BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 382/BC-BTP
|
Hà Nội, ngày 27
tháng 12 năm 2014
|
BÁO
CÁO
TÌNH
HÌNH BAN HÀNH VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH LUẬT, PHÁP LỆNH NĂM 2014,
NHIỆM VỤ NĂM 2015
Kính gửi: Chính phủ
Thực hiện nhiệm vụ được giao theo Quyết định
số 921/QĐ-TTg ngày 12/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển giao trách
nhiệm theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp
lệnh; Kế hoạch triển khai thi hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 của Quốc hội(1) (Quyết định số 73/QĐ-TTg ngày
13/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ), Bộ Tư pháp xin báo cáo Chính phủ về tình
hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2014, nhiệm
vụ năm 2015 như sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2014
1. Về chỉ đạo, điều
hành và tổ chức thực hiện
Triển khai thi hành các luật, pháp lệnh, nghị
quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, đặc biệt là các Nghị quyết của
Quốc hội về tăng cường công tác xây dựng và thi hành pháp luật, trong năm 2014,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo sát sao công tác triển khai thi hành
luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (sau đây
gọi tắt là luật, pháp lệnh) và ban hành văn bản quy định chi tiết. Bên cạnh
việc tổ chức các Phiên họp thường kỳ, Chính phủ đã tổ chức Phiên họp chuyên đề
về xây dựng pháp luật, ban hành 07 nghị quyết có nội dung chỉ đạo, đôn đốc công
tác ban hành văn bản quy định chi tiết; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế
hoạch để triển khai thi hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 và Kế hoạch để triển
khai Nghị quyết số 75/2014/QH13 của Quốc hội(2) và 03 quyết định chỉ đạo, đôn đốc việc xây dựng, ban hành văn
bản quy định chi tiết. Theo đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra nhiều
nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định
của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với việc xây dựng, ban hành
một số văn bản quy định chi tiết nhằm bảo đảm yêu cầu triển khai thi hành luật;
yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ ưu tiên, tập trung bố trí nguồn lực cho công
tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kiểm điểm làm rõ trách nhiệm đối
với tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết, không bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, không phù hợp với thực tiễn
và không khả thi; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phải trực tiếp chỉ
đạo, theo dõi, đôn đốc công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết…
Thực hiện các nghị quyết của
Quốc hội,
sự
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ
đã quan tâm, chỉ đạo
sát sao hơn công tác
triển khai thi hành luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết; lồng ghép,
gắn kết công tác tiền kiểm (góp ý, thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính) với
công tác hậu kiểm (kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật và theo dõi thi
hành pháp luật);
tích
cực phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp tổ chức rà soát luật, pháp
lệnh, lập Danh mục văn bản quy định chi tiết để đưa vào Chương trình, Kế hoạch
xây dựng văn bản và tổ chức thực hiện. Ngoài việc trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc và phụ trách công
tác pháp chế, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đều giao cho một
Thứ trưởng trực
tiếp phụ
trách công tác xây dựng pháp luật để chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc công tác xây dựng
pháp luật.
Bộ Tư pháp, Văn phòng
Chính phủ thường
xuyên phối hợp theo
dõi, đôn đốc(3), kiểm tra(4) tình hình triển khai thi hành
luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết; định kỳ hàng tháng, quý,
06 tháng báo cáo Chính phủ, đồng thời công bố công khai trên Cổng thông
tin điện tử của Chính phủ, của Bộ Tư pháp về tình hình ban hành văn bản quy
định chi tiết
nhằm
nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong xây dựng, ban hành văn bản quy định chi
tiết. Để nâng cao
chất
lượng văn bản, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội
đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành
Hiến pháp năm 2013; tổ chức 02 phiên họp giao ban với Lãnh đạo Bộ, cơ quan
ngang Bộ về công tác thực
hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; triển khai thi hành luật, pháp lệnh và ban
hành văn bản quy định chi tiết; ban hành các văn bản về thẩm định dự án, dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa các công tác kiểm soát thủ tục
hành chính, thẩm định, kiểm tra và xử lý văn bản với nhau(5).
