TÒA ÁN NHÂN
DÂN
TỐI CAO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
01/2013/CT-CA
|
Hà Nội, ngày
05 tháng 02 năm 2013
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC TRIỂN KHAI, TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC NĂM 2013 CỦA
NGÀNH TÒA ÁN NHÂN DÂN
Năm 2012, ngành Tòa án nhân dân
triển khai công tác trong điều kiện kinh tế nước nhà còn gặp nhiều khó khăn;
tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp.
Mặc dù an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước tiếp tục được giữ
vững và ổn định, nhưng tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp; các tranh chấp
dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân - gia đình, lao động và các vụ án hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án có xu hướng gia tăng. Cùng với yêu
cầu làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án, ngành Toà án nhân dân
còn phải tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đặc biệt là việc kiểm điểm, tự phê bình
và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4; tiếp tục triển
khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội; tổ
chức tổng kết việc thi hành và đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến
pháp năm 1992; tham gia hoàn thiện hệ thống pháp luật; thực hiện tốt công tác
quản lý ngành với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân
dân trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế của ngành Tòa án
nhân dân Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế ...
Mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra là
rất nặng nề, nhưng trên cơ sở quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; ý kiến chỉ đạo
của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về công tác Tòa án; Nghị quyết số
01/NQ/BCS ngày 01/01/2012 của Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao và Chỉ thị
số 01/2012/CT-CA ngày 11/01/2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về lãnh đạo,
chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm
2012 của ngành Tòa án nhân dân, các Tòa án đã chủ động xây dựng kế hoạch,
chương trình công tác cụ thể để tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của
ngành và đã tạo ra những chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt công tác. Tiến
độ và chất lượng công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án được đẩy mạnh và
nâng lên; một số khuyết điểm, thiếu sót trong công tác chuyên môn từng bước được
khắc phục; công tác xây dựng ngành tiếp tục có những chuyển biến tiến bộ; công
tác hợp tác quốc tế của ngành được duy trì và đẩy mạnh... Ngành Tòa án nhân dân
cũng đã tham gia tích cực vào việc nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992 và hoàn thiện hệ thống pháp luật; triển khai thực hiện tốt các
nhiệm vụ cải cách tư pháp được giao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đã đạt được, công tác Tòa án trong năm qua vẫn còn những khuyết điểm, tồn tại.
Đó là, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán
chưa giảm mạnh; chưa khắc phục triệt để việc để các vụ án quá thời hạn xét xử;
mặc dù còn trong thời hạn giải quyết nhưng số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm chưa được xem xét, giải quyết còn nhiều; tranh tụng tại phiên tòa và đổi
mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án còn hạn chế; công tác hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu công tác xét xử; chưa khắc phục
triệt để tình trạng thiếu cán bộ, Thẩm phán ở một số Tòa án địa phương, nhất là
các Tòa án khu vực phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc; tinh thần trách
nhiệm của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn yếu, một số trường hợp tiêu cực, sa
sút phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật, thậm chí có trường hợp bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Năm 2013, tình hình tội phạm, các
tranh chấp dân sự và khiếu kiện hành chính còn diễn biến phức tạp với xu hướng
gia tăng về số lượng. Đồng thời với vị trí trung tâm trong cải cách tư pháp và
yêu cầu tổ chức thực hiện có hiệu quả Thông báo kết luận số 116-TB/TW ngày
27/12/2012 của Bộ Chính trị về việc đào tạo cán bộ của ngành Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân, Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội
“Về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm
sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013” đang đặt ra
cho ngành Tòa án nhân dân nhiều nhiệm vụ rất nặng nề cần tập trung thực hiện
trong thời gian tới.
Để đảm bảo hoàn thành tốt các nhiệm
vụ công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao yêu cầu:
1. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa
án nhân dân tối cao; lãnh đạo Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp tổ chức
quán triệt và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số
37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội “Về công tác phòng, chống vi phạm
pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân
và công tác thi hành án năm 2013”; Nghị quyết số 01 -NQ/BCS ngày 03/ 01/2013 của
Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao và các phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm
công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân đã được đề ra tại Hội nghị triển
khai công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân. Gắn việc thực hiện các nhiệm
vụ công tác của ngành với việc thực hiện các yêu cầu cải cách tư pháp.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tăng cường các biện pháp giáo dục chính
trị tư tưởng, đạo đức lối sống; nâng cao tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, công
chức. Triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của
Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản
lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác
xây dựng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân trong sạch,
vững mạnh. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm
công vụ của cán bộ, công chức; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh đối với
các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức.
2. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng,
hoàn thiện các đề án phục vụ yêu cầu cải cách tư pháp, trong đó tập trung vào
các đề án theo sự phân công của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp, đặc
biệt là việc hoàn thiện Đề án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực theo Kết
luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Đề án tăng cường cơ sở vật
chất và đội ngũ cán bộ cho ngành Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp trong tình hình mới. Xây dựng Đề án cải cách thủ tục hành chính tư pháp
trong hoạt động của Tòa án nhân dân. Tổng kết đánh giá về tranh tụng tại phiên
tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, trên cơ sở đó xây dựng Đề án nâng cao
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Tiếp tục
nghiên cứu đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về việc phát triển án lệ theo
tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW. Tổ chức thực hiện tốt các đề án, kế hoạch khi
đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt một cách quyết liệt, nhưng thận trọng và phải
có những bước đi phù hợp mang tính đột phá; đồng thời, đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng, sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân đối với hoạt động của Tòa
án.
3. Các Tòa chuyên trách, Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự các
cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phải đẩy nhanh tiến độ và nâng
cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, nhất là các vụ án hình sự lớn,
trọng điểm, các tranh chấp, yêu cầu về dân sự nổi cộm, các vụ án hành chính có
liên quan tới lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về đất đai gây bức xúc trong
nhân dân; hạn chế đến mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi
chủ quan của Thẩm phán, phấn đấu giảm hơn ít nhất 1% so với năm 2012; kiên quyết
không để xảy ra việc kết án oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Đảm bảo
các bản án, quyết định của Tòa án phải đúng pháp luật, rõ ràng và có tính khả
thi để Tòa án thực sự là biểu tượng của công lý, tạo niềm tin cho nhân dân. Khắc
phục triệt để tình trạng án quá hạn luật định, nhất là các vụ án dân sự. Tăng
cường công tác xét xử lưu động các vụ án hình sự; hạn chế tới mức thấp nhất việc
trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật. Việc cho
bị cáo hưởng án treo, cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật,
nhất là các bị cáo phạm các tội về kinh tế, tham nhũng.
Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất
lượng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, phấn đấu giải quyết đạt
trên 60% các đơn thuộc thẩm quyền; khắc phục tình trạng đã trả lời không có căn
cứ kháng nghị nhưng sau đó người có thẩm quyền lại kháng nghị để giải quyết vụ
án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Làm tốt công tác Thi hành án hình
sự thuộc trách nhiệm của ngành Tòa án nhân dân, bảo đảm ra quyết định thi hành
án hình sự đúng thời hạn đối với 100% người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực
pháp luật; việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù phải đúng pháp luật; chấm dứt tình trạng chậm gửi bản án, quyết định của Tòa
án cho đương sự và các cơ quan hữu quan.
Tiếp tục xác định việc đổi mới thủ
tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai,
đúng quy định của pháp luật; thực hiện đồng bộ các giải pháp về nâng cao hiệu
quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ; đổi mới thủ tục hành
chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp nhằm công khai minh bạch các
hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có công việc
liên quan đến Tòa án và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin tại Tòa án là
những khâu đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết, xét xử
các loại vụ án. Chú trọng làm tốt công tác hoà giải trong giải quyết các vụ việc
dân sự và việc tổ chức đối thoại trong giải quyết các vụ án hành chính. Thực hiện
quyết liệt các giải pháp về tổ chức cán bộ để bổ sung cán bộ, Thẩm phán cho các
đơn vị trong toàn ngành, nhất là các Tòa án nhân dân cấp huyện và các đơn vị có
số lượng lớn các vụ án phải giải quyết. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý. Tích cực
tham gia việc tổng kết thực tiễn công tác xét xử, đề xuất các vấn đề vướng mắc
để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Làm tốt công tác thanh tra, kiểm
tra, giám đốc việc xét xử của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới để kịp thời
phát hiện, khắc phục, rút kinh nghiệm chung giữa Tòa án các cấp về những sai
sót nghiệp vụ trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án. Thường xuyên phối hợp
với Viện Kiểm sát và cơ quan Thi hành án dân sự rà soát các bản án, quyết định
về dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành để xử lý những vấn
đề thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và thực
hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các đơn khiếu nại
về tố tụng, đơn tố cáo cán bộ và đặc biệt là các đề nghị xem xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định của pháp luật tố tụng liên quan tới việc
giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ
hơn về thủ tục và trách nhiệm của đương sự.
4. Giao Tòa hình sự Tòa án nhân
dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện khoa học xét xử, Ban thư ký và Vụ Thống
kê - Tổng hợp đề xuất các nội dung tổng kết về tranh tụng tại phiên tòa theo
tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, trên cơ sở đó xây dựng Đề án nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp.
5. Giao Ban Thư ký phối hợp với Viện
khoa học xét xử và các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu, đề
xuất các nội dung liên quan tới việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật
tố tụng liên quan tới công tác giám đốc thẩm, tái thẩm; khẩn trương hoàn thành
“Đề án cơ chế giải quyết đơn đề nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở Tòa
án nhân dân tối cao”.
