CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 99/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 23
tháng 3 năm 2021
|
QUỐC HỘI
KHÓA XIV, KỲ HỌP THỨ 11
BÁO CÁO
CÔNG TÁC NHIỆM KỲ
2016 - 2021 CỦA CHÍNH PHỦ
BÁO CÁO CỦA CHÍNH
PHỦ
do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày
BÁO CÁO
CÔNG
TÁC NHIỆM KỲ 2016 - 2021 CỦA CHÍNH PHỦ
(Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ
11, Quốc hội khóa XIV)
Thưa Quốc hội,
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị
khách quý,
Thưa đồng chí, đồng bào,
Trong suốt nhiệm kỳ vừa qua, con tàu Việt Nam
đã phải vượt qua hải trình dồn dập bão tố của biết bao khó khăn, thách thức lớn
hơn, vượt xa hơn so với những dự tính ban đầu nhiệm kỳ. Đặc biệt, từ đầu năm
2020, đại dịch Covid-19 đã ập đến tàn phá nặng nề nền kinh tế thế giới và các
quốc gia. Trong khi đó, cạnh tranh địa chiến lược giữa các nước, đối tác lớn ngày
càng gay gắt. Cạnh tranh thương mại và rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ
quốc tế gia tăng. Khoa học công nghệ phát triển rất nhanh cùng với chuyển động
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tác động sâu rộng đến kinh tế và nhịp
sống của các quốc gia.
Ở trong nước, kế thừa thành tựu 35 năm đổi mới, thế
và lực của đất nước ta ngày càng lớn mạnh. Từ quyết định của Đổi mới năm 1986 đến
sự nỗ lực bền bỉ không ngừng nghỉ của những thập niên sau đó đã đưa nước ta
thoát nghèo; từ kém phát triển, trở thành nước đang phát triển và hiện nay Việt
Nam có tên trong Nhóm 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất1. Những
quyết sách của chúng ta hôm nay sẽ nối tiếp tạo nền tảng để tiến lên thực hiện
khát vọng xây dựng quốc gia Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào giữa thế kỷ
21.
Thưa Quốc hội,
Như câu tục ngữ “lửa thử vàng, gian nan thử sức”,
trong 5 năm qua chúng ta đã đoàn kết cùng nhau khắc phục nhiều hạn chế, bất cập
nội tại và đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Thiên tai, nhân tai, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu gây thiệt hại rất nặng nề, nhất là sự cố ô nhiễm môi trường ở
ven biển miền Trung năm 2016, dịch tả lợn châu Phi năm 2019, hạn hán, xâm nhập
mặn ở Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, bão lũ lịch sử ở miền Trung; đặc biệt
là đại dịch Covid-19 từ đầu năm 2020 đến nay đã tác động mạnh đến mọi mặt đời sống
xã hội; sản xuất kinh doanh đình trệ; hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm,
giảm sâu thu nhập; hoạt động văn hóa, xã hội và đời sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, kế thừa những thành quả to lớn
và kinh nghiệm quý trong quản lý, chỉ đạo điều hành từ các nhiệm kỳ trước, bám
sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và tình hình thực tiễn, với phương châm “Chính
phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ Nhân dân”,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện
quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên tất
cả các lĩnh vực. Huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết,
chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp.
Chú trọng xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo đột phá phát triển, huy động
và giải phóng mọi nguồn lực, nỗ lực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người dân,
doanh nghiệp, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, vừa
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn và trung hạn, vừa tạo nền tảng
cho phát triển nhanh và bền vững trong dài hạn.
Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của đại dịch
Covid-19, chúng ta đã "chống dịch như chống giặc", quyết tâm thực hiện
"mục tiêu kép": vừa phòng chống dịch hiệu quả vừa tập trung phục hồi
và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân.
Thành công trong phòng chống đại dịch Covid-19 thời gian qua của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta là yếu tố có ý nghĩa quyết định, tạo môi trường thuận lợi
cho ổn định và phát triển đất nước; đồng thời cũng là minh chứng cho sự nỗ lực
vượt khó, tinh thần đoàn kết, ý chí vươn lên của các cấp, các ngành, cộng đồng
doanh nghiệp và nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần củng cố niềm
tin, tạo sự phấn khởi trong toàn xã hội2 và được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao.
Một trong những điểm nổi bật của công tác lãnh đạo,
chỉ đạo điều hành vừa qua là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo
các cấp, các ngành chủ động, tích cực đổi mới, cải cách mạnh mẽ và quyết liệt
hành động; chấp hành nghiêm sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm hệ thống
hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương hoạt động thống nhất, thông suốt,
hiệu lực, hiệu quả. Phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể kết hợp với đề cao trách
nhiệm cá nhân của người đứng đầu Chính phủ và từng thành viên trong giải quyết
các công việc chung thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Kịp thời ban hành và thực
hiện hiệu quả Chương trình công tác trên cơ sở thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội; cụ thể hóa Chương trình hành động của cả nhiệm kỳ và yêu cầu quản lý,
điều hành trên các lĩnh vực, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước3.
Với tinh thần bám sát thực tiễn, giai đoạn 2016 - 2020, Lãnh đạo Chính phủ đã
thực hiện 570 chuyến công tác “lên rừng, xuống biển” làm việc với địa phương,
cơ quan, đơn vị cơ sở, chỉ đạo cụ thể, kịp thời tháo gỡ nhiều vấn đề quan trọng,
cấp bách.
Thưa Quốc hội,
Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến các
vị Đại biểu Quốc hội Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2020 và Báo cáo công tác nhiệm
kỳ 2016 - 2021 của Chính phủ. Sau đây, thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng
báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu trong công
tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ trên một số lĩnh vực.
I. Thực hiện các đột phá chiến
lược là ưu tiên cao trong chỉ đạo điều hành.
