ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
08/CT-UB
|
Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 3 năm 1989
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐIỀU LỆ ĐĂNG KÝ, QUẢN LÝ HỘ KHẨU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH.
Đăng ký và quản lý hộ khẩu là
biện pháp quan trọng của Nhà nước để quản lý xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội, xác định việc cư trú hợp pháp để thực hiện quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Để thực hiện tốt điều lệ đăng ký
và quản lý hộ khẩu ban hành theo nghị định số 04/NĐ ngày 7/01/1988 của Hội đồng
Bộ trưởng; Thông tư số 05/TT ngày 4/6/1988 của Bộ Nội vụ và căn cứ vào tình
hình thực tế của thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố chỉ thị tổ chức thực hiện
công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu ở thành phố như sau :
I.- NHỮNG NGƯỜI THUỘC DIỆN
ĐƯỢC XÉT CHUYỂN ĐẾN THƯỜNG TRÚ TẠI THÀNH PHỐ:
1/ Người trước đây đã có hộ khẩu
thường trú tại thành phố đi bộ đội, công tác, lao động, học tập ở nơi khác-kể
cả trong nước và ngoài nước, sau khi hết hạn được cấp có thẩm quyền điều động
về công tác tại các cơ quan của thành phố, các đơn vị trung ương trú đóng hợp
pháp tại thành phố, hoặc nghỉ hưu, nghỉ mất sức, phục viên, xuất ngũ về gia
đình, thôi việc, nghỉ học về lại thành phố.
2/ Người già yếu hết tuổi lao
động, không còn nơi nương tựa nào khác xin về thành phố ở với vợ hoặc chồng,
hoặc ở với các con có hộ khẩu thường trú tại thành phố.
3/ Người dưới 18 tuổi chưa tự
lập được và người bị bệnh tật không còn khả năng lao động, không còn nơi nuôi
dưỡng nào khác xin về ở với cha, mẹ, ông, bà hoặc anh, chị, em ruột là nhân
khẩu thường trú tại thành phố.
4/ Người mới kết hôn sau ngày
7/01/1988 đến ở với vợ, hoặc chồng là nhân khẩu thường trú tại thành phố.
5/ Cán bộ, công nhân viên công
tác ở các tỉnh giáp ranh, hàng ngày về ở với vợ hoặc chồng là nhân khẩu thường
trú tại thành phố.
6/ Người là nhân khẩu thường trú
tại thành phố bị bắt buộc lao động tập trung ở các trường giáo dục lao động
công nông nghiệp, bị tập trung giáo dục cải tạo, bị ở tù khi hết hạn không bị
cấm cư trú tại thành phố, được trường trại cho về thành phố.
7/ Cán bộ, công nhân viên (bao
gồm cả công nhân quốc phòng và công nhân trong công an), học sinh tốt nghiệp
các trường đại học sau khi có sự thỏa thuận của Ban Tổ chức chánh quyền thành
phố (đối với cán bộ), của Sở Lao động-Thương binh xã hội thành phố (đối với
công nhân), được cấp có thẩm quyền quyết định điều động công tác tại thành phố.
8/ Sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp trong quân đội nhân dân và công an nhân dân trú đóng tại thành phố, hàng
ngày sau giờ làm việc thường xuyên về ở với vợ hoặc chồng là nhân khẩu thường
trú tại thành phố.
II.- MỘT SỐ ĐIỂM CHÍNH LIÊN
QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT THƯỜNG TRÚ :
1/ Việc điều động cán bộ, công
nhân viên ở địa phương khác đến thành phố cần hết sức hạn chế trên cơ sở ưu
tiên sử dụng lao động tại chỗ. Chỉ điều động đến thành phố các loại lao động mà
thành phố không đáp ứng được.
Các đơn vị-kể cả các đơn vị
trung ương tại thành phố có nhu cầu điều động thêm cán bộ, công nhân viên cần
làm việc trước với Ban Tổ chức chánh quyền thành phố (đối với cán bộ), với Sở
Lao động-Thương binh xã hội thành phố (đối với công nhân) để lấy người tại chỗ.
Trường hợp Ban Tổ chức chánh quyền và Sở Lao động-Thương binh xã hội thành phố
không có người đáp ứng yêu cầu, sẽ thỏa thuận tiếp nhận từng trường hợp cụ thể
nếu người được điều đến thành phố có trình độ đại học hoặc tương đương trở lên,
hoặc có mức lương từ 390đ trở lên, hoặc có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc 5/7
trở lên và sức khỏe có thể làm việc tại thành phố từ 5 năm trở lên.
Sau khi có sự thỏa thuận của Ban
Tổ chức chánh quyền hoặc của Sở Lao động-Thương binh xã hội thành phố, các đơn
vị mới tiến hành các thủ tục về điều động.
Ban Tổ chức chánh quyền và Sở
Lao động-Thương binh xã hội thành phố được từ chối tiếp nhận các trường hợp đã
điều động trước rồi mới đề nghị sau.