2. Kết quả ban hành
văn bản quy định chi tiết
a) Kết quả rà soát luật, pháp lệnh, xác định
số lượng văn bản quy định chi tiết cần ban hành
Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, cơ quan ngang Bộ
và kết quả rà soát, theo dõi của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, trong năm
2014, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 206 văn bản quy định chi tiết (87
nghị định, quyết định và 119 thông tư, thông tư liên tịch), trong đó:
- 71 văn bản (26 nghị định, 03 quyết định, 39
thông tư, 03 thông tư liên tịch) quy định chi tiết 23 luật, pháp lệnh đã có
hiệu lực từ trước năm 2014 hoặc có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014. Đây là số
văn bản nợ ban hành của năm 2013 chuyển sang;
- 135 văn bản (51 nghị định, 07 quyết định, 64
thông tư, 13 thông tư liên tịch) quy định chi tiết thi hành 22 luật, pháp lệnh
phát sinh hiệu lực sau 01/01/2014, trong đó có 101/135 văn bản (34 nghị định,
05 quyết định, 50 thông tư, 12 thông tư liên tịch) quy định chi tiết thi hành
12 luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015.
b) Kết quả ban hành văn bản (từ ngày 01/01/2014
đến ngày 27/12/2014)
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 48/87 văn
bản (42 nghị định, 06 quyết định), đạt 55,17%. Số chưa ban hành là 39/87 văn
bản (35 nghị định, 04 quyết định), chiếm 44,83%, trong đó có 06 nghị định ở
trong tình trạng “nợ đọng”.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành 58/119 văn bản (55
thông tư, 03 thông tư liên tịch), đạt 48,74%. Số chưa ban hành là 61/119 văn
bản (48 thông tư, 13 thông tư liên tịch), chiếm 51,26%, trong đó có 10 thông
tư, 02 thông tư liên tịch đã ở trong tình trạng “nợ đọng”.
Như vậy, trong năm 2014, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
và các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành 106/206 văn bản, đạt 51,46%. Theo đó,
đã giải quyết được 56/71 văn bản nợ ban hành của năm 2013 và 50/135 văn bản
phát sinh trong năm 2014 (xin xem Phụ lục I). Số chưa ban hành là 100/206
văn bản, chiếm 48,54% (xin xem Phụ lục II), trong đó có 18 văn bản ở
trong tình trạng “nợ đọng”.
- Có thể phân loại 100 văn bản chưa được ban
hành theo
một số tiêu chí như sau:
Theo quy trình ban
hành văn bản:
+ Đang soạn thảo và tổ chức lấy ý
kiến:
59 văn bản (07 nghị định, 40 thông tư, 12 thông tư
liên tịch);
+ Đã thẩm định và đang tiếp thu,
giải trình ý kiến thẩm định: 09 văn bản (04 nghị định, 01 quyết định, 04 thông tư);
+ Đã trình cấp có thẩm quyền xem xét để ban hành: 32 văn bản (24 nghị định, 03 quyết định, 04 thông tư, 01 thông tư
liên tịch).
Theo cơ quan chủ trì
soạn thảo:
TT
|
CƠ
QUAN CHỦ TRÌ SOẠN THẢO
|
SỐ
VĂN BẢN CẦN BAN HÀNH
|
SỐ
VĂN BẢN CHƯA
BAN HÀNH
|
Tổng
số
|
Phân
loại
|
NĐ
|
QĐ
|
TT
|
TTLT
|
1.
|
Bộ Tài nguyên và
Môi trường
|
51
|
29
|
08
|
03
|
14
|
04
|
2.
|
Bộ Y tế
|
15
|
11
|
01
|
|
09
|
01
|
3.
