QUỐC
HỘI KHÓA XIII
ỦY BAN PHÁP LUẬT
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2804/BC-UBPL13
|
Hà Nội, ngày 14
tháng 11 năm 2014
|
BÁO CÁO
KẾT QUẢ GIÁM SÁT
VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THUỘC THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Kính gửi: Ủy
ban thường vụ Quốc hội,
Thực hiện Chương trình giám sát năm 2014, Ủy ban
pháp luật của Quốc hội (UBPL) đã ban hành Nghị quyết số 2201/NQ-UBPL13 ngày 02/01/2014
thành lập Đoàn giám sát do đồng chí Phan Trung Lý - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chủ nhiệm UBPL làm Trưởng Đoàn giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan
hành chính nhà nước trong phạm vi cả nước, thời gian từ ngày 01/01/2011 đến
ngày 31/12/2013.
Mục đích của việc giám sát là để nhận xét, đánh giá
hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân. Từ đó, đưa ra kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đưa ra giải pháp nhằm khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức, thực hiện nhằm góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đoàn giám sát đã tổ chức nghe đại diện Chính phủ
trình bày Báo cáo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc thẩm
quyền của cơ quan hành chính nhà nước (số liệu tính từ ngày 15/8/2010 đến
ngày 15/8/2013 của Thanh tra Chính phủ);
tổ chức nghiên cứu các báo cáo của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân1; đồng thời, tổ
chức một số đoàn công tác trực tiếp giám sát tại 8 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương2 (UBND cấp tỉnh), cơ quan tiếp công dân của Trung
ương tại các tỉnh phía Nam, làm việc tại Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công
thương. Dưới đây, UBPL xin báo cáo kết quả giám sát như sau:
I. NHẬN XÉT CHUNG
UBPL nhận thấy, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND cấp
tỉnh đã có nhiều cố gắng chuẩn bị báo cáo và tài liệu phục vụ cho giám sát và
đã giải trình, báo cáo bổ sung làm rõ các vấn đề mà Đoàn giám sát yêu cầu. Báo
cáo của Chính phủ về cơ bản đã phản ánh sát thực tình hình khiếu nại, tố cáo
trong 03 năm (2011-2013); nêu ra được những nguyên nhân chính làm phát sinh
khiếu nại, tố cáo; đánh giá đúng mức việc tổ chức thực hiện và kết quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo; phân định rõ việc khiếu nại và việc tố cáo; chú trọng
đề cập đến công tác thi hành quyết định
giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như kết
quả giải quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài. Báo cáo cũng đã phân
tích, đánh giá được những chuyển biến tích cực cũng như hạn chế, yếu kém trong
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đưa ra được nhiều số liệu
và địa chỉ cụ thể của bộ, ngành và địa phương thực hiện tốt hoặc còn hạn chế
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo; đồng thời Báo cáo cũng nêu ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác này.
Tuy nhiên, UBPL thấy rằng Báo cáo của Chính phủ cần
tập trung phân tích, đánh giá sâu sắc hơn nữa về các vấn đề như: nguyên nhân
của thực trạng khiếu nại, tố cáo trong thời gian qua; nguyên nhân tình hình
khiếu nại, tố cáo đông người ngày càng gia tăng; nguyên nhân những tồn tại, yếu
kém trong công tác tiếp công dân chậm được khắc phục; nhiều cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền chưa thực sự gắn việc tiếp công dân với việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo; trong giải quyết khiếu nại, tố cáo còn có nhiều sai sót về nội dung,
không đúng thẩm quyền, thủ tục; những tồn
tại, yếu kém nêu trên là do chính sách, pháp luật còn bất cập hay do tinh thần
trách nhiệm và năng lực của cán bộ, công chức ở các cấp, các ngành và của người
đứng đầu còn hạn chế. Chính phủ cũng cần rà soát, chỉnh lý Báo cáo nhằm bảo đảm
tính chính xác về số liệu và bổ sung kết quả giải quyết đơn thư do đại biểu
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và cơ quan, tổ
chức khác chuyển đến; đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến nghị cụ thể
hơn nữa, bảo đảm tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
II. VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Tình hình triển khai việc
thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo
Về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về khiếu nại,
tố cáo: Trong những năm qua, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật
khiếu nại, Luật tố cáo và Luật tiếp công dân; đồng thời ban hành các nghị định
hướng dẫn thi hành luật3.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chỉ đạo các bộ, ngành,
UBND cấp tỉnh tập trung thực hiện công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và ban hành Quyết định số 312/QĐ-TTg giao nhiệm vụ cho
các bộ, ngành, UBND các cấp triển khai
thực hiện Nghị quyết số 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội “Về việc tiếp
tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất
đai”.
Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý; đồng thời, xác định nhiều giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác này.
Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
khiếu nại, tố cáo: Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng
trong công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Những hoạt
động này đã góp phần nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức trách nhiệm cho đội
ngũ cán bộ, công chức, tạo chuyển biến nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật
trong nhân dân khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
Về công tác chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các ngành, các
cấp đổi mới công tác tiếp dân, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo:
- Hàng quý, Chính phủ nghe Tổng Thanh tra Chính phủ
báo cáo tình hình và kết quả công tác tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, qua đó đề ra biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời để chấn chỉnh,
khắc phục những tồn tại trong quản lý nhà nước nhằm hạn chế khiếu nại, tố cáo. Đối
với các vụ việc khiếu kiện đông người, phức tạp; vụ việc có ý kiến khác nhau,
Thủ tướng, Phó Thủ tướng phụ trách công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã
trực tiếp chủ trì nhiều cuộc họp để nghe báo cáo tình hình và có ý kiến chỉ đạo
giải quyết, xử lý dứt điểm4.
- Thanh tra Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương
nghiêm túc triển khai thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành, địa phương chủ động nắm bắt và xử lý các tình
huống phức tạp phát sinh trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo5; tổ chức nhiều
hội nghị triển khai và sơ kết đánh giá công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo6; đồng thời
tập trung rà soát và phối hợp để giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố
cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài.
2. Tình hình khiếu nại, tố cáo
Trong thời gian từ ngày 01/01/2011 đến hết năm
2013, ở nước ta diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng7... Do đó, việc khiếu nại, tố cáo ngoài tình hình
như các năm trước còn có những đặc thù nhất định. Các cơ quan hành chính nhà
nước đã tiếp nhận 389.063 đơn, thư khiếu nại, tố cáo, trong đó:
Về khiếu nại, phát sinh 327.706 lượt đơn
khiếu nại với 170.257 vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung khiếu nại chủ yếu
trong lĩnh vực đất đai8 chiếm 74,76% số đơn khiếu nại; còn lại là các khiếu nại
trong các lĩnh vực khác.
Về tố cáo, phát sinh 61.357 lượt đơn tố cáo
với 27.108 vụ việc. Nội dung tố cáo trong lĩnh vực hành chính chiếm tỉ lệ
84,24%, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công
chức vi phạm pháp luật, cố ý làm trái chiếm đoạt tài sản, lạm dụng chức vụ
quyền hạn để vụ lợi; thiếu trách nhiệm, lãng phí, vi phạm trong quản lý, sử
dụng đất đai, tài chính ngân sách, đầu tư
xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội...
- Năm 2011, có giảm về số lượt người và số lượng
đơn thư nhưng số vụ việc, số đoàn đông người tăng so với năm 2010, đặc biệt là
trước thời điểm bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND khiếu nại, tố cáo tăng đột biến.
- Năm 2012, giảm về số lượt người, số lượng đơn thư
và số vụ việc khiếu nại, tố cáo so với
năm 2011, nhưng số lượt đoàn đông người
tăng và tính chất mức độ có thời điểm gay gắt hơn.