6. Giao Viện khoa học xét xử khẩn
trương xây dựng và hoàn thiện các dự án Luật, Pháp lệnh mà Tòa án nhân dân tối
cao được giao chủ trì soạn thảo theo đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng để
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua, đặc biệt là dự án
Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật Phá sản (sửa đổi); Pháp lệnh xử lý
hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án và Pháp lệnh về trình tự, thủ tục
xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao tổ chức thực hiện tốt việc lấy ý
kiến của cán bộ, công chức trong toàn ngành về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, bổ
sung, trên cơ sở đó tổng hợp và tiếp tục nghiên cứu đề xuất, kiến nghị những nội
dung cần sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp, nhất là những vấn đề liên quan đến tổ
chức và hoạt động của Tòa án. Nghiên cứu đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền
về việc phát triển án lệ theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị. Đổi mới và đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực
tiễn xét xử; kịp thời tham mưu cho Hội đồng Thẩm phán ban hành các văn bản hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tập trung vào những vấn đề có nhiều vướng mắc
trong công tác xét xử và các luật, pháp lệnh mới được Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội thông qua. Chủ động đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối
cao những nội dung cần trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật để
tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp.
7. Giao Trường Cán bộ Tòa án phối
hợp với các đơn vị liên quan tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch tập huấn các văn bản
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật mới được ban hành có liên quan tới công
tác giải quyết, xét xử các loại vụ án cho cán bộ, Thẩm phán trong toàn ngành.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức phù hợp với tiêu
chuẩn chức danh công chức. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp
với từng loại đối tượng như: cán bộ có chức danh tư pháp, cán bộ lãnh đạo, quản
lý; cán bộ nghiên cứu, chuyên gia, công chức hành chính tư pháp và cán bộ, công
chức khác. Trong đó, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận
chính trị, ngoại ngữ, tin học và các kiến thức kinh tế, xã hội bổ trợ khác cho
đội ngũ cán bộ, công chức của ngành, nhất là ở cấp huyện. Tiếp tục củng cố, kiện
toàn và nâng cao năng lực đào tạo của Trường cán bộ Tòa án, đồng thời sớm
nghiên cứu, triển khai phương án thành lập Học viện Tòa án với cơ cấu tổ chức bộ
máy khoa học và đội ngũ giảng viên có chất lượng, đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ
đào tạo nghiệp vụ xét xử, đào tạo cử nhân chuyên ngành cho ngành Tòa án nhân
dân, tiến tới đào tạo trên đại học. Tiến hành xây dựng và đề xuất phương án chọn,
cử tuyển đối với con em địa phương, người dân tộc thiểu số, nhằm bổ sung nguồn
cán bộ cho Tòa án miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
8. Giao Vụ Tổ chức - Cán bộ phối hợp
với các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh tiếp tục
củng cố, kiện toàn bộ máy và tổ chức cán bộ cho các đơn vị thuộc Tòa án nhân
dân tối cao và Tòa án địa phương, nhất là đối với Toà án nhân dân cấp huyện. Sớm
hoàn thành việc phân bổ biên chế và hướng dẫn các Toà án địa phương thực hiện.
Đẩy mạnh việc rà soát bổ sung quy hoạch, luân chuyển đội ngũ cán bộ lãnh đạo
Tòa án các cấp; kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác hành chính
tư pháp, tổng hợp, công nghệ thông tin, thi đua khen thưởng tại các Tòa án nhân
dân cấp tỉnh. Xây dựng Đề án đảm bảo biên chế Thẩm phán và đội ngũ cán bộ công
chức ngành Tòa án nhân dân và Kế hoạch đánh giá về tình hình hoạt động và chất
lượng của đội ngũ Hội thẩm nhân dân, để từ đó đề ra các giải pháp thiết thực nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm Tòa án nhân dân.
Chủ trì xây dựng và hoàn thiện các
quy định, quy chế về công tác tổ chức cán bộ, trong đó chú trọng việc xây dựng
các quy chế về đào tạo cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân; tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức; đánh giá, luân chuyển và bổ nhiệm cán bộ, nhằm
hoàn thiện thể chế về tuyển dụng, quản lý, đánh giá và sử dụng cán bộ. Theo đó,
cần xây dựng cơ cấu, vị trí việc làm đối với từng đơn vị, từng cấp Tòa án gắn với
việc xây dựng Bộ tiêu chuẩn các chức danh công chức ngành Tòa án nhân dân. Xây
dựng cơ chế phát hiện, thu hút, bồi dưỡng và đãi ngộ đối với công chức có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ tốt; đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và thử thách đối với
cán bộ thuộc diện quy hoạch các chức vụ lãnh đạo Tòa án các cấp. Đề xuất sửa đổi,
bổ sung các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của ngành phù hợp với
đặc thù công tác Tòa án.