|
Bộ Xây dựng
|
10
|
09
|
06
|
|
03
|
|
4.
|
Bộ Kế hoạch và Đầu
tư
|
10
|
08
|
06
|
|
02
|
|
5.
|
Bộ Quốc phòng
|
16
|
08
|
02
|
|
03
|
03
|
6.
|
Bộ Lao động, Thương
binh và XH
|
09
|
07
|
03
|
|
04
|
|
7.
|
Bộ Tài chính
|
12
|
06
|
03
|
01
|
01
|
01
|
8.
|
Bộ Tư pháp
|
09
|
05
|
03
|
|
02
|
|
9.
|
Bộ Giáo dục và Đào
tạo
|
10
|
05
|
02
|
|
02
|
01
|
10.
|
Bộ Nông nghiệp và
PTNT
|
12
|
05
|
|
|
03
|
02
|
11.
|
Bộ Công an
|
14
|
05
|
01
|
|
03
|
01
|
12.
|
Bộ Khoa học và Công
nghệ
|
12
|
02
|
|
|
02
|
|
13.
|
Bộ Giao thông vận tải
|
09
|
00
|
|
|
|
|
14.
|
Ngân hàng Nhà nước
|
08
|
00
|
|
|
|
|
15.
|
Bộ Công Thương
|
03
|
00
|
|
|
|
|
16.
|
Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch
|
02
|
00
|
|
|
|
|
17.
|
Bộ Nội vụ
|
02
|
00
|
|
|
|
|
18.
|
Bộ Ngoại giao
|
01
|
00
|
|
|
|
|
19.
|
Thanh tra Chính phủ
|
01
|
00
|
|
|
|
|
20.
|
Văn phòng Chính phủ
|
00
|
|
|
|
|
|
21.
|
Bộ Thông tin và
Truyền thông
|
00
|
|
|
|
|
|
22.
|
Ủy ban Dân tộc
|
00
|
|
|
|
|
|
Tổng
số
|
206
|
100
|
35
|
04
|
48
|
13
|
c) Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản
Việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi
tiết về cơ bản đã được thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo
quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các dự thảo văn bản quy
định chi tiết đều được cơ quan chủ trì tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng
chịu sự tác động trực tiếp, các cơ quan, đơn vị có liên quan; đăng tải công
khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ, cơ quan ngang Bộ để lấy ý kiến rộng
rãi của các cơ
quan, tổ
chức, cá nhân; thực hiện đánh giá về thủ tục hành chính, góp ý, thẩm định văn
bản. Trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo văn bản, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã
tích cực
huy
động sự tham gia của các chuyên gia, nhà quản lý, các tổ chức xã hội; phát huy
vai trò của tổ chức pháp chế và các thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án
luật, pháp lệnh trong việc xây dựng văn bản quy định chi tiết, đảm bảo tính
tiếp nối, thống nhất,
phù
hợp của văn bản quy định chi tiết với tinh thần của luật, pháp lệnh. Việc đánh
giá về thủ tục hành chính đã được lồng ghép với quy trình góp ý, thẩm định văn
bản và tập trung vào một đầu mối là Bộ Tư pháp hoặc tổ chức pháp chế các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, góp phần rút ngắn quy trình xây dựng, ban hành văn bản, đồng
thời nâng cao chất lượng công tác kiểm soát thủ tục hành chính và thẩm định văn
bản. Các dự thảo
nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ đều được Văn phòng
Chính phủ thẩm tra về mặt thủ tục và cho ý kiến về nội dung trước khi trình.
d) Về chất lượng của văn bản quy định chi
tiết thông qua kết quả thực hiện công tác kiểm soát thủ tục hành chính, thẩm
định, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật
* Về công tác kiểm soát thủ tục hành chính và
thẩm định văn bản
Thực hiện Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Nghị định số 24/2009/NĐ-CP, Nghị định số 63/2010/NĐ-CP và
Nghị định số 48/2013/NĐ-CP của Chính phủ, công tác góp ý, thẩm định
và kiểm soát thủ tục hành chính đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật đã được các Bộ, ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện gắn với vai trò đầu
mối của tổ chức pháp chế.