- Năm 2013, số lượng đơn thư giảm nhiều, trong đó
số vụ việc giảm (30,42%) so với năm 2012, nhưng lại tăng số lượt khiếu nại, tố
cáo đông người.
UBPL nhận thấy, tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn
diễn biến phức tạp9, xảy
ra trên nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai;
nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo năm trước chưa giải quyết xong lại phát sinh
khiếu nại, tố cáo mới; một số địa phương khiếu nại, tố cáo giảm nhiều nhưng ở
địa phương khác lại tăng mạnh; khiếu kiện đông người tiếp tục tăng, còn nhiều
vụ việc khiếu nại kéo dài10,
người khiếu kiện có thái độ bức xúc, gay gắt, vượt cấp lên trung ương11 gây
mất trật tự nơi công cộng; khiếu kiện liên quan đến tôn giáo ở một số địa
phương tăng.
Ngoài ra, UBPL cho rằng, Báo cáo của Chính phủ cần
làm rõ nội dung sau khi Luật khiếu nại, Luật tố cáo được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực từ ngày 01/7/2012 thì có tác động như thế nào đối với tình hình
tăng, giảm đơn thư khiếu nại, tố cáo?, số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo giảm
nhiều trong năm 2013 là do có 2 luật mới
hay vì lý do nào khác?, tại sao khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai vẫn
gia tăng sau khi đã có Nghị quyết số 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc
hội?, tại sao tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người vẫn không được khắc
phục?... Có làm rõ được những nội dung này thì mới đưa ra được những kiến nghị
để tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
3. Kết quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo
3.1. Tiếp nhận, phân loại
và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo
Các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp nhận
536.789 đơn thư các loại, trong đó, đã xử lý 310.720/389.063 đơn khiếu nại, tố
cáo (227.248 đơn khiếu nại; 83.472 đơn tố cáo), với 170.257 vụ việc khiếu nại,
27.108 vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà
nước12.
Nhìn chung, công tác tiếp nhận, phân loại và xử lý
đơn, thư được quan tâm, đã ứng dụng công nghệ
thông tin vào xử lý đơn thư. Việc theo dõi kết quả giải quyết sau khi chuyển đơn có nhiều tiến bộ. Tuy
nhiên, vẫn còn một số địa phương, đơn vị xử lý đơn, thư còn chậm trễ, vi phạm
về trình tự, thủ tục.
3.2. Kết quả giải quyết đơn, thư khiếu nại,
tố cáo
Các cơ quan hành chính nhà nước đã giải quyết 167.654/197.365
vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 84,83%13. Cụ thể:
- Về khiếu nại: Giải quyết 144.707/170.257
vụ, đạt tỷ lệ 85%. Trong đó:
+ Thanh tra Chính phủ kết luận báo cáo Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo giải quyết 175/299 vụ việc khiếu nại14.
+ Các bộ, ngành đã giải quyết 19.782/23.638 vụ, đạt
tỷ lệ 83,7%.
+ Các địa phương đã giải quyết 124.750/146.320 vụ,
đạt tỷ lệ 85,3%.
Phân tích từ kết quả giải quyết 107.890 vụ việc
khiếu nại cho thấy: có 41.288 vụ đúng và có đúng, có sai (38,3%); 66.602 vụ
khiếu nại sai (61,7%).
- Về tố cáo: Các cơ quan hành chính nhà nước
đã giải quyết 22.947/27.108 vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 84.7%. Trong
đó:
+ Thanh tra Chính phủ giải quyết 02 vụ việc Thủ
tướng Chính phủ giao;
+ Các bộ, ngành đã giải quyết 9.443/11.812 vụ việc,
đạt tỷ lệ 79,9%;
+ Các địa phương đã giải quyết 13.502/15.294 vụ
việc, đạt tỷ lệ 88,3%.
Phân tích kết quả giải quyết 21.674 vụ việc tố cáo
cho thấy: có 9.564 tố cáo đúng và có đúng, có sai (44,1%); 12.110 tố cáo sai
(55,9%).
Nhìn chung, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
được nhiều cấp, ngành, địa phương quan tâm và chỉ đạo thực hiện nên đã tạo được
những chuyển biến tích cực, tỉ lệ vụ việc khiếu nại, tố cáo được giải quyết cao15. Tuy nhiên, chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo còn có
những hạn chế nhất định; một số bộ, ngành, địa phương xử lý đơn, thư còn chậm
và để xảy ra sai sót; việc theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo sau khi
chuyển đơn còn nhiều hạn chế.
Phân tích từ kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
thì có khoảng 39,25% khiếu nại, tố cáo đúng và có đúng, có sai; 60,75% khiếu
nại, tố cáo sai; qua đó cho thấy trình độ, năng lực còn hạn chế của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức đã ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính
không đúng... mà bị dân khiếu nại, tố cáo.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong 03 năm
qua có liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Tuy
nhiên, trong báo cáo của các cấp, các ngành, các địa phương cũng chưa phân tích
rõ bao nhiêu vụ khiếu nại, tố cáo được giải quyết lần đầu? bao nhiêu vụ việc
được giải quyết lần 2 và còn tiếp tục khiếu nại hoặc khởi kiện ra Tòa án và kết
quả xét xử ra sao?; đồng thời, chưa làm rõ được thực trạng giải quyết đơn, thư
thì địa phương đã chuyển lên Trung ương bao nhiêu vụ và ngược lại? giải pháp để
giải quyết vấn đề này như thế nào?, đây
là những nội dung quan trọng, qua đó đánh giá được đúng chất lượng giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, trong các báo cáo
cũng chưa phân tích công tác này theo từng giai đoạn, chưa có đánh giá cụ thể
kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trước và sau khi Luật khiếu nại, Luật tố
cáo có hiệu lực thì có gì chuyển biến; tác động của các quy định mới về trình
tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo như thế nào đến kết quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo?; các báo cáo cũng chưa đề cập đến việc chấp hành thời hạn
giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền; số đơn, thư khiếu nại thuộc thẩm quyền chậm được giải quyết là
bao nhiêu?; đồng thời, các báo cáo cũng chưa đề cập rõ việc người ra quyết định
hành chính sai mà người dân khiếu nại hoặc có hành vi trái pháp luật mà người
dân tố cáo bị xử lý như thế nào?. Làm rõ được các vấn đề này mới góp phần đánh
giá đúng thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.3. Kết quả giải quyết các vụ việc tồn đọng,
phức tạp, kéo dài
Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều
tích cực trong việc kiểm tra, rà soát,
giải quyết các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài, nên đã giải quyết dứt điểm được nhiều vụ việc16, nhất là các vụ khiếu
kiện về đất đai phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, UBPL
đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần làm rõ, vì sao một số vụ việc
đã được giải quyết nhưng công dân không đồng ý lại tiếp tục khiếu nại, tố cáo17; đã vận dụng chính sách
có lợi cho người dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo như thế nào?. Đồng
thời, đề nghị Chính phủ cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo, có giải pháp quyết liệt
giải quyết dứt điểm các vụ việc, không để tình trạng chính quyền đã có quyết
định xử lý (không chỉ dừng lại ở việc ra quyết định “chấm dứt thụ lý khiếu
nại theo quy định”) nhưng người dân không đồng ý vẫn tiếp tục khiếu nại
vượt cấp, kéo dài.
3.4. Kết quả thi hành các quyết định giải
quyết khiếu nại, tố cáo
Qua các báo cáo thấy rằng, bên cạnh những điểm tích
cực thì việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các bộ,
ngành và địa phương vẫn còn nhiều hạn chế; một số địa phương việc thi hành còn
chậm, thiếu quyết liệt hoặc số lượng chưa
thi hành còn cao; qua đó dẫn đến khiếu nại, tố cáo kéo dài. Vì vậy, đề nghị
Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cần quyết liệt chỉ đạo các cấp chính
quyền cơ sở đẩy mạnh công tác thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo
để đảm bảo quyền, lợi ích của người dân và cũng là biện pháp hạn chế việc khiếu
nại, tố cáo.