2/ Người đi nghĩa vụ quân sự, đi
hợp tác lao động ở địa phương nào, khi hết hạn trở về địa phương đó để thực
hiện chính sách và bố trí việc làm. Bộ Chỉ huy quân sự thành phố và Sở Lao
động-Thương binh xã hội thành phố được từ chối tiếp nhận và không xem xét xác
nhận thỏa thuận các trường hợp người của các địa phương khác.
3/ Không tiếp nhận những người
có từ 3 con trở lên đều dưới 18 tuổi hoặc có con đã trưởng thành đi kèm theo
cha mẹ (theo quyết định số 162/HĐBT ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng).
4/ Đăng ký hộ khẩu và chủ quyền
về nhà ở là hai vấn đề khác nhau. Khi đăng ký cư ngụ tại nhà nào, phải có giấy
tờ hợp pháp về nhà đó. Tuy nhiên, để chủ động ngăn ngừa các trường hợp tranh
chấp, không an toàn, không giải quyết đăng ký hộ khẩu vào những khu vực và nhà
ở dưới đây :
- Nhà do Nhà nước quản lý nhưng
chưa có quyết định phân phối để ở, nhà đang tranh chấp, nhà hư hỏng nặng có
nguy cơ sụp đổ.
- Nhà thuộc trụ sở cơ quan, xí
nghiệp, kho tàng, trường học, bệnh viện…
- Khu vực Nhà nước không cho
người đến cư trú hoặc đã công bố “quyết định giải tỏa mặt bằng”.
Ngành quản lý nhà đất và công an
cần quan hệ chặt chẽ với nhau khi xem xét giải quyết cụ thể.
5/ Theo quy định của điều lệ
đăng ký và quản lý hộ khẩu và thông tư hướng dẫn của Bộ Nội vụ các đơn vị có
cán bộ, công nhân viên theo chế độ lưu trú, tạm trú dài hạn cần làm việc với
Ban Tổ chức chánh quyền thành phố (đối với cán bộ, nâhn viên), hoặc Sở Lao
động-Thương binh xã hội thành phố (đối với công nhân) để xem xét giải quyết
theo chế độ thường trú có thời hạn và chấp hành nghiêm theo thời hạn đã quy
định.
Chế độ thường trú có thời hạn áp
dụng đối với cán bộ, công nhân viên ở nơi khác đến thành phố công tác học tập
trên 6 tháng rồi về địa phương cũ (dưới 6 tháng giải quyết tạm trú). Thời hạn
được ấn định chung là 12 tháng. Quá thời hạn trên, nếu cần ở lại thành phố để
hoàn thành công việc thì cơ quan chủ quản có đề nghị và sẽ được xem xét gia hạn
thêm. Riêng đối với học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghjiệp, công nhân từ nơi khác đến thành phố học tập giải quyết thường trú có
thời hạn theo khóa học của nhà trường.
Người thường trú có thời hạn
không được mua nhà ở thành phố, không được chuyển gia đình đến cư ngụ tại thành
phố.
III.- PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM
THỰC HIỆN :
Để hợp lý hóa tổ chức và kết hợp
chặt chẽ các mặt công tác : Việc điều động bổ sung lao động từ nơi khác đến với
việc sử dụng bố trí lao động tại chỗ và việc đăng ký quản lý hộ khẩu, đồng thời
cần đơn giản hóa thủ tục, thuận lợi cho nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố
giao trách nhiệm như sau :
1/ Trưởng Ban Tổ chức chánh quyền
thành phố được ủy quyền xem xét, xét duyệt đề nghị của các đơn vị xin điều động
cán bộ ở các địa phương khác về làm việc tại thành phố, cấp giấy thỏa thuận cụ
thể cho những trường hợp đúng quy định để cán bộ làm thủ tục đăng ký hộ khẩu
với công an quận, huyện nơi xin thường trú.
2/ Giám đốc Sở Lao động-Thương
binh xã hội được ủy quyền xem xét, xét duyệt đề nghị của các đơn vị xin điều
động công nhân kỹ thuật (kể cả công nhân quốc phòng và công nhân trong ngành
công an), ở các địa phương khác về làm việc tại thành phố ; xét duyệt các
trường hợp xin nghỉ hưu, nghỉ mất sức tại thành phố; cấp giấy thỏa thuận cụ thể
những trường hợp đúng quy định để công an quận, huyện lập thủ tục đăng ký hộ
khẩu.
3/ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy
quân sự thành phố xác nhận người thành phố hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về
để công an quận, huyện giải quyết đăng ký hộ khẩu, xác nhận sĩ quan quân nhân
chuyên nghiệp thuộc các đơn vị quân đội đóng tại thành phố xin đăng ký hộ khẩu
với gia đình để công an quận, huyện xét, giải quyết theo quy định.
4/ Giám đốc Công an thành phố
được ủy quyền xem xét, xét duyệt đơn của nhân dân ở các địa phương khác xin đến
thường trú ở thành phố, đơn của người đang sống ở các huyện ngoại thành xin
chuyển về thường trú ở các quận nội thành; cấp giấy thỏa thuận để công an quận,
huyện giải quyết lập thủ tục đăng ký hộ khẩu.
