 4.966
người.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở của các tỉnh vùng Tây Nguyên đã có nhiều cố gắng, từng bước nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt. Số cán bộ sau khi đào tạo, bồi dưỡng đã có
chuyển biến nhận thức và hiệu quả công việc. Ngoài ra ở một số địa phương đã tổ
chức các lớp bồi dưỡng tiếng địa phương cho cán bộ người kinh và cán bộ người
dân tộc thiểu số nhưng không biết tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh kết quả đã đạt được,
công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng
với yêu cầu, đặc biệt là tình hình mới hiện nay.
3. Tồn tại và
nguyên nhân
a) Những tồn tại
chủ yếu:
- Nhìn chung công tác tổ chức, cán
bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở vùng Tây Nguyên còn nhiều tồn tại, yếu
kém như: công tác quy hoạch cán bộ không đồng bộ, chưa có cơ cấu cán bộ hợp lý,
chất lượng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp xã, thôn quá yếu và
thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ.
- Cán bộ cơ sở vùng Tây Nguyên
trong những năm qua đã được bồi dưỡng về kiến thức quản lý Nhà nước, lý luận
chính trị chiếm khoảng 2/5 tổng số nhưng mang tính chắp vá, chưa được quy hoạch
theo kế hoạch mang tính bài bản. Một số được bồi dưỡng xong lại nghỉ việc do
không được tái cử.
- Thiếu nguồn đào tạo vì cán bộ cơ
sở của các tỉnh có trình độ văn hóa thấp, không đủ khả năng để tiếp thu kiến
thức được đào tạo, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Do vậy, việc
tìm kiếm cán bộ theo tiêu chuẩn đầu vào còn nhiều bất cập.
- Do thiếu nguồn, một số nơi cử cán
bộ đi học không đủ tiêu chuẩn, cán bộ người dân tộc thiểu số có người chưa đọc
thông, nói thạo tiếng Việt cũng được nhập học và cùng học một chương trình với
số cán bộ đủ tiêu chuẩn, nên tạo sự khập khiễng về trình độ nhận thức, ảnh
hưởng lớn đến kết quả học tập chung.
- Đội ngũ giáo viên chưa am hiểu
nhiều về phong tục, tập quán và ngôn ngữ dân tộc thiểu số nên giữa việc truyền
đạt của giáo viên và tiếp thu của học viên bị hạn chế. Giáo trình còn khuôn mẫu
áp dụng chung cho các đối tượng, không sát với đặc điểm, yêu cầu thực tế của
cán bộ vùng Tây Nguyên.
- Chưa chú trọng đến việc đào tạo,
bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức là người Kinh công tác ở các vùng
có đồng bào thiểu số nên bị hạn chế rất nhiều trong quá trình hoạt động công
tác, thực hiện nhiệm vụ, nhất là trong tình hình chính trị, an ninh ở những
vùng có diễn biến phức tạp.
- Theo quy định về chế độ kinh phí
đào tạo cán bộ cơ sở hiện nay là thấp, không còn phù hợp với thực tế vùng Tây
Nguyên.
b) Một số nguyên
nhân chủ yếu:
Sự tồn tại yếu kém về tổ chức, cán
bộ cơ sở và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở vùng Tây Nguyên trong thời
gian qua là do một số nguyên nhân cơ bản và chủ yếu sau đây:
- Trước hết là do nhận thức của
lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến tỉnh, huyện, thành phố ở
Tây Nguyên về vai trò, vị trí của đội ngũ chính quyền cấp cơ sở đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Tây Nguyên chưa đầy đủ. Do đó, chưa thật sự
quan tâm đầu tư chỉ đạo đúng mức về xây dựng, củng cố, kiện toàn và đào tạo bồi
dưỡng cũng như xây dựng và ban hành thực hiện chính sách một cách thỏa đáng đối
với đội ngũ chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên.
- Các địa phương chưa làm tốt công
tác quy hoạch cán bộ và gắn quy hoạch cán bộ với bố trí sử dụng, đào tạo nguồn
cán bộ, nhất là cán bộ tại chỗ, do đó cán bộ người dân tộc thiểu số nắm giữ các
cương vị chủ chốt, cán bộ nữ còn chiếm tỷ lệ thấp. Một số chế độ chính sách ưu
đãi còn nhiều bất cập chưa động viên được đội ngũ cán bộ yên tâm công tác.