Trong năm 2014, tổ chức pháp chế
các Bộ, cơ
quan ngang Bộ
đã thực hiện đánh giá tác động 1.532 thủ tục hành chính tại 287
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, tham gia ý kiến đối với 1.342 thủ tục
hành chính quy định tại 303
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có các văn
bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh. Riêng Bộ Tư pháp đã tham gia ý kiến đối
với 958 thủ tục hành chính quy định tại 108 dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật(6), theo đó, đã đề nghị bỏ 109 và
sửa đổi 276 thủ tục hành chính (chiếm 40% số TTHC quy định trong dự
thảo); thẩm định 707 thủ tục hành chính tại 88 văn bản quy phạm pháp luật quy
định thủ tục hành chính(7) và đã đề nghị bỏ 108 và sửa
đổi 378 thủ tục hành chính không cần thiết, không hợp lý (chiếm 68,7% số
thủ tục hành chính quy định tại văn bản). Bộ Tư pháp đã thẩm
định 300 dự án, dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật (trong đó có các văn bản quy định chi tiết thi
hành luật, pháp lệnh); tổ chức 14 phiên họp
của Hội đồng tư vấn thẩm định của Chính phủ để cho ý kiến đối với 14 dự án luật, dự thảo
báo cáo rà soát
triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013(8) theo các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, tổ chức pháp chế
đã tổ chức thẩm định 831 dự thảo văn bản thuộc
thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, trong đó có các
văn bản quy định chi
tiết thi hành luật, pháp lệnh.
* Về công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy
phạm pháp luật
Từ ngày 01/01/2014 đến tháng 12/2014, Bộ Tư pháp
đã tiến hành kiểm tra
65 văn
bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh (gồm 59 thông tư, 06 thông tư liên
tịch) được
các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành từ ngày 26/12/2013 đến ngày 17/10/2014. Qua kiểm
tra, phát hiện 07 văn bản có
dấu hiệu chưa phù hợp với pháp luật, trong đó có 01 văn bản sai
về nội dung
(Thông tư số 32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn
thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam), còn lại 06 văn bản (04 văn bản được ban
hành trong năm 2013 và 02 văn bản được ban hành trong năm 2014) có sai sót về
thể thức và không ảnh hưởng đến nội dung cũng như đối tượng áp dụng của văn
bản. Đối
với Thông tư số 32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước, ngay sau khi
phát hiện có dấu hiệu sai về nội dung, Bộ Tư pháp đã họp, trao đổi trực
tiếp với Ngân hàng Nhà nước và đã thống nhất về phương án xử lý theo quy định
của pháp luật (xin xem Phụ lục III). Đối với 06 văn bản sai
sót về thể thức, Bộ Tư pháp
đã trao đổi, thông
báo tại
các cuộc họp, hội nghị tập huấn về công tác kiểm tra văn bản để cơ quan ban
hành văn bản được biết, tự kiểm tra, rút kinh nghiệm.
Qua công tác kiểm soát thủ tục
hành chính, thẩm định, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật cho thấy,
chất lượng các
văn
bản quy định chi tiết được
ban hành trong năm 2014 đã được nâng lên đáng kể. Ngôn ngữ, kỹ thuật
soạn thảo văn bản cụ thể, rõ ràng; các quy định về thủ tục
hành chính đã
được “sàng
lọc”, tạo lập các quy định thủ tục hành chính đạt chất lượng; tình trạng
chép lại nội dung của luật, pháp lệnh đã được khắc phục. Nội dung của các văn
bản bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước;
đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp
luật. Việc tập trung
các nhiệm vụ thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính, kiểm tra văn bản và theo
dõi thi hành pháp luật về một đầu mối là tổ chức pháp chế của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ
và Bộ Tư pháp
tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa công tác tiền kiểm với công tác hậu kiểm, góp
phần từng bước nâng cao chất lượng của văn bản quy định chi tiết, khả năng phát
hiện sai sót và phản ứng chính sách được thực hiện kịp thời hơn. Các
phản ánh, kiến nghị của dư luận, báo chí, các tổ chức, cá nhân về nội dung của
văn bản quy phạm pháp luật đã được cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản nghiên
cứu nghiêm túc và có biện pháp xử lý kịp thời, từng bước khắc phục tình trạng
văn bản có nội dung không phù hợp, gây bức xúc dư luận.