4. Công tác tiếp công dân
4.1. Tổ chức
tiếp công dân
Theo Báo cáo của Chính phủ, đến nay cả nước có
khoảng 50 địa phương đã tổ chức bộ máy
tiếp công dân theo Quyết định 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính
phủ. Một số loại mô hình tổ chức cụ thể như sau:
- Mô hình Trụ sở tiếp công dân được tổ chức như một
cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND cấp tỉnh, như: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
Quảng Nam18.
- Mô hình Trụ sở tiếp công dân thuộc Văn phòng UBND tỉnh, do 01 Phó Chánh Văn phòng đứng đầu được
tổ chức ở hầu hết các địa phương19, Phòng (Ban) tiếp công dân được thành lập để chủ trì, phối hợp
việc tiếp công dân giữa các cơ quan tham gia tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công
dân.
- Riêng thành phố Hà Nội thành lập Ban tiếp công
dân của UBND thành phố nhưng trực thuộc cơ cấu tổ chức của Văn phòng UBND thành
phố20.
- Ngoài ra, tại một số địa phương Trụ sở tiếp công
dân chưa được tổ chức theo Quyết định số 858/QĐ-TTg, có nơi Phòng tiếp công dân
làm nhiệm vụ thường trực tại Trụ sở tiếp công dân thuộc Thanh tra tỉnh như tỉnh
Quảng Trị, tỉnh Lào Cai.
Về biên chế đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
tiếp dân trong cả nước hiện có tổng số
7.263 cán bộ, công chức chuyên trách, trong đó: tại các bộ, ngành là 2.366 cán
bộ, công chức (484 thanh tra viên, chiếm 20,4%); tại các tỉnh, thành phố là
4.897 cán bộ, công chức (1.274 thanh tra viên, chiếm 26%). UBPL cho rằng, số
liệu này cần có sự đánh giá về chất lượng, trình độ chuyên môn, ý thức trách
nhiệm công việc của những người này, đánh giá tính hiệu quả để rà soát, sắp xếp
lại cho hợp lý.
4.2. Kết quả tiếp công dân
Trong thời gian qua các cơ quan hành chính nhà nước
tiếp 1.083.140 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo; có 12.886 lượt đoàn đông
người.
Nhìn chung, công tác tiếp công dân trong 3 năm qua
tiếp tục có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Việc phối hợp trong công tác tiếp dân chặt chẽ, kịp thời
hơn, nhất là các vụ việc đông người, phức tạp.
Tuy nhiên, qua giám sát thực tế, UBPL cho rằng chất
lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân chưa cao (nhất là cấp cơ sở)21; việc triển khai Đề án đổi mới công tác tiếp công dân còn chậm;
một số địa phương chưa quan tâm đúng mức trong việc đầu tư cơ sở vật chất và bố
trí cán bộ có phẩm chất, trình độ, năng lực cho Trụ sở tiếp công dân; vẫn còn
một số bộ, ngành, địa phương lãnh đạo chưa trực tiếp tiếp công dân theo quy
định.
Báo cáo của Chính phủ chưa nêu rõ kết quả tiếp công
dân trong từng năm, việc tăng, giảm như thế nào về số lượt công dân khiếu nại,
tố cáo và số lượt đoàn đông người tại các địa phương và trung ương; nội dung
khiếu nại, tố cáo của công dân tại các buổi tiếp công dân là gì?. Nếu xác định
được những nội dung này mới đánh giá được tình hình công dân trực tiếp đi khiếu
nại, tố cáo và phản ánh được chính xác chất lượng, hiệu quả của công tác tiếp
công dân.
4.3. Kết quả thanh tra trách nhiệm trong việc
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối
với cơ quan hành chính nhà nước
Theo Báo cáo của Chính phủ, trong 3 năm (2011-2013)
Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành 11.545 cuộc thanh
tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo tại 28.264 tổ chức,
đơn vị22. Qua đó, đã chỉ
ra những yếu kém, hạn chế, khuyết điểm, kiến nghị biện pháp chấn chỉnh, xử lý
vi phạm trong công tác tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, Báo cáo của Chính phủ chưa làm rõ vì sao
kết quả thanh tra trách nhiệm của năm 2011 và năm 2012 lại chiếm 4/5 tổng số
cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong 3
năm. Ngoài ra, qua Báo cáo của Chính phủ, UBPL nhận thấy số đơn vị có vi phạm
trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của năm 2013 còn cao
(996/5.805 cơ quan, đơn vị, tổ chức bị thanh tra) nhưng việc xử lý các đối
tượng này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc rút kinh nghiệm. Vì vậy, để công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện một cách nghiêm túc,
có hiệu quả, UBPL đề nghị Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần
tăng cường thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
5. Nguyên nhân phát sinh khiếu
nại, tố cáo; nguyên nhân kết quả, tồn tại trong công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo
5.1. Nguyên nhân khách quan
- Giai đoạn trước khi Luật khiếu nại, Luật tố cáo
được ban hành và có hiệu lực thì hệ thống
pháp luật liên quan đến khiếu nại, tố cáo còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được
yêu cầu của công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Ngoài ra, việc tổ chức thực hiện Luật khiếu nại và Luật tố cáo (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2012) cũng cần có thời gian nhất định để tuyên
truyền, phổ biến đến cán bộ, công chức và nhân dân nắm bắt, thực hiện.
Cơ chế, chính sách liên quan đến quyền lợi của
người sử dụng đất còn nhiều bất cập, chưa phù
hợp, chưa nhất quán, có sự chênh lệch quá lớn giữa giá bồi thường so với giá trị thực tế; một số dự án
thu hồi đất sản xuất của dân nhưng không được sử dụng hợp lý, đất bỏ hoang, lãng phí, trong khi nông dân thiếu đất sản
xuất, dẫn đến bức xúc, phát sinh khiếu nại23.
- Trong quá trình thực hiện chính sách cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với đất đai, thành lập nông trường, lâm trường, tập đoàn, Hợp
tác xã, thực hiện giao khoán đến giao đất
cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh cũng còn có những vấn đề tồn tại
dẫn đến phát sinh khiếu nại, tố cáo và một số chính sách nhà ở trong việc mua
bán, cho mượn, ở nhờ giữa các bên không có giấy tờ rõ ràng, hồ sơ bị thất lạc
nên phát sinh tranh chấp24...
- Do việc giải quyết liên quan đến chế độ, chính
sách đối với người có công với cách mạng, chế độ an sinh xã hội ở nước ta là
rất lớn, trong khi tài liệu, giấy tờ liên quan đến việc giải quyết chế độ,
chính sách do thời gian quá lâu nên bị thất lạc hoặc không đầy đủ, rõ ràng cũng
như hướng dẫn của cơ quan chức năng chưa kịp thời, cụ thể cũng làm phát sinh
nhiều khiếu nại, tố cáo ở lĩnh vực này.
5.2. Nguyên nhân chủ quan
- Về phía các cơ quan nhà nước:
+ Công tác quản lý nhà nước25, nhất là trong lĩnh vực đất đai còn nhiều yếu
kém, có nhiều vi phạm trong lĩnh vực đất
đai chưa được xử lý nghiêm minh, kịp thời.
+ Công tác chỉ đạo, điều hành, theo dõi, nắm tình
hình, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tổ chức thi hành
các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực chưa thường xuyên,
nhất là những vấn đề bức xúc của nhân dân; nhiều vụ việc đã có quyết định giải
quyết đúng pháp luật và đã có hiệu lực, nhưng việc thực hiện chưa kịp thời,
không triệt để.
+ Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số Bộ,
ngành ở trung ương còn chưa thống nhất về chủ trương trong một số vụ việc cụ
thể, nhất là việc áp dụng các quy định của pháp luật về đất đai để giải quyết
có sự khác nhau giữa thời điểm Luật đang có hiệu lực thi hành với Luật mới. Luật
khiếu nại, Luật tố cáo, Luật đất đai đã quy định thời
hạn, thời hiệu thụ lý giải quyết khiếu
nại cũng như điều kiện để thụ lý nhưng trên thực tế khi chỉ đạo, giải quyết
khiếu nại không thực hiện theo các quy định của luật, không thực hiện thẩm quyền được giao mà lại có văn bản yêu cầu địa
phương phải xem xét, giải quyết lại. Tuy
nhiên, số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo được xem xét lại rất ít nên công dân
lại tiếp tục khiếu nại, tố cáo lên cấp trên.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến việc khiếu nại lòng vòng, kéo dài, không có điểm
dừng.
+ Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo chưa được giải
quyết kịp thời, đúng pháp luật; trình tự, thủ tục giải quyết còn thiếu sót, còn
nhiều vụ việc không tổ chức đối thoại với
người khiếu kiện, không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, có trường hợp
việc giải quyết không kịp thời, thiếu trách nhiệm dẫn đến người dân manh động,
“tự giải quyết” theo cách của mình dẫn đến vi phạm pháp luật.
+ Một số địa phương có lúc chưa chú trọng đến công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, vận động, thuyết phục, cũng
như việc tổ chức đối thoại, thương lượng, hòa giải với nhân dân; chưa tập trung
giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo từ
cơ sở; chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo lần đầu chưa cao; chưa thực hiện
tốt quy chế dân chủ cơ sở.
Một số địa phương chưa phát huy hết sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị, chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị,
còn có biểu hiện né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác cải cách hành chính còn chậm nên có
những việc để chậm trễ hoặc làm chưa đến nơi đến chốn, dẫn đến người khiếu nại
thêm bức xúc.
- Về phía
cán bộ, công chức thực thi công vụ: Cán bộ, công chức tại một số địa phương
chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác tiếp công dân; trình độ, năng
lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế, chưa
thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ và
thiếu khách quan, công tâm trong thực thi công vụ.
- Về phía người dân đi khiếu nại, tố cáo: Do
nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế,
một số cá nhân khiếu nại cầu may; một số phần
tử cơ hội, phản động lợi dụng lôi kéo, kích động người dân khiếu nại, tố cáo
chiếm trụ sở nơi tiếp công dân, gây mất trật tự công cộng, ảnh hưởng đến tình
hình an ninh, trật tự tại địa phương26.
UBPL nhận thấy, những nguyên nhân gây ra khiếu nại,
tố cáo đều không mới, tồn tại từ nhiều năm nay nhưng chưa có biện pháp khắc
phục hiệu quả.
6. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải
quyết khiếu nại, tố cáo
Trong các báo cáo của Chính phủ, bộ, ngành và UBND
cấp tỉnh đã nêu ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong 03 năm (2011-2013). UBPL nhận thấy, những
khó khăn, vướng mắc này đã được thể hiện tại nhiều điểm của các nội dung khác,
chẳng hạn như tại nội dung về tình hình triển
khai thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo; nội dung về nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo... Vì vậy, trong
các buổi làm việc, UBPL đã trao đổi và
ghi nhận những khó khăn, vướng mắc của Chính phủ, các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh (xem Phụ lục 1).
III. KIẾN NGHỊ
UBPL nhận thấy, những năm tiếp theo nước ta có
nhiều sự kiện chính trị quan trọng27, tình hình kinh tế - xã hội đất nước còn gặp nhiều thách thức
và có tác động đến tình hình khiếu nại, tố cáo; do đó, UBPL cơ bản tán thành
với chủ trương, phương hướng, các giải pháp, kiến nghị được nêu trong các báo
cáo của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương28, đồng thời
kiến nghị một số vấn đề sau đây:
- Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên các cấp
tăng cường công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tập trung vào
các địa bàn, lĩnh vực còn tồn tại nhiều khiếu nại, tố cáo; tổ chức giám sát một số vụ việc nổi cộm, bức
xúc được xã hội quan tâm.
- Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai công
tác thi hành các quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tiếp công dân,
Luật đất đai; tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo và
các văn bản pháp luật có liên quan. Trên cơ sở đó tiến hành tổng kết để phát
hiện những khó khăn, vướng mắc để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp
luật về khiếu nại, tố cáo. Đồng thời kịp thời chuẩn bị trình Quốc hội ban hành
Luật biểu tình theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khóa XIII làm cơ sở
để công dân thực hiện quyền được ghi nhận trong Hiến pháp; là cơ sở để cơ quan
có thẩm quyền xử lý những trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, dân chủ,
nhân quyền vi phạm pháp luật, gây rối an ninh, trật tự công cộng.
- Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương
rà soát, chấn chỉnh đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác quản lý
liên quan đến lĩnh vực có nhiều khiếu nại, tố cáo, nhất là trong lĩnh vực đất
đai, đền bù giải phóng mặt bằng, lĩnh vực thực hiện chính sách an sinh, xã
hội... nhằm hạn chế việc phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo ở các lĩnh vực này;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình
độ, năng lực, kỹ năng nghiệp vụ trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo; cần đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong việc tiếp công dân, đối thoại với công dân, giải quyết kịp thời ngay tại cấp cơ sở.
- Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần dự báo
tình hình khiếu nại, tố cáo trong những năm tới để chủ động xây dựng, đề ra
biện pháp xử lý kịp thời, phù hợp; tiếp
tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị; triển khai thi hành
Luật đất đai, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tiếp công dân; thực hiện Nghị
quyết số 30/2012/QH13 ngày 21/6/2012 của Quốc hội và Nghị quyết số 39/2012/QH13
ngày 23/11/2012 của Quốc hội liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về
đất đai, đặc biệt chú trọng các biện pháp hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo.
- Tăng cường công tác thanh tra trách nhiệm của
người đứng đầu trong việc thực hiện Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tiếp công
dân; làm rõ trách nhiệm để xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với cán bộ, công
chức sai phạm, thiếu trách nhiệm. Bên cạnh đó, cần có biện pháp xử lý nghiêm
khắc người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật gây mất trật tự
công cộng, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước.
- Thanh tra Chính phủ tăng cường công tác thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo; kịp thời kiểm tra, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ
giải quyết khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài theo Kế hoạch 1130/KH-TTCP và 2100/KH-TTCP; chủ động
rà soát các vụ việc khác có khả năng phát sinh khiếu nại đông người, xây dựng
phương án chủ động giải quyết không để phát sinh các điểm nóng. Xử lý kịp thời, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân do đại biểu Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội chuyển đến và thông báo kết quả giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Trên đây là Báo cáo kết quả giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính
nhà nước trong phạm vi cả nước. UBPL xin báo cáo Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
- Thành viên UBPL (để b/c);
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- UBND cấp tỉnh;
- Lưu: HC, PL.
- Số e-pas: 80737.
|
TM. ỦY BAN PHÁP LUẬT
CHỦ NHIỆM
Phan Trung Lý
|
PHỤ LỤC 1
TẬP
HỢP NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC CỦA CHÍNH PHỦ, BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG TRONG GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
I. Khó khăn, vướng mắc của
Chính phủ (theo Báo cáo số 464/BC-CP ngày 04/11/2014
của Chính phủ)
- Chính sách, pháp luật về đất đai
thay đổi thường xuyên; giá đất bồi thường, định mức hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất còn bất cập, thường thấp hơn thực
tế. Có những trường hợp công dân có bị
thiệt thòi về quyền lợi nhưng thiếu cơ
chế để giải quyết; nếu giải quyết quyền lợi cho dân thì địa phương, cơ quan
giải quyết và cán bộ sẽ vi phạm pháp luật nên không dám vận dụng trong giải quyết.