II. MỤC TIÊU,
YÊU CẦU
1. Thực hiện đề án “Một số giải
pháp góp phần củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên” (giai đoạn
2002 – 2010) nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ cơ sở các
tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm Đồng vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực
trong việc quản lý, điều hành thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã
hội và bảo đảm an ninh – trật tự xã hội, phục vụ nhân dân tốt hơn. Phát huy
được quyền chủ động của từng cụm dân cư, thiết lập được mối quan hệ gắn bó giữa
chính quyền cơ sở với trưởng thôn, già làng trong xây dựng phát triển kinh tế -
xã hội tại địa phương, tạo thế trận quốc phòng – an ninh nhân dân vững chắc làm
thất bại mọi âm mưu của kẻ thù chống phá chính quyền, chống phá chế độ xã hội
chủ nghĩa.
2. Thống nhất nhận thức về vai trò,
vị trí quan trọng của hệ thống tổ chức, cán bộ chính quyền xã, phường, thị
trấn, trưởng thôn, già làng. Từ đó có kế hoạch (quy hoạch) chủ động; triển khai
đồng bộ cả về công tác xây dựng và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở,
xây dựng và thực hiện chính sách phù hợp với tình hình thực tế, góp phần kiện
toàn và xây dựng chính quyền cơ sở các tỉnh vùng Tây Nguyên trong giai đoạn
đang chuyển đổi từ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ hưởng sinh hoạt phí sang
mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở thời kỳ mới.
Phù hợp với Nghị quyết số 10 NQ/TW
ngày 18/1/2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010; Quyết định số 168/QĐ-TTg
ngày 30/10/2001 về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và những
giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên; Nghị quyết số 17-NQ/TW
ngày 18/3/2002 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX, Hội nghị lần thứ 5 về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
III. MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN, CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ VÙNG TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2002 –
2010
1. Thống nhất
nhận thức về tư tưởng, coi công tác củng cố, kiện toàn hệ thống chính quyền cơ
sở là một trong những nội dung quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội
và ổn định an ninh chính trị vùng Tây Nguyên.
2. Đẩy mạnh việc
xây dựng, củng cố, kiện toàn và đào tạo kiến thức về lý luận chính trị, quản lý
nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
a) Mục tiêu đào
tạo cán bộ cơ sở
- Đến năm 2005, đạt 70 – 80% cán bộ
chuyên trách giữ các chức vụ qua bầu cử của 4 tỉnh Tây Nguyên được đào tạo, bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn quy định.
- Đến năm 2005, đạt 80% số cán bộ
giữ các chức danh chuyên môn như: Văn phòng, Tài chính – Kế toán, Địa chính, Tư
pháp, Văn hóa – Xã hội được đào tạo trình độ sơ cấp trở lên.
b) Yêu cầu đào
tạo
Chương trình, nội dung đào tạo phải
cụ thể, sát với đặc điểm thực tiễn các tỉnh vùng Tây Nguyên và được soạn thảo
theo những định hướng lớn đã nêu trong Nghị quyết TW5 và kế hoạch thực hiện
Nghị quyết TW5 của Chính phủ.
Từng bước tạo ra chuyển biến trong
hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở của 4 tỉnh Tây Nguyên.
c) Đối tượng đào
tạo
Trên cơ sở Quy hoạch đội ngũ cán bộ
chính quyền cơ sở do tỉnh lập, tiến hành chọn cử người đi đào tạo cơ bản. Tập
trung trước hết vào việc đào tạo để chuẩn bị cho các chức danh sau:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy (chi
bộ) cấp xã.
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND –
UBND.
- Trưởng các đoàn thể.
- Ủy viên Ủy ban nhân dân xã.
- Các chức danh chuyên môn của Ủy
ban nhân dân xã.
- Trưởng, Phó thôn, buôn (ở những
nơi có Phó Trưởng thôn, buôn) thuộc Ủy ban nhân dân xã.
d) Nội dung đào
tạo
+ Đối với cán bộ chính quyền giữ
các chức vụ qua bầu cử (Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân):
Đào tạo Trung cấp lý luận chính trị
(đối với phường ở thành phố thị xã); sơ cấp lý luận chính trị (đối với các xã).
Đào tạo Trung cấp quản lý nhà nước
(đối với phường ở thành phố, thị xã); Sơ cấp quản lý nhà nước (đối với xã).
Xây dựng chương trình đào tạo trung
cấp lý luận chính trị kết hợp với trung cấp quản lý Nhà nước trong thời gian 2
năm đối với các đối tượng nêu trên.
+ Đối với cán bộ Đảng, đoàn thể giữ
các chức vụ qua bầu cử (Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ
tịch Hội Cựu chiến binh)
Đào tạo Trung cấp lý luận chính trị
(đối với phường ở thành phố, thị xã); sơ cấp lý luận chính trị (đối với xã).
Đào tạo trung cấp chuyên môn,
nghiệp vụ và pháp luật chức vụ đang đảm nhận (đối với phường ở thành phố, thị
xã); sơ cấp chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và pháp luật (đối với xã) và
Trưởng thôn, buôn thuộc xã.