3. Đánh giá chung,
tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
a) Về kết quả, trong năm 2014, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy
định chi tiết. Qua đó, công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết có
nhiều chuyển biến tích cực. Chất lượng văn bản ngày càng được nâng lên, cơ bản
bảo đảm các yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản; trong số các văn
bản quy định chi tiết đã ban hành trong năm 2014 thì không có văn bản nào có nội
dung trái pháp luật hoặc không khả thi, gây bức xúc dư luận. Tiến độ xây dựng,
ban hành văn bản quy định chi tiết nhanh hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu công
tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh. Một số văn bản quy định chi tiết đã
được ban hành kịp thời để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của luật,
chẳng hạn các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai, một số văn bản
quy định chi tiết Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế; Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật giao thông đường thủy nội địa. Có thời điểm số
lượng văn bản “nợ đọng” đã giảm xuống thấp nhất từ trước đến nay, được
Quốc hội ghi nhận tại các Kỳ họp thứ 7 và thứ 8 (cuối tháng 12/2014 chỉ nợ 18
văn bản).
b) Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công
tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết còn một số tồn tại,
hạn chế
sau:
- Trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản,
còn có nhiều văn
bản phải điều chỉnh
về
tiến độ
soạn thảo,
thời hạn trình, ban
hành,
đặc biệt là có một số văn bản phải điều chỉnh nhiều lần; tình trạng văn bản
quy định chi tiết được ban hành không
có hiệu
lực cùng thời điểm có hiệu lực của luật, pháp lệnh còn diễn ra phổ biến;
- Một số văn bản chất lượng chưa cao, có nội
dung thiếu tính khả thi hoặc chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống
pháp luật, mới được ban hành nhưng đã có nội dung cần được sửa đổi, bổ sung như một số
nghị định quy định chi tiết thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Công tác rà soát luật, pháp lệnh, lập Danh mục
văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh tại nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ còn chậm,
chưa đáp ứng yêu cầu triển khai thi hành luật, pháp lệnh, chẳng hạn như việc
một số Bộ, cơ quan ngang Bộ chậm rà soát, lập dự kiến Danh mục văn bản quy định
chi tiết 18 luật được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8 cho dù ngay sau khi
kết thúc Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XIII, Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp
đã có văn bản đôn đốc(9).
- Tình trạng “nợ đọng” tuy đã giảm đáng kể,
xuống chỉ còn 18 văn bản (06 Nghị định, 10 thông tư và 02 thông tư liên tịch),
nhưng còn 82 văn bản (29 nghị định, 04 quyết định, 38 thông tư, 11 thông tư
liên tịch) quy định chi tiết thi hành 12 luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 chưa được ban hành. Kết
quả này chưa đạt chỉ tiêu cam kết của Chính phủ trước Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7
và thứ 8 “phấn
đấu đến ngày 31/12/2014 hoàn thành việc ban hành các văn bản “nợ đọng” và ban
hành cơ bản xong các nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi
tiết thi hành các luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015” và dự báo đến ngày
01/01/2015, số văn bản “nợ đọng” sẽ tăng lên rất lớn (100 văn bản so với 71 văn
bản nợ đọng đầu năm 2014).
c) Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát
từ những nguyên nhân sau:
* Về mặt khách quan:
- Số lượng luật, pháp lệnh được ban
hành hằng năm là tương đối lớn,
trong đó
có nhiều nội dung giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ quy
định chi tiết nên cần ban hành một số lượng lớn văn bản quy định chi tiết, riêng trong 06
tháng cuối năm 2014 đã phát sinh nhiệm vụ phải xây dựng, ban hành 101 văn bản
để quy định chi tiết thi hành 12 luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015.