- Công tác quản lý nhà nước về đất
đai trong một thời gian dài bị buông lỏng, nhiều vi phạm trong lĩnh vực đất đai
không được xử lý nghiêm minh, kịp thời; việc đo đạc, cắm mốc giới, lập bản đồ,
hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm và có nhiều sai sót. Do đó làm ảnh hưởng đến việc
xác định các căn cứ khi giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Những tồn tại có tính lịch sử
như việc cho thuê, cho mượn, cầm cố đất đai trong nội bộ nhân dân, việc đưa
đất, lao động vào các tập đoàn sản xuất, các nông lâm trường, không có hoặc
không lưu giữ được các tài liệu, sổ sách khi
thu hồi đất, chưa bồi thường thiệt hại thực tế hoặc đã bồi thường nhưng không
lưu giữ hồ sơ đã gây khó khăn rất lớn cho quá trình giải quyết các vụ việc
khiếu nại đòi lại đất hoặc đòi bồi thường thiệt hại đất đã thu hồi trước đây.
- Qua triển khai thực hiện Luật
khiếu nại đã tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong thực hiện quyền khiếu
nại1; Luật tố cáo đã bổ
sung nhiều nội dung mới cơ bản và quan trọng2, tuy nhiên trong quá trình thực hiện có một số
khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
người khiếu nại, người bị khiếu nại và của luật sư, trợ giúp viên pháp lý3; thẩm quyền giải quyết
khiếu nại4; trình tự,
thủ tục giải quyết khiếu nại5;
thời hiệu, thời hạn giải quyết khiếu nại6, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết khiếu
nại7; thi hành quyết
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật8; về thẩm quyền, thời hạn giải quyết tố cáo9; công khai kết luận nội
dung tố cáo10. Bên cạnh
đó, có tình trạng người khiếu nại chuyển sang tố cáo người giải quyết khiếu nại khi không đạt được mục đích nhưng
pháp luật chưa quy định rõ việc giải quyết;
có những trường hợp vi phạm trong quá trình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo nhưng còn thiếu quy
định của pháp luật để xử lý.
- Đội ngũ cán bộ, công chức làm
nhiệm vụ tham mưu trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn
hạn chế. Thực tế, ở cấp huyện cán bộ tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo còn
thiếu, năng lực về chuyên môn nghiệp vụ
còn yếu, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, trong khi đó, người ra quyết
định giải quyết là Chủ tịch UBND huyện lại có rất nhiều công việc, thời gian và
công sức dành cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được nhiều dẫn đến
nhiều vụ việc không được giải quyết kịp thời, chất lượng không cao, thậm chí có
sai sót, vi phạm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
II. Khó khăn,
vướng mắc của các bộ, ngành
1. Bộ Xây
dựng
- Việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo (cụ
thể là Luật khiếu nại 2011) có nhiều bất cập khi áp dụng trong giải quyết khiếu
nại về nhà đất tồn đọng. Ví dụ như: về thời hiệu khiếu nại, đối với nhà đất tồn
đọng thì các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều được ban hành hoặc
xảy ra từ nhiều chục năm về trước (miền Bắc từ những năm 1960, miền Nam từ năm
1975), nếu áp dụng đúng Luật khiếu nại, thì các khiếu nại này đều không được
thụ lý giải quyết. Hoặc như về trình tự, thủ tục, thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, theo Luật khiếu nại thì người dân có thể
kiện ra Tòa Hành chính bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại.
Trong khi đó, Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 lại quy định: quyết định
của Bộ trưởng Bộ Xây dựng là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, như
vậy, đối với nhà đất tồn đọng, thì sau khi Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành
quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, đương sự không được quyền khiếu nại
tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nữa...
Hoặc như đối với công tác tiếp
dân, theo quy định của Luật khiếu nại thì: “Cán bộ tiếp dân có quyền từ chối
tiếp trong trường hợp người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về vụ
việc đã được kiểm tra, xem xét và đã có quyết định hoặc kết luận giải quyết của
cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và đã được trả lời đầy đủ”.
Nhưng trong thực tế thì rất nhiều trường hợp Bộ đã ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại cuối cùng, có trường hợp đã thông báo chấm dứt giải quyết,
nhưng đương sự vẫn liên tục đến phòng tiếp dân của Bộ và khiếu nại rất gay gắt
mà cán bộ tiếp dân không thể từ chối tiếp được.
- Trên tinh thần “không xem xét
lại”; “không thừa nhận việc đòi lại” của
Nghị quyết số 23/2003/QH11, thì cho đến nay hầu hết các dạng khiếu nại về nhà đất tồn đọng có thể coi là đã có quy phạm pháp luật
để giải quyết. Tuy nhiên, vẫn còn những dạng
khiếu nại cho đến nay chưa có quy định giải
quyết hoặc có quy định nhưng chồng chéo,
không rõ ràng hoặc gây cách hiểu khác nhau nên chưa giải quyết được, cụ thể
như:
(1) Trường hợp nhà nước “mua lại”
hoặc “thanh lý” nhà đất của những người thuộc diện phải thực hiện các chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa về nhà đất nhưng
chưa thanh toán tiền hoặc mới thanh toán một phần cho chủ sở hữu
(2) Trường hợp người xuất cảnh
hoặc đăng ký xuất cảnh (kể cả xuất cảnh
theo phương án ii) giao nhà đất cho nhà nước quản lý nhưng họ không xuất cảnh
được hoặc đã trở về định cư tại Việt Nam
trước ngày Nghị quyết 23 có hiệu lực
(3) Đối với trường hợp nhà đất của
người không thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại điều 2 của
Nghị quyết 23 có nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý (bằng văn bản) nhưng bên mượn, bên thuê, bên ở
nhờ, bên được ủy quyền quản lý nhà đã tự ý giao nhà cho nhà nước hoặc tự ý đưa
vào tài sản cố định của đơn vị mình
(4) Trường hợp cơ quan có thẩm
quyền đã ban hành văn bản trả lại nhà đất, nhưng đến ngày Nghị quyết 23 có hiệu lực, văn bản trả nhà đất đó chưa được thực hiện và chưa bị thu hồi
bởi cơ quan có thẩm quyền
(5) Về vấn đề hỗ trợ cải thiện nhà
ở theo quy định tại Nghị quyết 755 của
UBTVQH
(6)
Trường hợp người tham gia hoạt động cách mạng có nhà
đất bị nhà nước quản lý diện vắng chủ (theo thống kê của các địa phương có 9
trường hợp khiếu nại
(7) Một số vấn đề còn có cách hiểu
khác nhau, như: hành vi quản lý, bố trí sử dụng nhà đất của nhà nước có thể
được hiểu là diễn ra trước 01/7/1991 hoặc tới khi Nghị quyết 23 có hiệu lực
(ngày 01/7/2004) hoặc tới khi Nghị quyết 755 có hiệu lực (ngày 02/4/2005)...
Năm 2010, Bộ Xây dựng đã trình
Chính phủ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc
hội về việc Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, trong đó
có kiến nghị bổ sung quy định giải quyết
đối với các trường nêu trên, nhưng cho đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa
có ý kiến về vấn đề này.
2. Bộ Khoa
học và Công nghệ
- Về đối tượng áp dụng:
Điều 3, Luật khiếu nại 2011 về “Áp
dụng pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại” quy định: “Khiếu nại của
cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và việc giải quyết
khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.”