+ Đối với 7 chức danh chuyên môn
(Trưởng Công an, Chỉ huy trưởng Quân sự, Địa chính, Tài chính, Tư pháp, Văn
phòng, Văn hóa – Xã hội).
Đào tạo chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ và pháp luật hệ trung cấp (đối với phường ở thành phố, thị xã); sơ
cấp chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật (đối với các xã) và Trưởng
thôn, buôn thuộc xã).
Đối với các xã vùng núi, dân tộc văn
hóa cán bộ xã trưởng thôn, buôn còn thấp có thể đào tạo văn hóa phổ cập Phổ
thông cơ sở để có thể đặc cách kết hợp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận
chính trị và pháp luật hệ sơ cấp.
e) Cơ sở đào
tạo.
Kiện toàn, củng cố các trường Chính
trị các tỉnh Tây Nguyên đào tạo các chức danh dân cử và là cơ sở cho các trường
Trung cấp, Cao đẳng, Đại học của các Bộ, ngành mở các lớp tại chức tại địa
phương cho các chức danh chuyên môn.
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên của các cơ sở đào tạo cán bộ công chức cơ sở. Các nội
dung bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phải phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính
và yêu cầu nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở theo tinh thần Nghị
quyết 17/NQTW hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX.
Ủy ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên
lập quy hoạch và kế hoạch đào tạo cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn bao gồm cả
Trưởng thôn, buôn thuộc xã, phường, thị trấn và chỉ đạo tổ chức triển khai thực
hiện.
g) Chế độ học
viên đào tạo
Những người được quy hoạch cử đi
đào tạo vào các chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy (chi bộ), Chủ tịch, Phó
Chủ tịch UBND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, ngoài các quy định hiện hành của Bộ
Tài chính còn được hưởng tiền tiêu vặt 100.000 đ/người/tháng. Đối với cán bộ
nữ: 150.000 đ/người/tháng.
Căn cứ quy hoạch đào tạo cán bộ
chính quyền cơ sở, những người được cử đi đào tạo tập trung vào các chức danh chuyên
môn ở các trường trung cấp chuyên ngành, ngoài các quy định hiện hành của Bộ
Tài chính còn được hưởng tiền tiêu vặt 100.000 đ/người/tháng. Đối với cán bộ
nữ: 150.000 đ/người/tháng.
h) Kế hoạch đào
tạo cán bộ
- Tổng số cán bộ cơ sở (thời điểm
tháng 6/2002) vùng Tây Nguyên:
- Bí thư, Chủ tịch HĐND, UBND xã: 1.479
người.
- Phó Bí thư đảng ủy, Phó Chủ tịch
UBND, HĐND: 1.691 người.
- Ủy viên Ủy ban nhân dân xã: 1.934
người.
- 4 chức danh chuyên môn: 2.261
người.
- Trưởng Công an xã: 560
người.
- Xã Đội trưởng: 574
người.
- Trưởng các đoàn thể: 3.001
người.
- Các chức danh khác: 1.346
người.
- Trưởng (và Phó nơi nào có) thôn,
buôn thuộc xã: 6.387 người.
19.233
người.
b) Tổng số cán
bộ cơ sở đã được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật (tính lượt người): 8.888 lượt người.
Trong đó:
- Bí thư Đảng ủy xã, Chủ tịch HĐND,
UBND: 1.701 lượt người.
- Phó Bí thư Đảng ủy, Phó CT UBND,
HĐND: 1.624 lượt người.
- Ủy viên Ủy ban nhân dân xã: 997
lượt người.
- Các chức danh chuyên môn: 2.272
lượt người.
- Trưởng Công an xã: 337
lượt người.
- Xã Đội trưởng: 285
lượt người.
- Trưởng các đoàn thể: 1.672
lượt người.
- Trưởng thôn, buôn: 6.387
lượt người.
Kinh phí cho đào tạo và đào tạo lại
cán bộ cơ sở của 4 tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2003 – 2005 như sau:
- Bí thư Đảng ủy xã: 484
người.
- Chủ tịch UBND: 395
người.
- Phó Chủ tịch UBND: 465
người.
- Chủ tịch HĐND: 450
người.
- Phó Chủ tịch HĐND: 484
người.
- Ủy viên UBND cấp xã: 1.518
người.
- Các chức danh chuyên môn: 1.035
người.
- Văn hóa – Xã hội: 480
người.
- Trưởng Công an: 340
người.
- Xã đội trưởng: 323
người.
- Trưởng thôn, buôn (thuộc xã,
phường, thị trấn): 6.387 người.