1. Đột phá quan trọng, mở đường là đột phá về
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điểm mới trong
triển khai xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải quy định ngắn gọn, dễ hiểu, dễ
thực hiện gắn với tổ chức thi hành hiệu quả. Ngoài thảo luận tại các phiên họp
thường kỳ, Chính phủ đã có thêm 7 phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật. Thực
hiện đổi mới tư duy, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ đề xuất
đã tập trung vào các ưu tiên và tập trung nguồn lực cho thực hiện, tháo gỡ các
ách tắc, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hội nhập của hệ thống pháp luật. Chất
lượng văn bản hướng dẫn được nâng lên; đến nay chỉ còn 12 văn bản nợ đọng, thấp
nhất trong nhiều nhiệm kỳ. Chính phủ đã thành lập Tổ công tác để rà soát chồng
chéo, mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo Quốc hội.
2. Đột phá về nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực là tấn công vào “điểm nghẽn” kéo dài, Chính phủ luôn nỗ lực tháo gỡ
bằng nhiều biện pháp, với đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực, giải quyết việc
làm cho gần 8 triệu lao động, coi con người là trung tâm của sáng tạo. Chỉ số Đổi
mới Sáng tạo Toàn cầu (GII) của Việt Nam gần đây liên tục tăng cao, dẫn đầu
Nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp (năm 2020 xếp thứ 42/131). Chỉ số
phát triển con người (HDI)4 có sự tăng tiến mạnh mẽ (về giáo dục, y
tế, phụ nữ,...)
3. Đột phá về kết cấu hạ tầng đồng bộ mang
tính “dẫn dắt” cho thu hút đầu tư, phát triển của các ngành, lĩnh vực,
nâng cao chất lượng tăng trưởng. Nhiều công trình hạ tầng được hoàn thành, đưa
vào sử dụng, tạo thêm năng lực, sức cạnh tranh và diện mạo mới cho đất nước.
Đang đầu tư mới 654 km đường bộ cao tốc Bắc - Nam, các tuyến cao tốc kết nối
các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Hoàn thành và
đưa vào sử dụng nhiều tuyến đường kết nối liên vùng, liên tỉnh như cao tốc
Trung Lương - Mỹ Thuận, cầu Cao Lãnh, Vàm Cống... Đầu tư xây dựng mới, mở rộng
hệ thống sân bay, đặc biệt 3 sân bay: Long Thành, Nội Bài, Tân Sơn Nhất. Tập
trung nâng cao năng lực hệ thống cảng biển, logistics, hạ tầng công nghiệp, viễn
thông, mạng 5G...
II. Chính phủ kiên định mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát,
bảo đảm các cân đối lớn, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo điều hành. Tập trung chỉ đạo theo
dõi sát tình hình, nhận diện thời cơ, thách thức, chủ động xây dựng kịch bản
tăng trưởng kinh tế và đề ra các đối sách, giải pháp kịp thời, phù hợp. Điều
hành các chính sách vĩ mô đồng bộ, chủ động, linh hoạt; phối hợp hài hòa giữa
các chính sách tiền tệ, tài khóa, thương mại, đầu tư và các chính sách khác. Nhờ
đó, kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo
đảm; lạm phát được kiểm soát5. Thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ
và tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục gần 100 tỷ USD. Tập trung tín dụng
cho sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, tăng cường phòng chống
“tín dụng đen”. Thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn, tài
chính vi mô.
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - NSNN gắn với
triển khai kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm; cơ cấu chi ngân sách chuyển biến
tích cực, tăng tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển6. Bội chi NSNN
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 3,45%7. Nợ công giảm từ khoảng
64,5% GDP vào đầu nhiệm kỳ xuống còn 55,3% GDP và được cơ cấu lại bền vững, an
toàn hơn, chuyển dần từ vay nước ngoài sang vay trong nước với kỳ hạn dài hơn
và chi phí thấp hơn. Đồng thời, thu hút mạnh đầu tư trong và ngoài nước, phát
triển mạnh kinh tế tư nhân.
Có thể tự tin cho rằng, nhờ có được tích lũy thu nhập
cũng như những cải thiện đáng kể về không gian tài khóa, nhất là trong 4 năm
tăng trưởng cao 2016-2019, chính là “của để dành” góp phần quan trọng giúp nền
kinh tế và người dân chúng ta vượt qua khó khăn vừa qua của dịch Covid-19. Theo
nhiều tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế, xếp hạng của Việt Nam ngày càng được
nâng lên, mới đây ngày 18 tháng 3 năm 2021, tổ chức Moody’s đã nâng triển vọng
tín nhiệm của Việt Nam lên mức “tích cực”, cho thấy nền tảng vĩ mô của Việt Nam
là khá chắc chắn và tiếp tục được cải thiện ngay cả trong dịch Covid-19.
Trong bối cảnh thị trường thế giới và trong nước gặp
nhiều khó khăn, nhất là do dịch Covid-19, chúng ta đã vừa phát triển thị trường
100 triệu dân vừa thúc đẩy xuất khẩu thông qua các FTA thế hệ mới để đa dạng
hóa, không để quá phụ thuộc vào một thị trường8. Tổng kim ngạch xuất,
nhập khẩu tăng 1,7 lần, từ 328 tỷ USD năm 2015 lên 517 tỷ USD năm 2019 và đạt
545 tỷ USD năm 2020 với 5 năm liên tục có thặng dư thương mại ngày càng tăng.
Trong nhiệm kỳ qua và trong bối cảnh đại dịch
Covid-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời chỉ đạo thực hiện quyết liệt
các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh giải
ngân vốn đầu tư công, bảo đảm an sinh và trật tự an toàn xã hội9, phục
hồi kinh tế trong điều kiện “bình thường mới”. GDP năm 2020 tăng 2,91%, Việt
Nam là nước duy nhất có tăng trưởng dương trong 6 nền kinh tế lớn tại Đông Nam
Á. Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%; bình quân 2016 - 2020
đạt 5,99%, cao hơn 5,91% của giai đoạn 2011 - 2015, thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao nhất khu vực và thế giới.
Năm 2020, quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với
2015, đạt trên 340 tỷ USD. Trong 5 năm qua chúng ta đã cùng nhau tạo ra tổng số
khoảng 1.300 tỷ USD giá trị tăng thêm (GDP) và năm 2020 đã vượt lên trở thành nền
kinh tế có quy mô lớn thứ 4 trong ASEAN10, đứng thứ 37 thế giới11.