- Một số quy định của luật, pháp lệnh là những vấn đề mới,
khó, phức tạp, còn
thiếu sự định hướng về nội
dung, giải
pháp về
chính sách
nên có nhiều ý kiến khác nhau,
có nội
dung không do Chính phủ đề xuất mà do các cơ quan của Quốc hội đề xuất, có trường
hợp liên quan đến luật, pháp lệnh khác đang được nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung nên
cần nhiều thời gian nghiên cứu, khảo sát, tham khảo kinh nghiệm trong và ngoài
nước dẫn
đến việc kéo dài thời gian soạn thảo, ban hành văn bản quy định
chi tiết(10).
- Nhiều quy định của
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã bộc lộ những bất cập, hạn chế,
không còn phù hợp như quy định về quy trình, trình tự, thủ tục rút gọn, việc
xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật còn máy móc, chưa
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đặc biệt là trong bối cảnh triển khai thi
hành Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra một số vấn đề phức tạp liên quan đến tính hợp
hiến, hợp pháp của văn bản(11).
- Bên cạnh việc tổ chức triển khai thi
hành luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết, trong năm 2014, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ còn phải tập trung nguồn lực cho công tác soạn thảo, hoàn thiện khối lượng
lớn dự án luật, pháp lệnh nhằm bảo đảm tiến độ và chất lượng (trình Chính phủ để trình
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua 26 dự án luật, pháp lệnh và cho ý
kiến 09 dự án luật).
* Về mặt chủ quan:
- Một số Bộ, cơ quan
ngang Bộ chưa
chỉ đạo, đôn đốc quyết liệt công tác soạn thảo, lấy ý kiến của các cơ quan, đơn
vị liên quan; chưa tuân thủ nghiêm túc quy trình xây dựng, ban hành văn bản, đặc
biệt việc bảo đảm thời gian tiến độ soạn thảo.
- Sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, giữa tổ chức pháp chế và các đơn vị chuyên môn trong quy
trình soạn thảo, thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính, kiểm tra văn bản ở
một số Bộ còn chưa thật chặt chẽ, hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Bộ
Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách
nhiệm, sự tham gia
tích cực của
tổ chức pháp chế
trong việc xây dựng, ban hành văn bản.
- Việc đầu tư thời gian, kinh phí và các nguồn lực cho
công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế, chưa phù
hợp với vị trí, vai trò, yêu cầu, tính chất phức tạp của công việc này.
II. NHIỆM VỤ TRONG
NĂM 2015
Dự báo trong năm 2015, nhiệm vụ
xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết của các Bộ, cơ quan ngang Bộ là
rất nặng. Theo đó các Bộ, cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ:
- Chỉnh lý, hoàn thiện trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 100
văn bản chưa ban hành nêu tại Phụ lục II, trong đó có 39 văn bản (35 nghị
định, 04 quyết định) thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Xây dựng và thực hiện các Kế hoạch triển
khai thi hành 18 luật được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8; đồng thời xây
dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền trên 100 văn bản (dự kiến khoảng 42 nghị định, 06 quyết định và 60 thông
tư, thông tư liên tịch) quy định chi tiết 18 luật bảo đảm chất lượng, tiến độ,
có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của luật để tổ chức triển khai thi hành
đồng bộ, thống nhất. Mặt khác, cũng phải chuẩn bị tổ chức thi hành và xây dựng,
ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật được Quốc hội thông
qua tại Kỳ họp thứ 9 (dự kiến 11 dự án).
- Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình
hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết nhằm đảm bảo tiến độ và chất
lượng của văn bản; kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, nhất là
trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu để xảy ra tình trạng chậm ban hành văn
bản quy định chi tiết, văn bản không bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, không bảo
đảm tính khả thi, không phù hợp với thực tiễn gây bức xúc dư luận.
- Phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính
phủ xây dựng báo cáo của Chính phủ về tình hình triển khai thi hành Nghị quyết
số 67/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội về việc tăng cường công tác triển
khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành để trình Quốc hội tại
Kỳ họp thứ 10.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ
- Khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện để trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 100 văn
bản chưa ban hành quy định chi tiết các luật đã có hiệu lực hoặc có hiệu lực kể
từ ngày 01/01/2015 nêu tại Phụ lục II, đặc biệt là 39 văn bản thuộc thẩm quyền
của Chính phủ, Thủ tướng Chính.
- Tổ chức thi hành và xây dựng, ban hành các
văn bản quy định chi tiết 18 luật được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8,
theo đó phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp trong việc rà
soát để xác định đầy đủ các nội dung được giao, lập dự kiến danh mục văn bản,
phân công cơ quan chủ trì soạn thảo và đề xuất việc áp dụng các giải pháp nhằm bảo
đảm tiến độ, chất lượng của văn bản quy định chi tiết, sớm khắc phục tình trạng
nợ chưa ban hành văn bản.
2.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ
- Chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị trực thuộc phối
hợp chặt chẽ với các đơn vị thuộc Văn phòng Chính phủ khẩn trương chỉnh lý,
hoàn thiện các dự thảo nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã trình
và được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến để trình Thủ tướng Chính phủ
ký ban hành.
- Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công
tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết;
thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đề ra nhằm
triển khai thi hành kịp thời, có hiệu quả 18 luật được Quốc hội thông qua tại Kỳ
họp thứ 8, khẩn trương rà soát, lập danh mục thông tư, thông tư liên tịch quy
định chi tiết để xây dựng, ban hành và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, theo dõi.
- Các Bộ trong thời gian tới phải xây dựng,
ban hành nhiều văn bản (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ
Xây dựng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công
an, Bộ Tài chính) cần ưu tiên, tập trung nguồn lực, bố trí kinh phí cho công
tác xây dựng, ban hành văn bản; tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế,
tăng cường phát huy vị trí, vai trò của tổ chức pháp chế trong công tác xây
dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết.
- Phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ,
Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan trong quá trình soạn thảo, góp ý, thẩm
định, thẩm tra văn bản nhằm bảo đảm chất lượng, tiến độ của văn bản; hạn chế
tối đa tình trạng nợ đọng văn bản.
- Văn phòng Chính phủ chỉ đạo các đơn vị
chuyên môn tăng cường phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo, cử cán bộ tham
gia ngày từ đầu quá trình soạn thảo văn bản để rút ngắn thời gian thẩm tra;
phối hợp, đôn đốc việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự thảo văn bản sau khi đã được
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến nhằm bảo đảm chất lượng và tiến độ.
Trên đây là Báo cáo tình hình ban hành văn
bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2014, nhiệm vụ năm 2015, Bộ
Tư pháp xin kính trình Chính phủ xem xét, chỉ đạo./.
Nơi nhận:
-
Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để chỉ đạo thực hiện);
- Ủy ban pháp luật của Quốc hội;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ (để phối hợp);
- Vụ Pháp luật - Văn phòng Chính phủ;
- Vụ Pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Văn phòng Bộ, Vụ PLHSHC, Vụ PLDSKT, Vụ PLQT, Cục KTrVBQPPL, Cục KSTTHC, Cục
BTTP và Cục CNTT - Bộ Tư pháp;
- Lưu: VT, Vụ VĐCXDPL.
|
KT.BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đinh
Trung Tụng
|
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|