Tổng cộng: 12.361
người
Nhu cầu kinh phí cho công tác đào
tạo và đào tạo lại cán bộ cơ sở thời gian 3 năm của 4 tỉnh Tây Nguyên là:
- Tổng số kinh phí năm 2003 là: 18.255.000.000
đ
- Tổng số kinh phí năm 2004 là: 19.155.000.000
đ
- Tổng số kinh phí năm 2005 là: 19.140.000.000
đ
Tổng
số: 56.550.000.000 đ
(Năm mươi sáu tỷ, năm trăm năm
mươi triệu đồng)
Trong đó có: 43.012.800.000 đ theo
chế độ quy định hiện hành
13.537.200.000
đ chế độ bổ sung ưu tiên vùng Tây Nguyên
3. Đào tạo, bồi
dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức ở vùng dân tộc.
a) Đối tượng cần
đào tạo tiếng dân tộc.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh căn cứ
vào tình hình thực tế và điều kiện cụ thể của từng tỉnh để xác định đối tượng
cán bộ, công chức phải được đào tạo tiếng dân tộc thiểu số.
Cán bộ cơ sở (ở độ tuổi dưới 40)
các xã, phường, thị trấn ở vùng có đồng bào dân tộc nhưng chưa biết tiếng dân
tộc (kể cả cán bộ người dân tộc tại chỗ nhưng không biết tiếng mẹ đẻ).
- Thời gian và phương thức đào tạo:
Mỗi khóa học thời gian là 6 tháng
với phương thức học tập trung.
Mỗi khóa học thực hiện trong 3 đợt,
giữa 3 đợt tập trung học có thời gian học viên thâm nhập thực tế ở các vùng
đồng bào dân tộc (thực tập).
- Phấn đấu thời hạn 4 năm 2002 –
2005 đào tạo, bồi dưỡng xong tiếng dân tộc cho toàn bộ các đối tượng nêu ở điểm
3.a. (không tính những cán bộ được điều động đến công tác vào giai đoạn cuối
của năm 2005).
- Các tiếng dân tộc cơ bản, chương
trình, giáo trình và cơ sở đào tạo:
- Các tiếng dân tộc cơ bản được
chọn dùng để đào tạo cho cán bộ công tác ở vùng có đồng bào dân tộc thuộc vùng
Tây Nguyên: Tiếng Êđê, M’nông, Bana, Xơđăng, Giarai, K’Ho.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh:
Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện việc:
+ Xác định cán bộ công tác ở vùng
dân tộc nào nhất thiết phải biết tiếng của dân tộc vùng đó, coi đây là yêu cầu
và tiêu chuẩn của cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số.
+ Quyết định đào tạo và ưu tiên đào
tạo trước những tiếng dân tộc nào? Nội dung chương trình, giáo trình đào tạo.
+ Quyết định cơ sở đào tạo và các
chế độ cần thiết khác phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương.
+ Quyết định hình thức, nội dung,
phương pháp kiểm tra kết quả, chất lượng đào tạo tiếng dân tộc ở địa phương
mình.
d) Dự toán kinh
phí đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc từ năm 2002 – 2005:
Dành 8 (tám) tỷ đồng chi cho
chương trình đào tạo tiếng dân tộc kế hoạch giai đoạn 2002 – 2005. Bình quân 4
tỉnh sử dụng 2 tỷ đồng/năm phân bổ theo số lượng học viên của từng tỉnh. Các
khoản chi phí chi cho mỗi học viên căn cứ theo hướng dẫn hiện hành của cơ quan
Trung ương.
4. Bồi dưỡng kiến
thức về chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc, tôn giáo,
đặc biệt đối với Tin Lành cho cán bộ, công chức ở cơ sở vùng Tây Nguyên.
- Bồi dưỡng kiến thức về chính sách
đối với Tôn giáo, chính sách đối với đạo Tin lành của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay cho cán bộ, trưởng buôn, làng; già làng đang công tác, làm việc, hoạt động
ở vùng có đồng bào theo tôn giáo.
- Việc bồi dưỡng kiến thức về chính
sách đối với Tôn giáo, chính sách đối với đạo Tin lành của Đảng và nhà nước ta
hiện nay được kết hợp với việc đào tạo kiến thức về lý luận chính trị, quản lý
nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, tiếng dân tộc và các chương trình bồi dưỡng
khác.
(Đính kèm phụ lục chi tiết về kế
hoạch đào tạo kiến thức về lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, chuyên môn
nghiệp vụ, tiếng dân tộc cho cán bộ vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002 – 2005).
5. Tạo nguồn nhân
lực và biên chế cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
- Nguồn nhân lực đã được tiêu chuẩn
hóa:
Cán bộ tại chỗ đã được tiêu chuẩn
hóa và 4 chức danh chuyên môn đã được đào tạo chính quy.