Phát biểu trước Quốc hội thời điểm đầu nhiệm kỳ, Tôi đã nêu: Việt Nam đứng
thứ 14 trên thế giới về dân số nhưng quy mô nền kinh tế chỉ đứng thứ 48.
Nhưng rất tự hào là đến nay xếp hạng của nước ta đã tăng 11 bậc (vượt qua 11 quốc
gia) đứng thứ 37 thế giới. Dù con đường đi lên còn đầy khó khăn, thử thách,
nhưng chúng ta hoàn toàn tin tưởng không lâu nữa Việt Nam sẽ bước sang ngưỡng
thu nhập trung bình cao và gia nhập Nhóm nước phát triển có thu nhập cao vào
2045.
III. Kinh
tế Việt Nam đang phục hồi và để tiếp đà tăng tốc, vượt lên trong khu vực, đòi hỏi
phải cơ cấu lại nền kinh tế năng động hơn, hiệu quả hơn trong từng lĩnh vực,
ngành, doanh nghiệp gắn với vận hành hiệu quả các nguồn lực tín dụng, tài khóa,
đầu tư công... đồng thời mở ra không gian phát triển kinh tế biển.
- Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện các trọng
tâm về cơ cấu lại đầu tư công, các tổ chức tín dụng12 và
doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Khu vực DNNN, đặc biệt là tại các tập đoàn, doanh
nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển biến tích cực về minh bạch, năng lực quản trị, hiệu
quả hoạt động, những doanh nghiệp, dự án thua lỗ lớn, kéo dài được đẩy mạnh tái
cơ cấu, trong đó nhiều dự án hoạt động trở lại, giảm lỗ, ổn định và tiến tới có
lãi; đã có 3 Dự án được đưa ra khỏi danh sách 12 Dự án yếu kém phải xử lý. Việc
tái cơ cấu DNNN đã tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế, nhất là khu vực tư
nhân tham gia.
Hiện có khoảng 14.000 hợp tác xã đang hoạt động
theo Luật Hợp tác xã, đồng thời tái cơ cấu hoạt động gắn với thị trường, hiệu
quả. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương13 về phát triển kinh tế tư
nhân, Chính phủ khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân
quy mô lớn, phát triển mạnh trên nhiều lĩnh vực14. Nhiệm kỳ này đã
thu hút 175 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài FDI, vốn thực hiện đạt hơn 60%, đang
cơ cấu lại việc lựa chọn, nâng cao chất lượng hợp tác đầu tư FDI15.
- Cơ cấu giữa các ngành kinh tế tiếp tục
chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Năng suất sản xuất tăng, mức đóng góp của
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân ước đạt 45,7%, vượt mục tiêu đặt
ra (30 - 35%). Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên gần 39% năm 2020
đạt mục tiêu đề ra. Công nghiệp từng bước chuyển sang ứng dụng mạnh mẽ khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo; công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng
ngày càng cao. Giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, lao động đơn giản.
Năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp từ vị trí 58 năm 2015 vươn
lên thứ 42 vào năm 201916. Xây dựng nền nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng hiện đại ứng dụng công nghệ cao, hiệu quả cao
và “thuận thiên” thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực
trong mọi tình huống, khẳng định vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế, cả trong
bối cảnh dịch Covid-19. Triển khai Nghị quyết 120 năm 2017 của Chính phủ khá
thành công về tổ chức sản xuất, chuyển đổi cơ cấu phát triển bền vững và phát
triển hạ tầng quan trọng tại ĐBSCL. Các ngành dịch vụ có tiềm
năng, lợi thế công nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, vận tải,
logistics,... phát triển nhanh Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền
kinh tế số, xã hội số17. Các sản phẩm số do doanh nghiệp Việt Nam
sáng tạo, sản xuất - “Make in Viet Nam” - đang mạnh mẽ vươn ra toàn cầu.
Du lịch trước đại dịch đã có sự tăng trưởng rất nhanh, đóng góp khoảng 10% vào
GDP.
- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới 2016 - 2020 về đích sớm trước gần 2 năm18. Tốc độ đô
thị hóa tăng nhanh ở các đô thị lớn, theo hướng đô thị xanh, thông minh. Kinh
tế biển có bước phát triển bứt phá mở ra không gian phát triển mới theo Chiến
lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045 đưa nước
ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển gắn với bảo đảm quốc phòng an
ninh, bảo vệ chủ quyền.
IV. Phát triển giáo dục, văn hóa
xã hội là phát huy sức mạnh “nội sinh” của
quốc gia. Khi kinh tế càng phát triển thì chúng ta càng chăm lo nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của người dân và chính sự năng động sáng tạo của người dân,
doanh nghiệp là nguồn nội lực bền vững cho phát triển, đó phải chăng là vòng
xoay thăng tiến của thịnh vượng, đúng với tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
XIII về dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát và dân thụ hưởng.
Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan dân
vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể để vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật, phát triển KTXH. Thực
hiện chính sách dân tộc, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Đề án Chương
trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2021 - 2030. Chính phủ đã chú trọng thực hiện tốt chính sách đối
với người có công; bảo đảm an sinh xã hội; kịp thời hỗ trợ người dân, doanh
nghiệp gặp khó khăn do dịch Covid-19, thiên tai, bão lũ19. Triển
khai giảm nghèo bền vững hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo giảm liên tục20
còn 2,75% năm 2020, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Chúng ta đã có nhiều đổi mới trong đào tạo, nâng
cao năng lực y tế, phát triển y tế dự phòng, mạng lưới y tế, nhất là trong
phòng, chống dịch Covid-19 và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong khám chữa bệnh,
quản trị bệnh viện; đồng thời đạt kết quả tốt về tỷ lệ bảo hiểm y tế, tăng lên
gần 91% năm 2020.
Chính phủ coi phòng, chống dịch Covid-19 là
nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng; đề ra các giải pháp kịp thời, kiên quyết,
sớm hơn, cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới; với phương châm ‘4 tại
chỗ’ và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, được người dân đồng tình ủng hộ.
Chúng ta đã sản xuất thành công máy thở, bộ Kit xét nghiệm Covid-19 và đang đẩy
nhanh nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước và nhập khẩu. Kiên quyết không chủ
quan, tập trung thực hiện phương châm “5K+vắc xin” trong phòng chống dịch
Covid-19.