Ngoài việc xét duyệt theo ủy
quyền trên đây, Giám đốc Công an thành phố cần chỉ đạo Công an quận, huyện giải
quyết mau chóng thủ tục đăng ký hộ khẩu cho những người đã được các ngành chức
năng (điều 1, 2, 3, 4 trên đây) xét duyệt cho nhập khẩu thành phố, đồng thời
chỉ đạo công an quận, huyện thực hiện tốt công tác quản lý hộ khẩu theo điều lệ
quy định, thường xuyên tập hợp tình hình báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố.
5/ Đối với những người có gốc
thường trú ở thành phố đi kinh tế mới, hồi hương lập nghiệp gặp khó khăn trở về
thành phố, những người bị quy sai là tư sản đã được hạ thành phần, những người
thuộc diện chính sách không tập trung vào trại tỵ nạn và những người từ các nơi
khác đến cư trú bất hợp pháp tại thành phố thì giải quyết theo chỉ thị số
28/CT-UB ngày 26/6/1984 của Ủy ban nhân dân thành phố. Công an thành phố cần có
kế hoạch tổ chức phân loại, xem xét giải quyết dứt điểm việc này trong năm
1989.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận,
huyện cần thường xuyên nghe công an quận, huyện báo cáo tình hình, chỉ đạo thực
hiện tốt công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu ở địa phương trên cơ sở phối hợp
chặt chẽ với Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân ở các tổ dân phố, nhất là giáo
dục đấu tranh chống các trường hợp cư trú bất hợp pháp. Tăng cường chỉ đạo công
an quận, huyện rà soát lại các trường hợp cư trú bất hợp pháp, kịp thời đề xuất
giải quyết thường trú cho những người đúng tiêu chuẩn, quy định thời hạn rời
khỏi thành phố đối với những người không được thường trú ở thành phố, kiên
quyết xử lý những người cư trú bất hợp pháp không tuân thủ thời hạn rời khỏi
thành phố và những hộ gia đình chứa chấp người cư trú bất hợp pháp.
6/ Thủ trưởng các đơn vị được Ủy
ban nhân dân thành phố ủy quyền và phân công trách nhiệm trên đây cần đề cao ý
thức trách nhiệm, có kế hoạch cụ thể thực hiện một số việc quan trọng như sau :
- Chọn cán bộ có năng lực và
phẩm chất, có quan điểm quần chúng, có tác phong làm việc hòa nhã lịch sự… giúp
các đồng chỉ thủ trưởng thực hiện nhiệm vụ này.
- Trực tiếp nghe (hoặc ủy quyền
đồng chí Phó chuyên trách), chỉ đạo giải quyết từng sự việc và chịu trách nhiệm
về việc giải quyết này. Những trường hợp không chấp thuận cần nêu rõ lý do, bàn
bạc để đương sự thông cảm, chấp nhận -hạn chế nguồn phát sinh các đơn khiếu nại
tiếp theo. Những trường hợp, qua bàn bạc mà đương sự còn khiếu nại, các thủ
trưởng cần nghe lại để có kết luận cụ thể. Nếu cần báo cáo xin ý kiến Ủy ban
nhân dân thành phố.
- Chỉ đạo việc nghiên cứu để
trong phạm vi 15 ngày trả lời kết quả cho đương sự. Những trường hợp nghi vấn
cần xác minh, có thể kéo dài thêm 15 ngày và báo cáo cho đương sự biết để đỡ
phài đi lại.
Việc giải quyết thủ tục, đăng ký
hộ khẩu của công an quận, huyện không kéo dài quá 7 ngày.
- Thường xuyên kiểm tra, có biện
pháp xử lý nghiêm khắc đối với cán bộ vì tư lợi làm sai chính sách, gây phiền
hà cho quần chúng, đối với những người khai gian dối hoặc có hành vi đút lót
hối lộ đối với cán bộ.
7/ Văn phòng Ủy ban nhân dân
thành phố (Tổ Nội chính) thường xuyên theo dõi tình hình, qua ý kiến của các
đơn vị phụ trách, nghiên cứu đề xuất ý kiến, giúp Ủy ban nhân dân thành phố chỉ
đạo thực hiện tốt chỉ thị này, đồng thời giúp Ủy ban nhân dân thành phố xem xét
giải quyết các đơn khiếu nại về hộ khẩu sau khi các cơ quan chức năng không
giải quyết được.
Điều lệ đăng ký và quản lý hộ
khẩu ban hành theo Nghị định 04/NĐ ngày 7/1/1988 của Hội đồng bộ trưởng và
Thông tư hướng dẫn 05/TT ngày 4/6/1988 của Bộ Nội vụ là sự đổi mới trong quá
trình dân chủ hóa, công khai hóa của Nhà nước ta, được nhân dân đồng tình.
Vì vậy, các ngành các cấp cần tổ
chức tốt việc phổ biến và thực hiện nghiêm túc.-
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT . CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Quang Chánh
|