Số học sinh của đồng bào Tây Nguyên
đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học sinh đã tốt
nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp từ nơi khác tình nguyện về
công tác lâu dài tại xã thì được miễn thi tuyển và sau 6 tháng sẽ được bổ nhiệm
vào ngạch công chức cơ sở nếu được nhận xét, đánh giá tốt.
Cán bộ hiện đang công tác tại Sở,
ban, ngành của tỉnh và phòng, ban huyện được tăng cường cho cơ sở.
- Nguồn nhân lực chưa được tiêu
chuẩn hóa:
Cán bộ cơ sở hiện đang làm việc
theo chức danh tại hệ thống chính trị cơ sở chưa được đào tạo theo tiêu chuẩn
quy định.
Thanh niên dân tộc địa phương thực
hiện nghĩa vụ quân sự sẽ kết hợp với đào tạo lý luận chính trị, quản lý nhà
nước, chuyên môn nghiệp vụ.
Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng Tây
Nguyên phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng lập kế hoạch tuyển chọn thanh niên
dân tộc địa phương làm nghĩa vụ quân sự kết hợp với đào tạo lý luận chính trị,
quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ tăng cường cho khoảng 100 xã.
- Biên chế:
Bổ sung tăng thêm 10% tổng biên chế
hành chính (so với năm 2002) của các tỉnh vùng Tây Nguyên để dự bị, phục vụ cho
mục đích:
+ Thay đổi chất lượng đội ngũ cán
bộ cơ sở và bố trí cán bộ cho cấp tỉnh, cấp huyện tăng cường cho cơ sở.
+ Cán bộ cơ sở là con em đồng bào
dân tộc thiểu số thực hiện tốt nhiệm vụ được giao ở cơ sở, được xét tuyển vào
công chức cơ sở hoặc công chức Nhà nước.
+ Tuyển dụng số học sinh vùng Tây
Nguyên đã tốt nghiệp đại học và trung học chuyên nghiệp vào công tác ở các cơ
quan cấp tỉnh, huyện và cơ sở.
6. Tăng cường
cán bộ về cơ sở và chính sách đối với cán bộ tăng cường.
- Tình hình tăng cường cán bộ về cơ
sở
Sau sự kiện tháng 2/2001 xảy ra tại
Tây Nguyên, tỉnh Lâm Đồng đã thành lập 3 Tổ công tác cấp tỉnh để kiện toàn
13/15 chi bộ Đảng cơ sở yếu kém; Thành lập “Ban chỉ đạo phát động phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng đồng bào dân tộc” ở 11 huyện, thị xã,
thành phố. Đã thành lập 43 “Tổ công tác” tại 10/11 đơn vị cấp huyện với 202 cán
bộ xuống kiện toàn 43 xã và 8 thôn, buôn. Về chế độ, cán bộ ở tỉnh được trợ cấp
1.000.000 đ/tháng, cán bộ ở huyện được trợ cấp 800.000đ/tháng. Hiện nay chỉ còn
tăng cường 6 cán bộ cấp huyện xuống cơ sở giữ chức vụ Bí thư và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân theo nhiệm kỳ, được giữ nguyên lương, không có phụ cấp thêm ngoài
lương.
Tỉnh Kon Tum đã tăng cường 130 cán
bộ cấp tỉnh biên chế theo tổ công tác từ 2-3 người, trong mỗi tổ có từ 1-2 đảng
viên xuống 50 xã và trên 120 cán bộ cấp huyện được cử về tất cả các xã. Thời
gian tăng cường đến hết tháng 5-2001, thời gian làm việc của mỗi tổ công tác
15-20 ngày theo hình thức luân phiên nhau. Từ tháng 6-2001 đến nay, các cơ quan
đơn vị kết nghĩa với cơ sở cử cán bộ về xã trung bình 7-10 ngày trong 1 tháng
để nắm bắt tình hình và giúp xã xây dựng kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Cán bộ tăng cường được giữ nguyên lương và hưởng công tác phí sau mỗi chuyến
công tác.
Tỉnh Đắk Lắk đợt đầu của năm 2001
đã tăng cường 80 cán bộ cấp tỉnh và cấp huyện về cơ sở để vận động quần chúng,
thời gian là 9 tháng được trợ cấp trong thời gian tăng cường 1.000.000đ/tháng,
sau khi hoàn thành đã rút về. Sau khi sơ kết đợt 1, tỉnh đã chuyển hướng không
tăng cường cán bộ cấp tỉnh, cấp huyện đi cơ sở. Từ tháng 10/2001, tỉnh đã trưng
tập thêm 841 cán bộ ở cơ sở không thuộc cán bộ xã tham gia đoàn công tác (841
người được chia thành 142 tổ) để vận động quần chúng trên diện rộng toàn tỉnh.