Giáo dục có sự tiến bộ ở tất cả các cấp học, đẩy mạnh
đào tạo nghề gắn với thị trường lao động. Các giá trị văn hóa dân tộc được củng
cố và phát huy, đang ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển đất
nước. Giải quyết hài hòa các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, các chính sách người
cao tuổi, trẻ em, thanh thiếu niên, gia đình, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của
phụ nữ21. Thể dục, thể thao có nhiều thành tích, nhất là thể thao
thành tích cao22. Công tác thi đua khen thưởng được chú trọng thực
hiện kịp thời để động viên, nêu gương người tốt việc tốt, khuyến khích các điển
hình tiên tiến.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin,
truyền thông theo Chiến lược thông tin quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 203023,
đã góp phần tạo đồng thuận xã hội, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng,
Nhà nước, nhất là trong phòng, chống Covid-19, ngăn chặn tin giả, sai sự thật...
V. Bảo vệ môi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu đang trở thành những chuẩn mực
toàn cầu và tại mỗi quốc gia. Chúng ta không thể xuất khẩu đồ gỗ nếu sử dụng gỗ
do chặt phá rừng, không thể bán thủy sản nếu là đánh bắt bất hợp pháp, không
khai báo...
Thực hiện chủ trương “không đánh đổi môi trường
lấy tăng trưởng kinh tế”; “kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên”. Nâng cao hiệu quả
sử dụng đất24. Chính phủ đã chỉ đạo khắc phục cơ bản sự cố môi trường
tại 4 tỉnh ven biển miền Trung. Từ đầu năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã đề xuất
sáng kiến trồng mới 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025 với thông điệp “Vì một
Việt Nam xanh”. Theo Chỉ số SDI 2020 của Liên hợp quốc về phát triển bền vững,
Việt Nam xếp thứ 49/166, tăng 39 bậc so với 2016. Chủ động ứng phó với thiên
tai, bão lũ, biến đổi khí hậu với phương châm “4 tại chỗ”, quy hoạch, cơ cấu lại
sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, hạn, mặn...
VI. Cải cách hành chính, giải
quyết khiếu nại, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng là
nhiệm vụ thường xuyên của Chính phủ nhằm giúp cho “cỗ máy hành chính” hoạt động
hiệu lực, hiệu quả hơn và là tiền đề cho nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong
hội nhập quốc tế. Chính phủ đã cắt giảm, đơn giản hóa 63% điều kiện kinh doanh,
68% danh mục hàng hóa chuyên ngành, thực hiện “cơ chế một cửa”, “một cửa liên
thông” giải quyết nhanh thủ tục25, giảm tiêu cực.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã triển khai và thực
hiện hiệu quả Nghị quyết phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định
hướng đến 2025. Các nền tảng Chính phủ điện tử26 được tập trung phát
triển, tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia gắn với Cổng Dịch vụ công quốc gia đã
tích hợp trên 2.800 dịch vụ trực tuyến của các bộ, ngành và địa phương. Triển
khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến 2025, định hướng 2030 với mục tiêu
Việt Nam vào Top 50 về Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số
và hình thành các doanh nghiệp công nghệ số vươn ra toàn cầu được triển khai
bài bản, kịp thời.
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tích cực chỉ đạo
triển khai đồng bộ các kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của Ban Chỉ đạo Trung ương
về phòng, chống tham nhũng27. Xử lý nhiều vụ việc, thu hồi số lượng
lớn tiền và tài sản; thành lập Tổ công tác đặc biệt để giải quyết dứt điểm nhiều
khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. Chỉ đạo phòng tránh và xử lý hiệu quả các
tranh chấp quốc tế, giảm thiệt hại cho Nhà nước, cải thiện hình ảnh môi trường
đầu tư của Việt Nam.
VII. Bảo
vệ trật tự xã hội, cuộc sống bình yên của mọi người dân, giữ vững chủ quyền
lãnh thổ quốc gia, sự toàn vẹn mỗi “tấc đất” biên cương, mỗi “dặm biển” khơi xa
của Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng, trách nhiệm cao cả được Chính phủ ưu tiên
chỉ đạo các lực lượng vũ trang trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến
lược bảo vệ an ninh quốc gia và các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về quốc phòng, an ninh.
Trong bối cảnh quốc tế mới, luôn chú trọng tăng cường
tiềm lực, sức mạnh của các lực lượng vũ trang, bao gồm cả trên không gian mạng;
nâng cao khả năng phối hợp, hiệp đồng giữa quân đội với công an; cảnh giác, chủ
động bảo vệ tổ quốc “từ xa”, “từ sớm”; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá; kiên quyết trấn áp tội phạm28; tai nạn giao thông
liên tục giảm sâu cả 3 tiêu chí; bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, sự kiện
quan trọng của đất nước.
VIII. Chúng ta đã được tín nhiệm quốc tế rất cao, 192/193 quốc
gia thành viên bầu vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, đó
thực sự là niềm tự hào của hai tiếng “Việt Nam”. Cùng với việc luôn coi trọng
quan hệ với các nước láng giềng thân thiết, Trung Quốc, Lào, Campuchia, chúng
ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước,
bao gồm các nước ASEAN, các cường quốc G-7, 17/20 thành viên G-20. Nâng tầm vị
thế đối ngoại đa phương, chúng ta đã đảm nhiệm thành công chủ nhà APEC 2017,
ASEAN 2020, AIPA 41; Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ 2... nhất là
Năm Chủ tịch ASEAN 2020 với nhiều phức tạp đối ngoại nhưng đã vận động thông
qua được 84 văn kiện, đạt số lượng kỷ lục. Các kết quả này càng khẳng định thêm
tiếng nói, uy tín của Việt Nam, từ một thành viên nghiêm túc tuân thủ, nay tiến
lên tham gia định hình, kiến tạo các cơ chế hợp tác mới.