Xây dựng các qui định, quy chế về tăng
cường kỷ luật công vụ và công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và xử lý nghiêm minh đối với tập thể và cá nhân cán bộ, công chức Tòa án
có vi phạm, nhất là các trường hợp kết án oan người không có tội, cho hưởng án
treo không đúng quy định của pháp luật đối với các bị cáo phạm tội về tham
nhũng, những trường hợp có tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa cao hoặc có
sai sót do lỗi chủ quan của Thẩm phán gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân. Chú trọng việc xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch, vững mạnh, có tính chiến đấu cao. Tăng cường chế độ trách nhiệm đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị. Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối
cao ban hành văn bản chỉ đạo toàn ngành về cấm hút thuốc lá trong phòng làm việc
và sử dụng đồ uống có cồn tại công sở theo tinh thần Quy chế văn hóa công sở tại
các cơ quan hành chính nhà nước, được ban hành kèm theo Quyết định số
129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
9. Giao Vụ Kế hoạch - Tài chính tiếp
tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị hoạt động cho các
Tòa án đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, đồng thời đảm bảo thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về giải pháp chủ
yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
Nghiên cứu, tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đề xuất với các cơ
quan có thẩm quyền trong việc đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý kinh phí hoạt động
của Tòa án. Chủ trì xây dựng Đề án về xây dựng nhà công vụ cho các Tòa án.
10. Giao Hội đồng thi đua - Khen
thưởng ngành Tòa án nhân dân và Vụ Thi đua- Khen thưởng tiếp tục tổ chức việc
quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị của Đảng và hướng dẫn của Hội đồng
- Thi đua Khen thưởng Trung ương về đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước;
tiêu chí hóa lời huấn dạy của Bác đối với công tác Tòa án; tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện cuộc vận động
“Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm
phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” trong toàn ngành, gắn với phong
trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân,
hiểu dân, giúp dân, học dân”. Kịp thời khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân
có thành tích xuất sắc trong công tác và tuyên dương, nhân rộng các điển hình
tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước của ngành. Tham mưu cho lãnh đạo
Tòa án nhân dân tối cao về việc chuẩn bị các điều kiện để tiến tới tổ chức Hội
nghị Thẩm phán tiêu biểu toàn quốc.
11. Giao Vụ Hợp tác quốc tế tiếp tục
tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao làm tốt công tác đối ngoại của
ngành theo đúng định hướng công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhằm tăng cường
mối quan hệ hợp tác giữa ngành Tòa án nhân dân Việt Nam với Tòa án các nước
trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là với các nước bạn Lào và Cămpuchia;
tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt
động của các Tòa án.
12. Giao Vụ Thống kê - Tổng hợp tiếp
tục tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao trong việc tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong các hoạt động của Tòa án; chỉ đạo các Tòa án địa
phương triển khai thực hiện nghiêm túc các phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin
trong toàn ngành. Chủ trì, phối hợp với Viện Khoa học xét xử, Ban thư ký, Vụ Hợp
tác quốc tế và các đơn vị có liên quan triển khai xây dựng và hoàn thiện Đề án
về đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án.
13. Giao Ban thanh tra khẩn trương
xây dựng Quy chế về công tác thanh tra; chủ trì phối hợp với Vụ Tổ chức - Cán bộ,
Vụ Thi đua - Khen thưởng xây dựng cơ chế giám sát việc thực hiện trách nhiệm
công vụ của cán bộ, công chức, nhất là trong công tác giải quyết, xét xử các loại
vụ án; chủ trì phối hợp với Vụ Tổ chức - Cán bộ và các Tòa chuyên trách Tòa án
nhân dân tối cao chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch thanh tra,
kiểm tra hoạt động của Tòa án các cấp, chú trọng việc kiểm tra về những hạn chế,
thiếu sót trong công tác Tòa án năm 2012.
14. Giao Tạp chí Tòa án nhân dân
theo dõi, đôn đốc việc triển khai luyện tập và sử dụng ca khúc “Hành khúc Tòa
án nhân dân” tại các đơn vị trong toàn ngành.
15. Tòa án các cấp cần tiếp tục
triển khai thực hiện việc công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án theo
quy định của pháp luật; thực hiện nghiêm “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức
ngành Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng, chống tham nhũng; triển
khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật
phòng, chống tham nhũng và Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án
nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm quán triệt, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nội dung của Chỉ thị này.
Nơi nhận:
- Chủ tịch nước; Để
- Ủy ban thường vụ Quốc hội; báo
- Văn phòng Chủ tịch nước; cáo
- Văn phòng Chính phủ;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Các PCA TANDTC (để chỉ đạo thực hiện);
- Thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC,
Chánh án TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);
- Lưu: VP, Vụ TKTH.
|
CHÁNH ÁN
Trương Hòa Bình
|