Chế độ đối với người trưng tập được hưởng 400.000đ/tháng. Hiện nay toàn tỉnh
còn 79 cán bộ là công chức cấp huyện được tăng cường xuống xã giữ các chức vụ
chủ chốt (Bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND) và hưởng nguyên lương công
chức.
Tỉnh Gia Lai từ tháng 3/2001 –
11/2001, đã tiến hành 2 đợt tăng cường 483 cán bộ (cấp tỉnh: 255, cấp huyện:
228) biên chế theo tổ công tác xuống các địa bàn trọng điểm cùng với chính
quyền cơ sở làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh với những
luận điệu xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của kẻ thù, củng cố ổn định
tình hình ở cơ sở để phát triển sản xuất. Những cán bộ được tăng cường trong
năm 2001, ngoài lương còn được trợ cấp 150.000 đ/đợt để mua sắm trang bị ban
đầu và 300.000 đ/tháng/người. Năm 2002 tỉnh Gia Lai đã quyết định 33 cán bộ
trong diện quy hoạch thuộc các Sở, ban, ngành và các cơ quan Đảng, đoàn thể của
tỉnh và 52 cán bộ thuộc các phòng, ban cấp huyện tăng cường xuống 25 xã thời
gian từ 2 năm trở lên. Về chính sách, ngoài tiền lương, mỗi cán bộ tăng cường
được trợ cấp 1.000.000đ mua trang bị ban đầu và hỗ trợ 400.000đ/tháng.
- Một số chính sách đối với cán bộ
tăng cường
Đối với vùng Tây Nguyên do yêu cầu
của tình hình thực tế cần nhanh chóng củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền cơ
sở, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, việc tăng cường cán bộ cho cơ sở phù
hợp chủ trương luân chuyển cán bộ, nhưng có chế độ, chính sách thích hợp để cán
bộ tăng cường yên tâm công tác, đảm bảo sự hài hòa giữa cán bộ được cử đi, cán
bộ ở lại và cán bộ tại chỗ.
Trước mắt, đối với vùng Tây Nguyên
cần tập trung giải quyết một số công việc chủ yếu sau:
+ Ủy ban nhân dân các tỉnh xem xét,
quyết định những huyện, xã, lĩnh vực nào cần cán bộ tăng cường, loại cán bộ
tăng cường (kể cả chức danh chủ chốt), số lượng cán bộ, thời gian tăng cường cụ
thể cho từng xã.
+ Ủy ban nhân dân các tỉnh xây dựng
kế hoạch tăng cường cụ thể, ban hành quy chế làm việc đối với cán bộ tăng
cường, quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, chế độ báo cáo, mối quan
hệ với cơ sở, cử cơ quan quản lý và chỉ đạo cán bộ tăng cường. Hàng năm, có
nhận xét, đánh giá cụ thể đối với từng cán bộ.
+ Cán bộ tăng cường được hưởng một
số chế độ, chính sách hỗ trợ sau (đối với thời gian tăng cường trên 2 năm):
Được hỗ trợ ban đầu 1.000.000
đồng/người để mua sắm vật dụng cần thiết.
Được trợ cấp thêm 400.000
đồng/người/tháng ngoài lương.
Được hưởng phụ cấp khu vực nơi công
tác.
Được nâng lương sớm hơn thời gian
theo quy định, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Được xem xét đề bạt chức vụ cao
hơn, nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cán bộ tăng cường là người Kinh
biết (nói và hiểu được) một tiếng dân tộc thiểu số nơi đang công tác sẽ được
cộng thêm điểm ưu tiên khi thi nâng ngạch.
+ Cán bộ tăng cường phải được tập
huấn những kiến thức cần thiết, phương pháp công tác, nhất là phương pháp tuyên
truyền, vận động quần chúng, phải được đào tạo tiếng dân tộc thiểu số nơi đến
tăng cường. Đối tượng, nội dung tập huấn, giáo trình giảng dạy tiếng, thời gian
đào tạo, bồi dưỡng, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, … do UBND tỉnh xem xét, quyết
định.
+ Cán bộ tăng cường có trách nhiệm
thực hiện các quy định nêu tại Quy chế làm việc đối với cán bộ tăng cường do Ủy
ban nhân dân các tỉnh ban hành.
Chủ trương cán bộ tăng cường là
biện pháp trước mắt, lâu dài các tỉnh phải đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn bị đội
ngũ cán bộ cơ sở là người dân tộc tại chỗ.
7. Chế độ đối
với trưởng thôn và già làng vùng Tây Nguyên.
- Đối với trưởng thôn:
Từ phân tích nêu tại III.1.b. đòi
hỏi cần quy định chế độ, mức phụ cấp hoạt động của trưởng thôn phù hợp hơn để
động viên, khuyến khích trưởng thôn thực hiện tốt nhiệm vụ của mình tại cộng
đồng dân cư tự quản.