Thực hiện Chiến lược hội nhập quốc tế đến
2020, tầm nhìn 203029, trong nhiệm kỳ qua, chúng ta đã ký 5 Hiệp định
Thương mại tự do quy mô lớn, tiêu chuẩn cao với gần 50 quốc gia, nền kinh tế lớn
trên toàn cầu30, mở ra các thị trường rộng lớn, đa dạng cho phát triển
nhanh và vượt lên trong khu vực.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã triển
khai đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả các giải pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý,
truyền thông nhằm kiên trì, kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng
các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982; đã ký hoàn
thành phân giới cắm mốc 84% biên giới với Campuchia. Hoạt động ngoại giao văn
hóa, thông tin đối ngoại, công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công
dân được triển khai tích cực, dù trong diễn biến phức tạp của dịch Covid-19.
Chính phủ đã thực hiện tốt nhiệm vụ báo cáo trình
Chủ tịch nước các điều ước, thỏa thuận quốc tế, văn bản quan trọng liên
quan đến quốc phòng, an ninh, luật pháp và khen thưởng bậc cao theo quy định.
Thưa Quốc hội,
IX. Có
thể khái quát thành tựu nhiệm kỳ qua trong 5 cân đối hài hòa lớn:
Thứ nhất, đó là sự hài hòa giữa mở cửa, đổi
mới, thúc đẩy phát triển KTXH với việc củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, uy
tín của Đảng, giám sát của Quốc hội, hợp tác của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
tổ chức xã hội. Nói cách khác, đây là hài hòa giữa ổn định và đổi mới, phát
triển dưới sự lãnh đạo của Đảng; giữa tuân theo các quy luật thị trường và
bảo đảm định hướng XHCN; quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Thứ hai, hài hòa giữa phát triển kinh tế
nhanh với đảm bảo sự tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường. Chúng ta thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh, bình quân 6,5% trong 30 năm Đổi mới và là 6,8% trong
2016-2019; người dân thuộc các thành phần khác nhau đều được hưởng thành quả
phát triển tương xứng với nỗ lực đóng góp; các địa phương đều có cơ hội và
không để địa phương nào bị tụt lại, mất cơ hội phát triển. Nhờ đó đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, niềm tin của người dân vào Đảng,
Nhà nước được củng cố và tăng cường. Tăng trưởng sản xuất kinh doanh vì lợi nhuận
nhưng không được xả thải gây ô nhiễm môi trường, phá hoại môi trường tự nhiên,
đó là chuẩn mực của Liên hợp quốc về phát triển bền vững và là xu thế văn minh
toàn cầu.
Thứ ba, hài hòa, cân đối giữa nội lực với
ngoại lực, giữa khu vực kinh tế trong nước với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, giữa nội thương với ngoại thương, giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với mở cửa và hội nhập quốc tế. Trong đó kinh tế trong nước là quyết định,
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh
tế Việt Nam.
Thứ tư, hài hòa cân đối giữa những ưu
tiên ngắn hạn với những mục tiêu dài hạn. Chúng ta tập trung thúc đẩy chính
sách phát triển hàng năm gắn với thực hiện mục tiêu 5 năm, tầm nhìn 10 năm và
lâu hơn nữa đến năm 2045. Cùng với các mục tiêu ngắn hạn như tăng trưởng, việc
làm và lạm phát thì các vấn đề dài hạn như hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn
nhân lực, giảm nghèo bền vững, phát triển về văn hóa xã hội... đều được quan tâm
đúng mực. Chưa bao giờ Chính phủ chạy theo mục tiêu ngắn hạn, kém bền vững mà bỏ
qua mục tiêu dài hạn nhất quán xuyên suốt hay ngược lại.
Thứ năm, hài hòa trong cân đối các nguồn lực
tài chính quốc gia, cán cân ngân sách, nợ công, cán cân tài khoản vãng lai, cán
cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại hối, bảo đảm nguồn nhân lực và nhiều cân đối
vĩ mô khác. Có thể nói chưa bao giờ kể từ khi Đổi mới, những cân đối lớn về
kinh tế này của chúng ta được bảo đảm ngày càng vững chắc như vậy.
Thưa Quốc hội,
1. Trong nhiệm kỳ qua, mặc dù đã có nhiều nỗ
lực và đạt nhiều kết quả tích cực được ghi nhận, nhưng Chính phủ tự “soi lại
mình” và thẳng thắn nhận thấy vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần tập
trung khắc phục.
- Thứ nhất, về xây dựng và thực thi pháp luật.
Tình trạng đề nghị điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; xin bổ
sung, xin lùi, xin rút dự án luật31 vẫn chưa được khắc phục triệt để.
Chất lượng một số hồ sơ dự án, dự thảo văn bản pháp luật chưa đạt yêu cầu. Việc
triển khai thi hành pháp luật có lúc có nơi còn chậm32. Một số vướng
mắc chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời33...
- Thứ hai, thực hiện kế hoạch KTXH 5 năm, do
dịch Covid-19, vẫn còn 02/12 chỉ tiêu chưa đạt; việc thực hiện 03 trọng tâm cơ
cấu lại nền kinh tế chưa như kỳ vọng; việc sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước chưa đạt mục tiêu, một số chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp nhỏ
và vừa chưa đi vào cuộc sống.
- Thứ ba, công tác quy hoạch, hạ tầng, quản
lý đất đai, đô thị ở một số nơi còn bị buông lỏng. Chất lượng công tác lập, phê
duyệt quy hoạch còn nhiều lúng túng, hạn chế, quy hoạch nguồn nước chưa làm tốt.
Tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm quốc gia còn chậm. Phát triển kinh tế
vùng để tạo tác động liên kết, lan tỏa phát triển chưa thực sự tương xứng với
tiềm năng. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các các khu, cụm công nghiệp, làng
nghề còn chậm được xử lý...
- Thứ tư, Bộ máy hành chính nhà nước chưa thực
sự tinh gọn, hiệu quả. Việc đổi mới lề lối làm việc, kỷ cương, kỷ luật, chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, vẫn còn tình trạng đùn đẩy, né tránh.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại một số bộ, ngành, địa phương chưa được
quan tâm đúng mức, chưa gắn với việc tiếp, đối thoại giải quyết với công dân.