Tuy nhiên, thực tế khá phổ biến là
nhiều các tổ chức, cá nhân nước ngoài nộp đơn xác lập quyền SHCN tại Việt Nam
không có văn phòng đại diện hoặc trụ sở kinh doanh tại Việt Nam. Họ thực hiện
các thủ tục khiếu nại đối với việc từ chối bảo hộ các đối tượng đăng ký tại Cục
SHTT thông qua các đại diện SHCN. Trong khi các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia trong lĩnh vực này không có các quy định riêng về trình tự thủ tục
giải quyết khiếu nại đối với người nộp
đơn nước ngoài, cần phải áp dụng các quy định của luật quốc gia để các đối
tượng này có thể thực hiện quyền khiếu nại như người nộp đơn trong nước. Điều
này phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia và đãi ngộ tối huệ quốc theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
Tuy nhiên, giới hạn về đối tượng
áp dụng Luật khiếu nại cần phải ở “tại Việt Nam” theo quy định
tại Điều 3 Luật khiếu nại đặt ra câu hỏi: Việc khiếu nại về xác lập quyền SHCN
của các chủ thể quyền/người nộp đơn nước ngoài không có trụ sở tại Việt Nam sẽ
được áp dụng theo trình tự thủ tục giải quyết như thế nào?
Do đó, Bộ KH&CN đề nghị cần có
sự hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, nếu
không sẽ không thể có cơ sở pháp lý để giải quyết các yêu cầu, khiếu nại của
nhóm đối tượng này.
- Về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại của Bộ trưởng:
Điều 23 Luật khiếu nại quy định Bộ
trưởng có thẩm quyền giải quyết “khiếu
nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết”. Tuy nhiên, Luật không
có quy định Bộ trưởng có thẩm quyền yêu cầu cấp dưới phải giải quyết và/hoặc
chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc việc giải quyết của cấp dưới và/hoặc áp dụng biện
pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với người thiếu trách nhiệm hoặc cố tình trì
hoãn việc giải quyết khiếu nại đó. Chính phủ cũng không làm rõ vấn đề này trong
dự thảo Nghị định hướng dẫn một số điều Luật khiếu nại đang lấy ý kiến của
thành viên Chính phủ.
Như vậy, nếu người nộp đơn đăng ký
đối tượng SHCN khiếu nại tiếp lên Bộ trưởng do khiếu nại lần đầu tại Cục SHTT
không được giải quyết theo đúng thời hạn, theo quy định trên thì Bộ trưởng sẽ
phải giải quyết và không có căn cứ pháp lý để yêu cầu/chỉ đạo Cục SHTT phải ra
quyết định giải quyết vụ việc như đã từng được quy định trong khoản 4 Điều 6
Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ. Việc quy định như Điều
23 của Luật khiếu nại sẽ tạo ra áp lực rất lớn cho việc giải quyết khiếu nại
tại Bộ KH&CN.
- Về khiếu nại liên quan đến
quyết định xử phạt của Trưởng đoàn thanh tra:
Hiện nay theo quy định của Luật
thanh tra, Luật xử lý vi phạm hành chính thì Trưởng đoàn thanh tra được ban
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, theo Luật khiếu nại thì quyết định
này có thể bị khiếu nại. Theo nguyên tắc thì người khiếu nại phải gửi đơn đến
người đã ra quyết định hành chính, ở đây là Trưởng đoàn thanh tra, tuy nhiên
Trưởng đoàn thanh tra chỉ là chức danh tạm thời (thời vụ), sau khi kết thúc
cuộc thanh tra thì sẽ không còn là Trưởng đoàn thanh tra, nên không còn cơ sở
pháp lý để Trưởng đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại. Người ra quyết định thanh tra cũng không thể giải quyết
khiếu nại này (vì không được quy định trong luật).
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam
- Luật bảo hiểm xã hội qua quá
trình 08 năm thực hiện đã bộc lộ không ít vấn đề không phù hợp với thực tiễn,
nhiều quy định dễ bị lạm dụng gây thất thoát
quỹ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và phát sinh
khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, cần sớm được bổ sung, sửa đổi.
4. Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội
- Điều 21 Luật tố cáo quy định
thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời
hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết
tố cáo. Trường hợp cần thiết, người có thẩm
quyền giải quyết tố cáo có thể gia
hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối
với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày. Tuy nhiên, thực tế có nhiều
vụ việc tố cáo có nội dung phức tạp, phải xác minh tại nhiều cơ quan, tổ chức,
đơn vị, nhiều địa phương, do đó, việc giải quyết
tố cáo theo đúng thời hạn quy định gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cần phải có quy
định cụ thể về thời hạn giải quyết tố cáo, đặc biệt nới rộng thời hạn giải
quyết tố cáo đối với những vụ việc tố cáo phức tạp, liên quan nhiều cấp, ngành, đảm bảo việc giải quyết tố cáo phù hợp hơn với thực tiễn.
- Điều 22 Luật tố cáo quy định
người giải quyết tố cáo có thể giao cho cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp
hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo. Để giữ
bí mật thông tin của người tố cáo, Luật quy định văn bản giao xác minh không có
nội dung về họ, tên, địa chỉ của người tố cáo. Tuy nhiên, Luật cũng quy định
người được giao xác minh nội dung tố cáo có quyền yêu cầu người tố cáo cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo. Như vậy gây khó khăn cho
người được giao xác minh do không biết về người tố cáo để yêu cầu cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo.
- Điểm b, c khoản 2 Điều 27 Luật
tố cáo quy định “Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan
cấp dưới trực tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông
báo cho người tố cáo về việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc
tố cáo; Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới
trực tiếp là không đúng pháp luật thì tiến hành giải quyết lại theo trình tự
quy định tại Điều 18 của Luật này”. Tuy nhiên trên thực tế rất khó xác định
được “người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật” nếu
như không xác minh, xem xét cụ thể vụ việc đó. Mặt khác, Điều 27 cũng quy định
chỉ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp phải xác định được
vụ việc đó được giải quyết đúng pháp luật hoặc là không đúng pháp luật là khó
khả thi trên thực tế. Do đó, cần phải có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng quy định cụ thể
mức độ xem xét vụ việc như thế nào để xác định được vụ việc đó đã được giải
quyết đúng hay không đúng pháp luật, quy định thời hạn mang tính linh động hơn.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Về đối tượng khởi kiện: Tại điểm
b khoản 1 Điều 1 và khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày
29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật tố tụng hành chính thì quyết định hành chính được ban hành sau khi có
khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn
bộ quyết định hành chính là đối tượng
khởi kiện của vụ án hành chính. Theo quy định tại điểm
h khoản 2 Điều 31 Luật khiếu nại quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu phải có các nội dung sau đây: “Giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính,
chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề cụ thể trong
nội dung khiếu nại”. Như vậy, trong trường hợp người có thẩm quyền ban hành
quyết định giải quyết lần đầu có nội dung giữ nguyên quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu nại, sau đó người khiếu nại không đồng ý với quyết
định giải quyết lần đầu này và có đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết thì
tòa án sẽ trả lại đơn, trường hợp này sẽ
gây ra không ít khó khăn cho công dân cũng như cơ quan có thẩm quyền trong quá
trình giải quyết vụ việc.
- Về thời hạn giải quyết khiếu
nại: Điều 28 và 37 Luật khiếu nại quy định thời hạn giải quyết khiếu nại; khoản
11 Điều 2 Luật khiếu nại quy định “Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác
minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại”.
Hiện nay, việc thẩm tra, xác minh
và đề xuất biện pháp giải quyết khiếu nại thường được giao cho cơ quan thanh
tra của các đơn vị thực hiện, tuy nhiên, khoản 1 Điều 45 Luật thanh tra 2010
quy định “Cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành không quá 60 ngày,
trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Đối với cuộc
thanh tra đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương thì
thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 150 ngày; Cuộc thanh tra do
Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ tiến hành không quá 45 ngày, trường hợp phức tạp
thì có thể kéo dài, nhưng không quá 70 ngày; Cuộc thanh tra do Thanh tra huyện,
Thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày; ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không
quá 45 ngày”.
