ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NINH
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
13/2008/CT-UBND
|
Hạ Long, ngày 08 tháng 08 năm 2008
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Công tác thi hành án dân sự giữ vai
trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội.
Trong những năm qua, thực hiện Chỉ
thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 26/2001/CT-UB
ngày 31/12/2001 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc tăng cường và nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, công tác thi hành án dân sự có những
chuyển biến tích cực, số việc thi hành án thi hành xong
với số tiền và tài sản thu được năm sau luôn cao hơn năm trước, nhiều vụ việc
thi hành án phức tạp đã được giải quyết dứt điểm; tổ chức bộ máy cơ quan thi
hành án được kiện toàn cơ sở vật chất, số lượng và trình độ chuyên môn của Chấp
hành viên, cán bộ thi hành án được nâng lên; cải cách hành chính trong thi hành
án được đẩy mạnh với những quy định về thủ tục đơn giản
nhưng chặt chẽ hơn; cơ sở vật chất của cơ quan thi hành án được tăng cường; sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
và sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể và
các Đoàn đại biểu Quốc hội được quan tâm, Ban chỉ đạo thi hành án ở các địa
phương được thành lập và hoạt động có hiệu quả, góp phần trong việc giải quyết
dứt điểm nhiều vụ việc thi hành án phức tạp. Tuy nhiên, việc triển khai Chỉ thị
số 20/2001/CT-TTg và Chỉ thị số 26/2001/CT-UBND đã tạo được chuyển biến cơ bản
về công tác thi hành án dân sự như đã đề ra, số lượng việc
thi hành án dân sự tồn đọng đã được giải quyết kịp thời; sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với cơ quan hữu quan
thường xuyên, tổ chức bộ máy, địa vị Pháp lý, biên chế cán
bộ, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của cơ quan thi hành án, chế độ, chính
sách đối với cán bộ thi hành án dân sự đã được quan tâm.
Về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của cơ quan thi hành án, chế độ chính
sách đối với cán bộ thi hành án chưa đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
Để tiếp tục tăng cường và nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án dân sự, tạo chuyển biến cơ bản về công tác thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 07/2007/NQ-QH12 ngày 12/11/2007
của Quốc hội Khóa XII về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2008 và Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09/01/2008 của Chính phủ về
những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2008, khắc phục tình trạng số
việc thi hành án tồn đọng hàng năm, trước mắt đến cuối năm 2008, cần làm giảm
ít nhất từ 10% đến 15% số việc thi hành án dân sự tồn đọng so với năm 2007;
giải quyết dứt điểm một số vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp kéo dài. Chỉ thị số
21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường
nâng cao hiệu quả công tác thi hành án và tiếp tục triển khai Chỉ thị số
20/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban ngành; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, tập trung chỉ đạo thực
hiện tốt công tác sau:
1. Sở
Tư pháp.
Thực hiện tốt vai trò là cơ quan
Thường trực của Ban chỉ đạo công tác thi hành án dân sự tỉnh.
Chủ trì, phối hợp
với các Sở, Ban ngành trong tỉnh đề ra và thực hiện các
giải pháp nhằm giảm dần lượng án tồn đọng và giải quyết
dứt điểm các việc thi hành án dân sự có vướng mắc ở địa phương.
2. Thi hành án dân sự tỉnh.
a) Chỉ đạo các
cơ quan thi hành án dân sự thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm giảm dần số
việc thi hành án tồn đọng hàng năm, trước mắt thực hiện ngay đợt tổng rà soát,
xác minh và phân loại án, tổ chức các đợt cao điểm giải quyết việc thi hành án
tồn đọng; tăng cường hướng dẫn chỉ đạo địa phương kịp thời
tháo gỡ vướng mắc về thi hành án.
b) Chỉ đạo các cơ quan thi hành án
dân sự dừng chuyển giao việc thi hành án có giá trị không quá 500.000 đồng cho
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy
ban nhân dân cấp xã) trực tiếp đôn đốc thi hành. Đối với những vụ việc thi hành
án đã chuyển giao, Ủy ban nhân dân cấp xã tiếp tục đôn đốc thi hành dứt điểm,
những địa phương đôn đốc thi hành án không hiệu quả thì thi hành án dân sự
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh rút hồ sơ để trực tiếp thi hành.
c) Phối hợp với cơ quan Công an đôn đốc thi hành các khoản phải thi hành nộp ngân
sách nhà nước (án phí, tiền phạt, tiền tịch thu sung công, bồi thường Nhà nước,
truy thu tiền thu lợi bất chính) mà người phải thi hành án
đang chấp hành hình phạt tại các trại giam, trại tạm giam để tạo điều kiện
thuận lợi cho người phải thi hành án đang chấp hành hình
phạt tù thực hiện nghĩa vụ thi hành án về dân sự, làm căn
cứ xét đặc xá hàng năm.
d) Chỉ đạo các cơ quan thi hành án
chú trọng giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng thời hạn, đúng
pháp luật ngay từ cơ sở, hạn chế đến mức tối đa những khiếu nại, tố cáo phức tạp mới phát sinh, khiếu nại vượt cấp;
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về thi hành án, nhất là đối với những nơi có nhiều đơn thư khiếu nại tố cáo hoặc khiếu nại, tố cáo
phức tạp, kéo dài, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi
phạm.
