VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 06/CT-VKSTC
|
Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2013
|
CHỈ THỊ
VỀ TĂNG CƯỜNG TRÁCH NHIỆM CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA,
GẮN CÔNG TỐ VỚI HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI
PHẠM
Trong những năm qua, ngành Kiểm
sát nhân dân đã triển khai nhiều biện pháp nhằm thực hiện chủ trương “Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra”, kết quả bước đầu đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, góp phần
nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, hạn
chế đáng kể các trường hợp oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn một
số cán bộ, Kiểm sát viên chưa làm hết trách nhiệm, thiếu chủ động, chưa gắn
công tố với hoạt động điều tra, có trường hợp bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người
vô tội, gây bức xúc dư luận.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao yêu cầu toàn ngành Kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện tốt những mục
tiêu, nhiệm vụ chủ yếu sau:
I. MỤC TIÊU,
YÊU CẦU
Tiếp tục thực hiện tốt chủ
trương "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công
tố với hoạt động điều tra" nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu
tranh, phòng chống tội phạm; bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, kiên
quyết không để xảy ra oan, sai.
Yêu cầu việc tổ chức thực hiện
nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả, không hình thức.
II. CÁC NHIỆM
VỤ CỤ THỂ
1. Viện kiểm sát các cấp tiếp tục
quán triệt đầy đủ, sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng
về "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra", Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 và Nghị
quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về "Tăng cường các biện
pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm". Đây là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá
trong năm 2014 và những năm tiếp theo của ngành Kiểm sát nhân dân.
2. Viện kiểm sát các cấp phải kiểm
sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết đối với toàn bộ tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự và Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng dẫn thi
hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan
người không phạm tội ngay từ đầu.Định kỳ, Viện kiểm sát các cấp phối hợp với Cơ
quan điều tra cùng cấp đánh giá tình hình tội phạm, kết quả tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm để chủ động phát hiện, đấu tranh, phòng chống tội
phạm; thường xuyên hoặc đột xuất kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra. Viện kiểm
sát cấp dưới kịp thời báo cáo Viện kiểm sát cấp trên về những vụ, việc nghiêm
trọng, phức tạp hoặc có khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo giải quyết kịp thời. Viện
kiểm sát các cấp phân công Kiểm sát viên chuyên trách theo dõi, quản lý tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trực 24/24 giờ trong ngày để kiểm
sát việc khám nghiệm, xét phê chuẩn việc bắt khẩn cấp.
3. Viện kiểm sát các cấp chủ động
phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra ngay từ khi phát hiện tội phạm và trong
suốt quá trình điều tra; giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát
sinh; phát hiện và yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục những thiếu sót, vi phạm;
đảm bảo việc xử lý vụ án có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xem xét, phê chuẩn các
quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, nếu đủ căn cứ thì phê chuẩn ngay tạo
thuận lợi cho việc điều tra vụ án; nếu chưa đủ căn cứ thì yêu cầu Cơ quan điều
tra bổ sung tài liệu, chứng cứ; nếu thấy không có căn cứ, trái pháp luật thì
kiên quyết không phê chuẩn hoặc yêu cầu hủy bỏ theo quy định của pháp luật. Trường
hợp người bị bắt, người bị khởi tố không nhận tội, tài liệu chứng cứ có mâu thuẫn
hoặc chưa rõ, thì trước khi xem xét, phê chuẩn, Kiểm sát viên phải trực tiếp lấy
lời khai người bị bắt, hỏi cung bị can để xem xét, đề xuất phê chuẩn có căn cứ,
chống lạm dụng việc bắt khẩn cấp hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội. Trong trường hợp hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam
bằng biện pháp ngăn chặn khác cần có sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra,
không để bị can phạm tội mới, bỏ trốn hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng khác.
4. Viện kiểm sát các cấp chủ động,
tích cực đề ra yêu cầu điều tra bảo đảm có căn cứ, sát với nội dung vụ
án. Kiểm sát viên phải nắm chắc tiến độ điều tra, thường xuyên đôn đốc, kiểm
tra, yêu cầu Điều tra viên cung cấp ngay những tài liệu, chứng cứ mới thu thập
được để xử lý vụ án kịp thời; trường hợp có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa được
khởi tố phải kiên quyết yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can
nhằm chống bỏ lọt tội phạm. Trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện yêu cầu,
quyết định của Viện kiểm sát, phải kiểm tra nguyên nhân và có biện pháp phối hợp
giải quyết. Viện kiểm sát các cấp phân công Kiểm sát viên có kinh nghiệm,
năng lực để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với vụ án hình sự.
Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án phải lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu
tài liệu, mở sổ nhật ký cập nhật kịp thời, đầy đủ các thông tin, diễn biến quá
trình điều tra, giải quyết vụ án.
5. Trước khi kết thúc điều tra vụ
án hình sự, Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ, xem xét, đánh giá
khách quan, toàn diện các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Đối với những
trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, bị can không nhận tội, Kiểm
sát viên phải trực tiếp hỏi cung tổng hợp làm rõ việc nhận tội hoặc không nhận
tội của bị can để tiếp tục yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập đầy đủ cả chứng cứ
buộc tội và gỡ tội, không để kết thúc điều tra vụ án mới đề xuất trả hồ sơ điều
tra bổ sung.
6. Viện kiểm sát các cấp khi ban
hành các quyết định xử lý vụ án hình sự phải đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật;
việc truy tố phải đúng người, đúng tội danh, đúng thời hạn luật định; việc ủy
quyền công tố phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Viện kiểm sát có liên quan;
kiểm sát chặt chẽ các trường hợp tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra để bảo
đảm có căn cứ, đúng pháp luật, khắc phục việc lạm dụng khoản 1
Điều 25 Bộ luật hình sự để đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự không đúng quy
định của pháp luật; thường xuyên đôn đốc việc bắt truy nã để phục hồi điều tra
và truy cứu trách nhiệm hình sự. Định kỳ và bất thường, Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp kiểm tra các quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát cấp dưới để kịp thời hủy bỏ các quyết định đình chỉ không có căn cứ và
trái pháp luật, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Trong phạm vi
trách nhiệm, quyền hạn được giao, nếu để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm
thì trước hết thủ trưởng đơn vị, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
7. Viện kiểm sát các cấp bảo đảm
sự tham gia của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác theo quy định của
pháp luật; tạo điều kiện để người bào chữa nghiên cứu hồ sơ, có mặt trong giai
đoạn điều tra vụ án; tôn trọng và xem xét đầy đủ, kịp thời ý kiến của người bào
chữa, người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm việc
điều tra, thu thập chứng cứ khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
8. Viện kiểm sát các cấp chủ động,
tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
yêu cầu kết thúc điều tra các vụ án hình sự trong thời hạn luật định, nhất là
các vụ án lớn về kinh tế, chức vụ, tham nhũng; kịp thời phát hiện, chuyển khởi
tố điều tra, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp; tích cực
phối hợp cùng các bộ, ngành hữu quan làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm, tổng
kết thực tiễn, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất.
III. PHÂN
CÔNG NHIỆM VỤ
1. Vụ 1 chủ trì, phối hợp với các đơn vị hữu quan
thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng sơ kết việc thực hiện Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005 về “Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự”.
2. Vụ 1A chủ trì, phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ
và Viện kiểm sát các địa phương khẩn trương xây dựng “Quy chế công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố” và “Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi”.
3. Vụ 1B tham mưu với Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan ban hành hướng dẫn phối
hợp hoạt động giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Thanh tra, Kiểm toán trong
xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm qua thanh tra, kiểm toán và nghiên cứu,
xây dựng Đề án về: "Cơ chế, chính sách để đấu tranh, xử lý có hiệu
quả các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô, hối lộ" theo
Nghị quyết số 63/2013/QH13 của Quốc hội.
4. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
tiếp tục thực hiện các biện pháp đổi mới nhằm nâng cao năng lực phát hiện, khởi
tố, điều tra, xử lý các vụ án thuộc thẩm quyền, góp phần hỗ trợ đắc lực việc thực
hiện chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
5. Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch - tài chính
nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
6. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội và Phân hiệu Trường
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chủ trì, phối hợp với các đơn vị, Viện kiểm
sát địa phương xây dựng, triển khai Chương trình đào tạo, tập huấn phương pháp,
kỹ năng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra đối với từng nhóm tội
phạm và kiến thức về công tác điều tra tội phạm.
7. Viện khoa học kiểm sát chủ trì, phối hợp với các
đơn vị, Viện kiểm sát các địa phương và các cơ quan hữu quan tổng kết thực tiễn,
tham mưu đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp.
8. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả; Giao Vụ trưởng Vụ 1A,
Chánh Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giúp Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị này./.
Nơi nhận:
- Chủ tịch nước (để
báo cáo);
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo);
- Ủy ban Tư pháp Quốc hội (để báo cáo);
- Ban Nội chính Trung ương (để báo cáo);
- Lãnh đạo VKSNDTC (để chỉ đạo thực hiện);
- Các VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Viện kiểm sát Quân sự Trung ương;
- Các đơn vị thuộc VKSND tối cao;
- Lưu: VT, Vụ 1A.
|
VIỆN TRƯỞNG
Nguyễn Hòa Bình
|