Như vậy, khi tiến hành thẩm tra,
xác minh giải quyết vụ việc khiếu nại, cơ quan thanh tra sẽ thực hiện quy định
của luật nào để không bị vi phạm quy định về thời hạn giải quyết.
- Về thẩm quyền giải quyết tố cáo:
theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật tố cáo: “Tố cáo hành vi vi phạm pháp
luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do
người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết”. Tuy nhiên, Luật tố
cáo hiện hành không quy định rõ việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo xác
định tại thời điểm tố cáo hay tại thời điểm người bị tố cáo thực hiện hành vi
bị tố cáo nên gây khó khăn khi xác định thẩm quyền giải quyết, chẳng hạn trong
trường hợp cán bộ, công chức, viên chức chuyển cơ quan, đơn vị công tác thì cơ
quan trước đây hay cơ quan mới chuyển đến xử lý...
III. Khó
khăn, vướng mắc của các địa phương
1. Khó khăn,
vướng mắc liên quan đến Luật khiếu nại
- Về thời hạn có hiệu lực của
quyết định giải quyết khiếu nại:
Điều 44 quy định quyết định giải
quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày; đối với vùng sâu, vùng xa đi
lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Quy định
này là chưa thống nhất với Điều 104 Luật tố tụng hành chính: thời hạn để khởi
kiện vụ án hành chính là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính (tỉnh Yên Bái, Hậu
Giang,..).
- Về khiếu nại và giải quyết khiếu
nại lần hai:
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1
Điều 7, Điều 18, Điều 19, Điều 21 thì khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn mà
không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ
trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu.
Tuy nhiên, đoạn 2 khoản 1 Điều 33 quy định: “Trường hợp khiếu nại lần hai thì
người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu, …”. Quy định này gây khó khăn trong
quá trình thực hiện, vì khiếu nại lần đầu không được giải quyết thì không thể
có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu để gửi kèm đơn khiếu nại lần hai.
Mặt khác, việc giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần đối với khiếu nại lần đầu đã
hết thời hạn nhưng không được giải quyết là giải quyết lần đầu hay giải quyết
lần hai cũng chưa được quy định rõ.
- Về gửi quyết định giải quyết
khiếu nại: điểm d khoản 1 Điều 13 quy định người bị khiếu nại có quyền nhận
quyết định giải quyết khiếu nại lần hai
là chưa đủ, bởi trong một số trường hợp quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu cũng cần gửi cho người bị khiếu nại. Do đó đề
nghị bổ sung vào điểm này quyền của người bị khiếu nại nhận quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; đồng
thời bổ sung Điều 32 quy định gửi quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu cho
người bị khiếu nại.
Điều 32 không quy định việc gửi
quyết định giải quyết khiếu nại cho người bị khiếu nại (trong thực tế có nhiều
vụ việc người giải quyết khiếu nại lần đầu và người bị khiếu nại là 2 chủ thể
khác nhau), tuy nhiên Điều này cũng quy định việc gửi quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan nên trường hợp người
bị khiếu nại không phải là người giải quyết khiếu nại lần đầu thì có thể hiểu
người bị khiếu nại là người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Đề nghị Thanh tra
Chính phủ hướng dẫn thêm nội dung này.
- Đề nghị quy định đối thoại là
thủ tục bắt buộc trong quy trình giải quyết khiếu nại lần đầu, vì việc đối
thoại trong giai đoạn giải quyết khiếu nại lần đầu có thể hạn chế việc tiếp tục
khiếu nại lần hai.
Luật khiếu nại hiện hành đã quy
định về việc đối thoại trong giải quyết
khiếu nại lần đầu, nhưng không phải là quy trình bắt buộc mà chỉ trong trường
hợp cần thiết. Quy định này là nhằm bảo đảm việc giải quyết khiếu nại được
thuận lợi, nhanh chóng đối với những vụ
việc khiếu nại không phức tạp.
- Điều 33 quy định thời hiệu khiếu
nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính là 30 ngày,
kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu,
Điều 44 về hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại là 30 ngày, kể từ ngày ban hành. Như vậy, cách tính
thời hiệu tại 2 điều này là không giống nhau.
- Khoản 2 Điều 69 Luật khiếu nại
2011 quy định đối với khiếu nại đã được thụ lý, giải quyết trước ngày Luật này
có hiệu lực thì giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo cũ, nhưng
trong Luật cũ không quy định việc giải quyết đối với quyết định đã có hiệu lực
(tỉnh Tây Ninh);
- Việc quy định đối thoại, thời
hiệu, thời hạn giải quyết khiếu nại trong Luật khiếu nại là không khả thi (tỉnh
Ninh Thuận; Đăk-Nông; Đăk-Lắk);
- Tại điểm c khoản 2 Điều 15 Luật
khiếu nại quy định người giải quyết khiếu nại lần 2 tổ chức đối thoại, nhưng
tại điểm a khoản 1 Điều 21 của Thông tư
07 ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ lại quy định người giải quyết
khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh tổ chức đối thoại là không
thống nhất.
- Điều 33 Luật khiếu nại quy định
quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai nếu đã hết thời hạn mà khiếu nại lần đầu chưa được giải
quyết, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn việc xác định khiếu nại lần 1; lần 2;
chưa có hướng dẫn xác định trường hợp chuyển từ khiếu nại sang tố cáo; chưa có
hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch UBND tỉnh theo Điều
264 Luật tố tụng hành chính là giải quyết khiếu nại hay giải quyết tranh chấp
đất đai (tỉnh Quảng Ngãi).
- Vướng mắc trong việc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không
được tự mình sửa lại quyết định đã giải quyết khi phát hiện có sai sót, không phù hợp pháp luật (Điều 20 Nghị định 75/2012/NĐ-CP quy định chi tiết Luật khiếu
nại 2011) (tỉnh Hậu Giang).
- Vướng mắc về việc thụ lý giải
quyết khiếu nại, tố cáo khi cấp dưới để quá hạn không giải quyết (quy định tại
điều 33 Luật khiếu nại)
Điều 33 Luật khiếu nại quy định
người khiếu nại có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần 2 nếu đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà không được giải
quyết. Tuy nhiên, hiện nay vẫn không có hướng dẫn rõ việc thụ lý, giải quyết
trong trường hợp này là giải quyết lần đầu hay lần 2. Thực tế thời gian qua,
tỉnh Bắc Kạn chưa thụ lý giải quyết vụ việc nào theo quy định này. Trường hợp
phát hiện cấp dưới chậm giải quyết thì Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo ban hành
nhắc nhở, đôn đốc (tỉnh Bắc Kạn).
- Vấn đề thực hiện quy định về
nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung:
Trước đây quy định dù là cùng nội
dung nhưng khi khiếu nại mỗi người phải viết một đơn khiếu nại riêng. Đây là
quy định không cần thiết như khoản 3, Điều 31 Luật khiếu nại 2011 vì: Trong
thực tế trong số những người cùng khiếu nại về cùng 1 nội dung có người muốn
rút khiếu nại, có người muốn khiếu nại tiếp, có người vì điều kiện, hoàn cảnh
riêng của mình muốn yêu cầu cao hơn hoặc thấp hơn, đòi hỏi nhiều hơn hoặc ít
hơn... (tỉnh Lào Cai).
- Vấn đề thời hạn giải quyết khiếu
nại:
Quy định về thời hạn giải quyết
khiếu nại trong Luật khiếu nại năm 2011 là chưa phù
hợp, đặc biệt là đối với các tỉnh có địa bàn rộng, đi lại khó khăn. Thực
tế nhiều vụ việc kéo dài, vượt quá thời hạn có nội dung xác minh phải tìm hiểu
toàn diện mới có thể kết luận đầy đủ, đúng đắn (tỉnh Lào Cai).