Một số chế độ mới:
+ Phụ cấp hoạt động đối với trưởng
thôn trong tình hình hiện nay xét trên phạm vi cả nước tối thiểu bằng một
phần ba (1/3) mức phụ cấp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn. Mức phụ cấp cụ thể của trưởng thôn sẽ do Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định
tùy thuộc vị trí địa lý, đặc thù của thôn và khả năng ngân sách từng địa
phương.
+ Theo tinh thần Nghị quyết TW5
khóa IX, trưởng thôn được xác định như cán bộ không chuyên trách ở cơ sở. Chế
độ của trưởng thôn sẽ được UBND các tỉnh điều chỉnh cho phù hợp theo quyết định
mới của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ chuyên trách ở xã,
phường, thị trấn.
+ Trưởng thôn được tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện
+ Trưởng thôn được tham gia bảo
hiểm y tế khi đang công tác.
+ Trưởng thôn được miễn lao động
công ích trong thời gian đương nhiệm theo quy định của pháp luật hiện hành.
+ Trưởng thôn được tham dự và hưởng
chế độ học tập, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kiến thức quản lý nhà nước và
những kiến thức cần thiết khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
+ Trưởng thôn được khen thưởng khi
có thành tích và bị kỷ luật khi có khuyết điểm theo quy định của pháp luật.
Cần nghiên cứu để cơ cấu một số
trưởng thôn, buôn là thành viên của Ủy ban nhân dân xã hoặc ủy viên ban chấp
hành của đoàn thể cấp xã.
- Đối với giá làng:
Theo báo cáo sơ bộ của 4 tỉnh vùng
Tây Nguyên có 3.160 già làng. Chưa có tỉnh nào chính thức quy định chế
độ đối với già làng. Căn cứ vào yêu cầu quản lý và hoạt động thực tế của già
làng, một số địa phương thực hiện việc thăm hỏi, tặng quà, động viên vào dịp
lễ, tết. Gần đây nhiều tỉnh đã tổ chức cho già làng về tham quan thủ đô, vào
lăng viếng Bác Hồ, được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tiếp đón, thăm
hỏi. Sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của các địa phương
đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên các già làng.
Trên cơ sở những đặc điểm cơ bản
của già làng nêu trên, đồng thời tránh xu hướng hành chính hóa các hoạt động tự
quản tại cộng đồng dân cư, hạn chế sự quan liêu của chính quyền cơ sở, thống
nhất quy định chế độ đối với già làng như sau:
+ Tổ chức cho già làng có thành
tích tiêu biểu tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, công trình lớn về phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Tặng quà già làng nhân ngày lễ,
ngày tết, ngày hội của buôn, làng; thăm hỏi khi đau ốm, cứu trợ khi gặp khó
khăn.
+ Khen thưởng về vật chất và tinh
thần khi già làng có thành tích trong dịp tổng kết cuối năm hoặc sơ, tổng kết
các phong trào.
+ Định kỳ cấp xã, cấp huyện cần họp
với già làng để thông tin các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương.
+ Kinh phí thực hiện chế độ đối với
già làng được cân đối vào ngân sách xã.
Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng Tây
Nguyên có trách nhiệm chỉ đạo chính quyền cơ sở hằng năm tổng kết đánh giá kết
quả tham gia hoạt động của các già làng và đề nghị lên Ủy ban nhân dân tỉnh xem
xét, quyết định các hình thức chế độ nêu trên.
8. Xây dựng
trụ sở làm việc cho hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn.
- Phấn đấu đến năm 2005 đạt 100%
trụ sở làm việc cho hệ thống chính trị cơ sở (kể cả Hội trường) được xây dựng
kiên cố từ nhà cấp 4 trở lên.
- Phấn đấu đến năm 2005 đảm bảo
100% liên lạc thông tin từ cấp xã đến cấp huyện.
- Trên cơ sở phát triển mạng lưới
điện, đảm bảo các xã được trang bị máy vi tính, máy in.
- Cải tiến lề lối làm việc và nâng
cao hiệu quả làm việc của cán bộ cơ sở.
9. Điều chỉnh
địa giới hành chính.
Với đặc điểm của Tây Nguyên có diện
tích rộng, dân cư phân tán, địa hình phức tạp, dân di cư tự do tăng nhanh, gây
sức ép cơ học trong công tác quản lý nhân khẩu ở các tỉnh rất lớn. Tình hình an
ninh, trật tự an toàn xã hội có nhiều phức tạp. Những đặc điểm trên đây, đã tạo
ra nhiều bức xúc, khó khăn trong công tác quản lý của chính quyền, nhất là cấp
cơ sở. Căn cứ Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18/1/2002 của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh thời kỳ 2001 - 2010, các
tỉnh vùng Tây Nguyên đã xây dựng kế hoạch xin điều chỉnh địa giới hành chính
giai đoạn 2002 – 2005 để thành lập mới 1 tỉnh, 13 huyện, 3 thị xã; 104 xã,
phường, thị trấn như sau:
- Tỉnh Lâm Đồng xin thành lập mới:
1 huyện; 6 xã, thị trấn.