- Thứ năm, trật tự xã hội, tình trạng thông
tin xấu độc trên mạng xã hội, internet, thuê bao ảo, lừa đảo, tin nhắn rác chưa
được xử lý triệt để. Một số địa bàn còn tiềm ẩn điểm nóng, phức tạp về an ninh
trật tự, tội phạm hình sự, ma túy. Tình hình trật tự an toàn giao thông còn diễn
biến phức tạp.
2. Những hạn chế tồn tại nêu trên là do nhiều
nguyên nhân:
- Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn
biến nhanh, phức tạp, nhiều vấn đề mới phát sinh mà chúng ta chưa có kinh nghiệm
xử lý. Đại dịch Covid-19 bùng phát gây tác hại nặng nề vượt ra ngoài dự tính của
mọi quốc gia. Biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt vượt quá các dự phòng,
tính toán thông thường của chúng ta.
- Tuy nhiên nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ
yếu, trong đó yếu tố quyết định chính là “con người”, vẫn còn một bộ phận cán bộ,
công chức, viên chức thiếu quyết liệt, thiếu tinh thần trách nhiệm, trình độ hạn
chế, ngại “va chạm”; công tác phối hợp xử lý công việc giữa các bộ, ngành, địa
phương có lúc còn thiếu chặt chẽ...
3. Dù đối mặt với rất nhiều khó khăn, nhưng
Chính phủ đã coi đó là thách thức phải dám nghĩ, chấp nhận, dấn thân vượt qua rủi
ro để quyết làm, biến thách thức thành cơ hội cho phát triển. Thực tiễn
và thành quả đạt được giúp chúng ta tự tin vững bước tiến lên, trong đó có 5
bài học kinh nghiệm lớn:
Kinh nghiệm hàng đầu là quán triệt sự
lãnh đạo của Đảng để thể chế hóa thành các chủ trương, đường lối phù hợp;
chấp hành sự giám sát của Quốc hội; kịp thời báo cáo Quốc hội và phối hợp chặt
chẽ với Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc ban hành chính sách, pháp luật làm
cơ sở cho Chính phủ điều hành kinh tế, xã hội, xử lý những vấn đề mới do thực
tiễn đặt ra34.
Hai là, thực hiện chức năng kiến tạo phát
triển, phải sâu sát lắng nghe từ thực tiễn sôi động, nhận diện đúng tình
hình, trọng tâm, bản chất sự việc để có quyết sách phù hợp; chủ động rà soát,
tháo gỡ những điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực cho phát triển; đổi mới, sáng tạo,
linh hoạt và quyết liệt trong quản lý, điều hành, hài hòa giữa mục tiêu trước mắt
và mục tiêu trung, dài hạn.
Ba là, phát huy truyền thống yêu nước, niềm tự
hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, khơi dậy khát vọng quốc gia hùng cường và phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, nhân
dân cả nước.
Bốn là, tích cực đổi mới phương thức làm việc,
thực sự lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước gắn với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, công khai, minh bạch hoạt động công vụ; đề cao vai trò, trách nhiệm người
đứng đầu, kịp thời biểu dương khen thưởng sự tận tụy cống hiến của cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động và xử lý nghiêm các vi phạm.
Năm là, xác định rõ các động lực tăng trưởng,
phát huy tiềm năng, thế mạnh từng ngành, từng địa phương; thúc đẩy liên kết
vùng; phát huy tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo mạnh mẽ của con người Việt Nam
trong phát triển nền kinh tế số; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững, giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội và bảo vệ tài
nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh và đẩy mạnh công tác đối ngoại.
Thưa Quốc hội,
Nhìn lại nhiệm kỳ vừa qua, đặc biệt là năm 2020 với
muôn vàn khó khăn, nhiều thử thách chưa từng có, Chính phủ đã nỗ lực làm hết sức
mình để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, luôn sâu sát thực
tiễn, nhận diện đúng tình hình, tranh thủ thời cơ; thực hiện đồng bộ, hiệu quả
các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực. Trong phát biểu nhậm chức các đây 5
năm, bối cảnh thời điểm ấy còn nhiều khó khăn như nợ công cao, tôi đã đề nghị
chúng ta phải đi đầu trong tiết kiệm công quỹ, xử lý có hiệu quả tài sản
công... Nay sau 5 năm, thâm hụt NSNN, nợ công, không gian tài khóa đã được cải
thiện một cách căn bản. Chúng ta đã đề cao thượng tôn pháp luật. Chính phủ, các
bộ, ngành, địa phương đề cao kỷ luật kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý Nhà nước, lấy sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá.
Chúng ta đã cùng nhau giảm hẳn cơ chế xin - cho, thảo luận công khai
minh bạch và trách nhiệm giải trình và đề ra nhiều biện pháp bảo vệ môi trường
kinh doanh... cùng với luôn tự kiểm về lời nói và hành động của Chính phủ cũng
như hệ thống các cơ quan của chúng ta.
Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam luôn quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ công tác của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ. Tại phiên họp tổng kết Chính phủ ngày 28 tháng 12 năm 2020, Đồng chí
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã nhấn mạnh: năm 2020 vẫn được xem là năm thành
công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm vừa qua với những kết
quả, thành tích đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng. Những kết quả, thành tích đó
đã góp phần làm nên những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều dấu
ấn nổi bật của nhiệm kỳ khóa XII và thành tựu to lớn có ý nghĩa, lịch sử của 35
năm đổi mới… làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay.
Tại phiên họp ngày 23 tháng 02 năm 2021, Chủ tịch
Quốc hội đã đánh giá cao sự hợp tác chặt chẽ, hiệu quả giữa Chính phủ với Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nhận định: đây là nhiệm kỳ Chính phủ rất
thành công, trong bối cảnh, điều kiện có nhiều khó khăn mà Chính phủ vẫn vững
vàng chèo lái nền kinh tế đất nước, đạt được thành tựu rất có ý nghĩa.