đ) Chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân trong năm 2008 xây dựng quy chế phối hợp trong thi hành án dân sự,
kịp thời giải quyết vướng mắc, khó khăn về thi hành án dân
sự, thực hiện tốt công tác miễn, giảm thi hành án.
e) Phối hợp với Ban Thường vụ, Ủy ban nhân dân cấp huyện trong công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen
thưởng, kỷ luật và chính sách đối với cán bộ lãnh đạo cấp trưởng, cấp phó của cơ
quan thi hành án dân sự; kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án; điều động, luân chuyển Chấp hành viên, giải quyết triệt để tình trạng cơ
quan thi hành án dân sự không có Trưởng thi hành án hoặc chỉ có 01 Chấp hành
viên.
Thí điểm tuyển dụng một tỷ lệ nhất
định người đã trải qua công tác Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân hoặc các
chức danh chủ chốt khác ở cấp xã, có trình độ trung cấp Luật, kiến thức xã hội,
hiểu biết địa bàn, dân cư và có khả năng làm tốt công tác dân vận, thuyết phục
vào các cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa có khó khăn về nguồn cán bộ có
trình độ cử nhân Luật.
g) Phối hợp với
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Sở Tài nguyên - Môi
trường, Sở Xây dựng xem xét cấp đất, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các đề án về
tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động, xây dựng trụ sở kho vật chứng cho
các cơ quan thi hành án dân sự, để đến năm 2010 phải xây dựng xong trụ sở và
đến năm 2015 xây dựng xong kho vật chứng của các cơ quan thi hành án dân sự trong
tỉnh.
3. Công
an tỉnh.
a) Chỉ đạo lực lượng cảnh sát có biện
pháp tăng cường công tác bảo vệ cưỡng chế thi hành án, phối hợp bảo vệ việc
tiêu hủy tang vật, hỗ trợ việc bảo đảm an toàn trụ sở, kho vật chứng của cơ
quan thi hành án trong trường hợp cần thiết.
b) Chỉ đạo Trại giam, Trại tạm giam
chú trọng việc phối hợp với cơ quan thi hành án đôn đốc người phải thi hành án
đang chấp hành hình phạt tại các Trại giam, Trại tạm giam thi hành các khoản
phải thi hành án về tiền để làm cơ sở xét đặc xá hàng năm.
c) Chỉ đạo cơ quan điều tra áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời để hạn chế việc tẩu tán tài sản, đảm bảo hiệu
quả việc thi hành án; thực hiện việc chuyển giao vật chứng và các tài liệu liên
quan đầy đủ, kịp thời cho cơ quan thi hành án theo quy
định của pháp luật.
4. Sở
Tài chính.
a) Chủ động phối hợp với Sở Tư pháp, Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
đề xuất biện pháp nhằm hỗ trợ kinh phí, phương tiện, điều kiện làm việc đáp ứng
yêu cầu hoạt động của các cơ quan thi hành án.
b) Phối hợp với
Cơ quan Thi hành án dân sự có biện pháp thực hiện hiệu quả việc hỗ trợ tài
chính để thi hành án cho các đối tượng là cơ quan, tổ chức do Nhà nước thành
lập, hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước, góp phần giải
quyết án tồn đọng.
5. Các
cơ quan Ngân hàng, Bảo hiểm xã hội.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, chỉ đạo các ngân hàng, bảo hiểm xã hội và các tổ chức tín
dụng khác tăng cường công tác phối hợp thi hành án; thực
hiện quyết định của cơ quan thi hành án về cưỡng chế trừ vào thu nhập, khấu trừ
tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá trị
của người phải thi hành án theo quy định của
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.
6. Đối
với Ủy ban nhân dân các
cấp.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện,
thị xã, thành phố tập trung chỉ đạo các cơ quan hữu quan thực hiện có hiệu quả
việc hỗ trợ tài chính để thi hành án tăng cường chỉ đạo sự phối hợp giữa các cơ
quan hữu quan, đoàn thể ở địa phương với cơ quan thi hành án trong việc thi
hành án dân sự, thực hiện kịp thời việc chuyển dịch, đăng
ký quyền sở hữu sử dụng tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật, bố trí
đất đai, hỗ trợ đền bù, đảm bảo giải phóng mặt bằng cho các cơ quan thi hành án
để xây dựng trụ sở, kho vật chứng.
Ban chỉ đạo thi hành án các cấp làm
tốt công tác tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và cấp trên tăng
cường sự chỉ đạo phối hợp trong công tác thi hành án dân
sự.
Ủy ban nhân dân cấp xã tăng cường
công tác phối hợp với cơ quan thi hành án để thi hành có hiệu quả các việc thi
hành án trên địa bàn.
7. Các cơ quan, tổ chức phải
gương mẫu trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu
lực pháp luật, nếu cố tình dây dưa, cản trở hoạt động thi hành án phải xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
8. Thủ trưởng các sở, ngành
trong tỉnh và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình có kế hoạch cụ thể, khẩn trương triển khai
thực hiện Chỉ thị này.
Sở Tư pháp có trách nhiệm theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra định kỳ báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả triển khai
thực hiện Chỉ thị này.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Vũ Đức Đam
|