- Tỉnh Đắk Lắk xin chia tỉnh và
thành lập mới: 4 huyện, 1 thị xã; 34 xã, phường, thị trấn.
- Tỉnh Gia Lai xin thành lập mới: 5
huyện, 2 thị xã; 43 xã, phường, thị trấn.
- Tỉnh Kon Tum xin thành lập mới: 3
huyện, 21 xã, phường, thị trấn.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ
Chính trị tại Thông báo số: 62-TB/TW ngày 10/4/2002 về việc thành lập, chia tách
đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã; Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với các địa phương
nghiên cứu xem xét để điều chỉnh một số đơn vị hành chính cấp huyện – xã ở nơi
thật sự bức xúc và cần thiết trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
10. Những công
tác cấp bách ở địa bàn Tây Nguyên
- Thu nhận, giải quyết việc làm đối
với tất cả con em đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đã tốt nghiệp đại học,
trung học chuyên nghiệp, không để con em đồng bào bị thất nghiệp.
- Xác định những địa bàn trọng
điểm, đặc biệt khó khăn, tăng cường những cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất
xuống giữ các chức vụ chủ chốt như: Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch HĐND, UBND để
tăng cường vai trò lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị tại cơ sở.
- Xây dựng, phát triển cán bộ người
dân tộc ở các buôn làng người dân tộc. Lực lượng cán bộ này cùng với công an
thôn, buôn và lực lượng dân quân tự vệ nhằm đối phó với hoạt động biểu tình,
bạo loạn, đấu tranh trực diện với lực lượng phản động ngầm ở buôn, làng.
- Tập trung kiện toàn cán bộ buôn,
làng trọng điểm, phức tạp, chọn người tốt, có năng lực làm trưởng, phó buôn,
làng.
Toàn bộ ngân sách cho việc xây
dựng, củng cố chính quyền cơ sở 4 tỉnh Tây Nguyên sẽ được Chính phủ cân đối vào
chương trình phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của các tỉnh.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng
Tây Nguyên nghiên cứu các nội dung của các giải pháp nêu trong đề án này, chủ
động phối hợp với các cơ quan Trung ương có liên quan xây dựng kế hoạch triển
khai trong địa phương mình (chú ý sự biến động về cán bộ trong hệ thống chính
trị sau bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ 2004 – 2009)
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn
các tỉnh Tây Nguyên phương pháp tiến hành xây dựng chương trình, giáo trình
biên soạn tài liệu, đào tạo giáo viên và tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng
tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức trong vùng.
3. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Nội
vụ rà soát ưu tiên các mục tiêu có tính cấp bách, cân đối và cấp ngân sách cho
các tỉnh vùng Tây Nguyên kịp thời thực hiện các nội dung công việc thuộc phạm
vi của Đề án ngay trong kế hoạch năm 2002. Nếu có vấn đề vượt quá thẩm quyền,
báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
4. Ban Tôn giáo của Chính phủ có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Nội vụ biên soạn nội dung và giáo trình bồi dưỡng
kiến thức về chính sách đối với Tôn giáo, chính sách đối với đạo Tin lành của
Đảng và nhà nước ta hiện nay cho cán bộ, trưởng buôn, làng; già làng đang công
tác, làm việc, hoạt động ở vùng có đồng bào theo tôn giáo tại các tỉnh vùng Tây
Nguyên và vùng phụ cận.
5. Ủy ban Dân tộc có trách nhiệm
phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan khi thực hiện các nội dung cụ thể về
tạo nguồn, chương trình đào tạo, chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cơ
sở là người dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên.
6. Bộ Nội vụ có trách nhiệm theo
dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Đề án này. Phối hợp với các địa phương và
các cơ quan Trung ương có liên quan giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá
trình tổ chức thực hiện và hằng năm tổng hợp tình hình báo cáo Thủ tướng Chính
phủ; tổ chức sơ kết, tổng kết việc triển khai thực hiện Đề án này theo chỉ đạo
của Chính phủ và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
7. Trong quá trình tổ chức triển
khai thực hiện các giải pháp nêu trong Đề án này, các tỉnh vùng Tây Nguyên chủ
động điều chỉnh theo hướng dẫn của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số: 17-NQ/TW ngày
18/3/2002 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX, Hội nghị lần thứ 5 về “Đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”.
Nơi nhận:
- Văn phòng Chính phủ;
- Lưu VT, Vụ CQĐP.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Đỗ Quang Trung
|