Những ý kiến phát biểu đánh giá cao công tác chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ trong nhiệm kỳ vừa qua của các đồng chí Lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là niềm tự hào, niềm động viên to lớn
đối với Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, người dân cả nước,
nâng cao niềm tin vào bản lĩnh, ý chí, tinh thần vượt khó, vươn lên của cả dân tộc,
tạo nguồn lực và động lực mới để tiếp tục đưa đất nước vững bước trên con đường
phát triển nhanh và bền vững dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
Trên con tàu tăng trưởng Việt Nam hướng tới chân trời
mới, với cơ đồ mới về một nước Việt Nam hùng cường vào giữa thế kỷ 21 sẽ có mặt
đủ mọi thành phần, từ công nông đến trí thức, doanh nhân, người dân, không ai bị
bỏ lại phía sau và ai ai cũng được “thụ hưởng” thành quả của đổi mới và phát
triển theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng XIII đã nêu và vun đắp thêm bản
chất dân chủ tốt đẹp của xã hội ta.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trân trọng cảm ơn sự
lãnh đạo của Trung ương Đảng, giám sát của Quốc hội, sự phối hợp của các cơ
quan Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, sự đồng
tình ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp, đồng bào ta trong và ngoài nước. Trân
trọng cảm ơn Chính phủ, nhân dân các nước, các tổ chức quốc tế và bạn bè trên
thế giới về sự ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ quý báu đã dành cho Chính phủ và nhân
dân Việt Nam.
Thưa Quốc hội,
Một dân tộc mạnh phải là dân tộc đoàn kết, có ý
chí, quyết tâm hành động mạnh mẽ với khát vọng trở thành giàu có, thịnh vượng,
bền vững trường tồn. Dân tộc ta có bề dày hàng nghìn năm văn hiến với lịch sử
hào hùng, anh dũng chống ngoại xâm; là một dân tộc đã sinh ra nhiều bậc hiền
nhân, danh nhân của nhân loại và kiên cường vượt qua thiên tai khắc nghiệt để
trưởng thành và phát triển. Với khí thế và khát vọng đưa đất nước phát triển phồn
vinh, hạnh phúc, cùng tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ XIII, chúng ta
tin tưởng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực, chung sức đồng lòng của cả
hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, Chính phủ nhiệm kỳ mới sẽ phát huy những
thành tựu và kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tồn tại; đổi mới mạnh
mẽ, năng động sáng tạo, khai thác tối đa cơ hội thuận lợi, vượt qua khó khăn
thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2021 - 2025 và hướng tới những mục tiêu, khát vọng xây dựng quốc gia
Việt Nam trở nên giàu mạnh hùng cường vào giữa thế kỷ 21.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Ghi chú
_______________________
1 Ngân hàng Thế giới cho biết, dựa trên
năng suất của 97 nền kinh tế kể từ năm 2000, nhóm thành công nhất bao gồm tất cả
các nền kinh tế phát triển và 16 thị trường mới nổi hiện nay như Ấn Độ, Việt
Nam.
2 Báo cáo Hạnh phúc của Liên hợp quốc
(3/2021), Việt Nam tăng 4 bậc, lên 79/149, cao hơn Trung Quốc (84), Malaysia
(81).
3 Hoàn thành 2.429/2.504 đề án theo kế
hoạch, đạt tỷ lệ 99,5%; số đề án chuyển sang năm 2021 là 12 đề án (bằng 1/4 so
với giai đoạn 2011 - 2015).
4 Ngày 16/12/2020, Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP) công bố Báo cáo Phát triển Con người toàn cầu 2020. Theo
đó, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam là 0,704, xếp thứ 117/189 quốc
gia.
5 Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 2016 -
2020 khoảng 3,2%, giảm mạnh so với 7,65% của 2011 - 2015.
6 Tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt
trên 28%, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra (25 - 26%).
7 Riêng năm 2020, do tác động của dịch
Covid-19 nên Chính phủ đã báo cáo Quốc hội đề nghị tăng bội chi NSNN lên khoảng
4,99 - 5,59% GDP; trong điều hành, Chính phủ đã quyết tâm phấn đấu tăng thu và
tiết kiệm chi NSNN nên bội chi NSNN cả năm ở mức khoảng 3,99%.
8 Thị trường nhập khẩu máy móc, nguyên
liệu cho sản xuất được đa dạng hóa đã dịch chuyển dần từ khu vực Châu Á sang
khu vực thị trường Châu Âu và Châu Mỹ.
9 Chỉ đạo triển khai Kết luận số
77-KL/TW ngày 05/6/2020 của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động của đại
dịch Covid-19. Xây dựng Đề án khắc phục tác động của đại dịch Covid-19, trình Bộ
Chính trị. Báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các Nghị quyết
về các cơ chế, chính sách đặc thù, các giải pháp vượt trội, vừa cấp bách, vừa
căn cơ, phù hợp với tình hình. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành,
cơ quan, doanh nghiệp ban hành theo thẩm quyền các nghị định, quyết định, các
giải pháp cụ thể để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và tận dụng tốt thời cơ phục
hồi, phát triển KTXH như: giãn, hoãn tiền nộp thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất;
cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, miễn giảm phí thanh toán, cho vay mới; tạm dừng đóng
bảo hiểm xã hội; giảm giá điện, tiền điện, giá cước viễn thông...
10 Theo IMF, GDP năm 2020 của Việt Nam đạt
340,6 tỷ USD, vượt Singapore 337,5 tỷ USD, Malaysia 336,5 tỷ USD.
11 Nguồn IMF và WB:
https://www.imf.org/en/Publications/WEO/weo-database/2020/October/weo- report
https://statisticstimes.com/economy/projected-world-gdp-ranking.php
12 Đến 9/2020 có 18/34 ngân hàng Việt
Nam đạt chuẩn Basel II.
13 Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 03/6/2017.
14 Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo quốc gia, Đề án Hệ tri thức Việt số hóa.
15 Theo Nghị quyết 50-NQ/TW ngày
22/8/2020 của Bộ Chính trị.
16 Theo xếp hạng của Tổ chức Phát triển
công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO).
17 Năm 2019, Việt Nam xếp thứ 5/50 quốc
gia dẫn đầu thế giới về gia công phần mềm; xếp thứ 2/10 quốc gia về sản xuất điện
thoại di động và linh kiện.
18 Năm 2020 có trên 62% xã đạt chuẩn
nông thôn mới, vượt xa mục tiêu đề ra (50%), cao hơn nhiều so với mức 17,5% của
năm 2015 (tăng 45,5%); có 173/664 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới; có
04 tỉnh được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
19 Ban hành Nghị định điều chỉnh mức trợ
cấp ưu đãi người có công hằng năm; tổ chức chu đáo tặng quà Tết của Chủ tịch nước
nhân dịp Tết Nguyên đán, ngày kỷ niệm Thương binh - Liệt sỹ 27/7 hằng năm; cơ bản
hoàn thành việc hỗ trợ nhà ở đối với người có công với cách mạng theo Quyết định
số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013.
Giai đoạn 2016 - 2020 đã giải quyết việc làm được
cho trên 7,9 triệu lao động, trong đó trong nước khoảng 7,3 triệu người; đưa
trên 634 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, vượt chỉ tiêu
27%, về đích kế hoạch 05 năm trước 01 năm.
20 Triển khai thực hiện hiệu quả Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm liên tục qua các năm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020; sau
5 năm, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm hơn 1%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội
giao.
21 Trình Quốc hội thông qua Đề án tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021 - 2030 và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -
2030.
Trình Quốc hội thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
và ban hành văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành; phối hợp Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc (Vesak) năm
2019.
Thành lập Ủy ban Quốc gia về trẻ em tại Quyết định
số 846/QĐ-TTg ngày 15/6/2017; chỉ đạo thực hiện các giải pháp phòng, chống bạo
lực, xâm hại trẻ em, tai nạn, thương tích trẻ em, đặc biệt là đuối nước tại Chỉ
thị số 17/CT-TTg ngày 16/5/2016.
Phê duyệt Kế hoạch và thực hiện Chiến lược phát triển
thanh niên Việt Nam giai đoạn II (2016 - 2020).
Phê duyệt và triển khai hiệu quả Đề án thực hiện biện
pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn
2016 - 2020.
22 Năm 2019 số lượng huy chương vàng đoạt
được tại các giải thế giới và Châu Á tăng gấp đôi so với năm 2015; là một trong
ba quốc gia dẫn đầu về số huy chương tại các kỳ SEA Games.
23 Phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản
lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 tại Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 03/4/2019
và tiến hành sắp xếp các cơ quan báo chí theo quy hoạch; ban hành và triển khai
Chiến lược phát triển thông tin quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 2030 tại Quyết
định số 1497/QĐ-TTg ngày 08/11/2018.
24 Tăng diện tích đất cây trồng hàng hóa
có giá trị, nâng cao hiệu quả sử dụng đất 2 lần so với năm 2015. Nâng cao hiệu
quả sử dụng 2 triệu ha đất nông, lâm trường.
25 Tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt 97,37%.
26 Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế,
xếp hạng về môi trường kinh doanh giai đoạn 2016 - 2020 tăng 20 bậc, xếp thứ
70/190 quốc gia; năng lực cạnh tranh toàn cầu giai đoạn 2018 - 2020 tăng 10 bậc
từ 77 lên 67/141 quốc gia; Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2020 tăng 3
bậc so với năm 2016, xếp thứ 86/193 quốc gia.
27 Đã triển khai gần 33 nghìn cuộc thanh
tra hành chính và trên 1,1 triệu cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; phát hiện,
xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản. Qua thanh
tra đã chấn chỉnh quản lý, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật trên nhiều
lĩnh vực; phát hiện vi phạm về kinh tế 417.490 tỷ đồng, 94.578 ha đất; trong đó
đã kiến nghị thu hồi 235.522 tỷ đồng, 8.823 ha đất; xử lý khác hơn 181.968 tỷ đồng,
85.755 ha đất, kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính 9.772 tập thể, cá nhân; ban
hành 612.779 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền trên 24.120 tỷ đồng;
chuyển cơ quan điều tra 462 vụ, 671 đối tượng. Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
17.580 kết luận và quyết định xử lý sau thanh tra, thu hồi 33.845 tỷ đồng (đạt
75%), 5.430 ha đất (81%); xử lý hành chính 4.719 tổ chức, 15.299 cá nhân; khởi
tố 204 vụ, 145 đối tượng.
28 Tội phạm về trật tự xã hội giảm 6,8%
(vượt kế hoạch 1,8%), trộm cắp giảm 9,86%, cướp tài sản giảm 9,99%...
29 Đã ban hành: Nghị quyết số 38/NQ-CP
ngày 25/4/2017 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, trong bối cảnh nước ta tham gia hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới; Chỉ thị 22/CT-TTg ngày 23/5/2017 về tăng cường kiểm tra, đôn
đốc thực hiện cam kết, thỏa thuận quốc tế; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 04/9/2018
về đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
30 Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Thương mại Tự do giữa Hồng Công (Trung
Quốc) và ASEAN (AHKFTA); Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA); Hiệp
định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP); Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam
và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA).
31 Luật Cư trú (sửa đổi); Nghị quyết về
miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp; Nghị quyết về thí điểm tổ chức mô hình chính
quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng;
Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù
đối với thành phố Hà Nội...
Năm 2017: Bổ sung 06 dự án, lùi thời gian trình 05
dự án, rút khỏi Chương trình 03 dự án; Năm 2018: bổ sung 10 dự án, lùi thời
gian trình 03 dự án; Năm 2019: bổ sung 09 dự án, lùi thời gian trình 02 dự án,
rút khỏi Chương trình 02 dự án; Năm 2020: bổ sung 11 dự án, lùi thời gian trình
01 dự án, rút khỏi Chương trình 02 dự án, thay đổi phạm vi điều chỉnh 01 dự án.
32 Việc triển khai các Luật: Quy hoạch,
An ninh mạng...
33 Như: các quy định liên quan đến cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý tài sản nhà nước, một số loại hình bất động
sản mới (condotel, officetel)...
34 Trong nhiệm kỳ, Chính phủ đã trình Quốc
hội 107 Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết và hơn 311 báo cáo. Tại các kỳ họp các
thành viên Chính phủ đã trả lời 2.600 câu hỏi chất vấn trực tiếp và 1.000 phiếu
chất vấn của đại biểu Quốc hội và giải quyết hơn 17.700 kiến nghị của cử tri.