- Theo quy định của Luật khiếu nại
thì quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định có hiệu lực thi hành,
công dân không có quyền khiếu nại nữa, nhưng trên thực tế nhiều quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai vẫn phải xem xét lại (thông qua các việc rà soát theo
chỉ đạo của Chính phủ) như vậy lại tạo ra một tiền lệ là giải quyết tiếp khiếu
nại (tỉnh Thái Nguyên).
2. Khó khăn,
vướng mắc liên quan đến Luật tố cáo
- Điểm b khoản 2 Điều 27 quy định: “Trường hợp
việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là đúng
pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông báo cho người tố cáo về
việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo”. Quy định này là
không phù hợp, vì nếu không kiểm tra, xác
minh thì không thể kết luận việc giải quyết của người đứng đầu cơ quan cấp dưới
trực tiếp là đúng hay không đúng pháp luật, mà đã kiểm tra, xác minh là đã giải
quyết vụ việc.
- Điểm a khoản 1 Điều 20: đề nghị
quy định cụ thể hình thức của văn bản thụ lý.
- Điểm b khoản 1 Điều 9 quy định
người tố cáo có quyền được giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và các thông
tin cá nhân khác của mình, đồng thời khoản 3 Điều 8 cũng quy định hành vi
bị nghiêm cấm là tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo
và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính người tố cáo, nhưng tại
Điều 11 quy định về quyền và nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo lại không có quy định về việc giữ bí mật họ tên, bút
tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo.
- Điểm b khoản 2 Điều 20 quy định:
người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo khi tố cáo về vụ việc mà
nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác minh
người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật. Quy định này là không phù hợp, vì khi chưa kiểm tra, xác minh thì
chưa có cơ sở để kết luận người vi phạm, hành vi vi phạm, mà để kiểm tra, xác
minh thì phải thụ lý.
- Chưa có quy định về thời hiệu tố
cáo dẫn đến khó khăn trong việc thu thập chứng cứ phục vụ kết luận xử lý (thành
phố Hải Phòng).
- Vướng mắc trong trường hợp chuyển từ khiếu nại sang tố cáo.
Trên địa bàn tỉnh đang phát sinh trường hợp công dân khiếu nại, sau khi có quyết định giải quyết
khiếu nại lần 1, hoặc lần 2 của người có thẩm
quyền (bác khiếu nại) thì công dân chuyển sang tố cáo cán bộ, công chức
của cơ quan tham mưu và người giải quyết khiếu nại. Vấn đề này chưa được hướng
dẫn cụ thể trong Luật tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo cũng như Thông
tư số 06/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính
phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo) (tỉnh Bắc Kạn).
- Luật tố cáo đã bổ sung một
chương mới là Chương V: Từ Điều 34 đến Điều 40 về bảo vệ người tố cáo. Tuy
nhiên, theo những quy định hiện hành về bảo
vệ tố cáo thì thực tiễn giải quyết của công tác tố cáo vẫn còn nhiều vấn đề
liên quan đến việc triển khai thực hiện.
- Về bảo vệ bí mật thông tin người
tố cáo: Do mô hình cơ quan, tổ chức tiếp nhận, xử lý đơn đơn thư và giải quyết
tố cáo thường là những tập thể với nhiều bộ phận khác nhau cho nên nếu cán bộ,
công chức và những người có liên quan chưa được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý
thức ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin của người tố cáo; bên cạnh đó,
trên thực tế còn không ít các xã, phường chưa đáp ứng được phòng tiếp công dân
riêng, do vậy có những hạn chế nhất định trong việc đảm bảo bí mật thông tin người
tố cáo.
3. Các khó
khăn, vướng mắc khác
- Luật tiếp công dân, Luật khiếu
nại, Luật tố cáo đã quy định về trách nhiệm của lãnh đạo các cấp trong lĩnh vực
này, nhưng chưa có quy trình tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của lãnh
đạo nên chất lượng, hiệu quả còn hạn chế (tỉnh Tây Ninh; Khánh Hòa;
Đăk-Nông; Đăk-Lăk; Thừa Thiên - Huế;
Quảng Ngãi).
- Các quy định về việc xác định
hành vi vi phạm của người tố cáo sai sự thật và chế tài xử lý đối với đối tượng
này chưa cụ thể, rõ ràng (tỉnh Quảng
Nam; Tây Ninh; Đăk-Nông).
- Một số cấp ủy Đảng, chính quyền
chưa tập trung lãnh đạo, kiểm tra, đôn
đốc thực hiện kiên quyết, đồng bộ về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo; công tác nắm tình hình và dự báo những vấn đề nảy sinh ở cơ sở còn
hạn chế; sự phối hợp của các cơ quan, đơn
vị trong giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa thường xuyên (tỉnh Bình Định; Thừa Thiên - Huế).
- Lực lượng, biên chế ngành thanh
tra còn thiếu; năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn bất cập, chưa có cán bộ chuyên trách mà
chủ yếu là kiêm nhiệm, nhất là ở cấp xã (tỉnh Tây Ninh; Phú Yên; Bình Định;
Khánh Hòa; Bình Thuận; Quảng Bình; Quảng Ngãi).
- Khó khăn trong việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (khoản 4 Điều
31 Nghị định 69/2009/NĐ-CP khó áp dụng
trong thực tế do người dân có đất bị thu hồi không hợp tác, không đến nhận tiền bồi thường...) (tỉnh Hậu Giang).
- Việc bố trí cán bộ tiếp công dân
thường xuyên ở cấp xã theo Luật tiếp công dân gặp nhiều khó khăn, vì ở cấp xã
các chức danh này chỉ được một định biên, chưa có công chức chuyên trách làm
nhiệm vụ tiếp dân thường xuyên nên sẽ gặp khó khăn trong bố trí cán bộ tiếp
dân, tham mưu xử lý đơn thư (tỉnh Hà Tĩnh).
- Chưa có văn bản hướng dẫn để xác
định thế nào là “cùng nội dung khiếu nại, tố cáo” (thành phố Hải Phòng).
- Nhiều vụ việc đã được xem xét,
giải quyết hết thẩm quyền nhưng các cơ quan khác vẫn chuyển đơn yêu cầu xem
xét, giải quyết gây khó khăn, áp lực đối với cơ quan hành chính nhà nước (tỉnh
Hưng Yên; TP. Hải Phòng).
- Một số vụ việc giải quyết đúng
pháp luật nhưng thiếu tính khả thi làm giảm hiệu lực hiệu quả trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo (tỉnh
Vĩnh Phúc).
- Vướng mắc trong trường hợp khiếu
nại cấp trùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).
Trên thực tế thời hạn của trình tự
cấp GCNQSDĐ của cơ quan chuyên môn kéo dài gấp nhiều lần so với quy định của
Luật đất đai, khi phát sinh khiếu nại vì cấp trùng, người giải quyết không biết
phải hủy giấy cấp trước hay hủy giấy cấp sau, vì cả hai giấy đều có hiệu lực (tỉnh
Bắc Kạn).
- Ngoài Luật khiếu nại, Luật tố
cáo, còn có một số văn bản pháp luật khác cũng quy định về việc giải quyết
khiếu nại (Luật đất đai, Luật thuế, Luật xử lý vi phạm hành chính...) nhưng
công tác tuyên truyền giải đáp pháp luật của cơ quan chức năng chưa cụ thể, rõ
ràng, một số công dân khiếu kiện không nắm rõ luật pháp nên không xác định được
khiếu kiện phải đến cơ quan nào mới có thẩm quyền giải quyết nên tất cả các
loại khiếu nại, tố cáo... đều được gửi đến cơ quan hành chính hoặc trực tiếp
đến Trụ sở tiếp công dân các cấp yêu cầu giải quyết. Mặt khác, công tác phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các cơ
quan có thẩm quyền chưa thống nhất, việc hướng dẫn trả lời vụ việc của cơ quan
cấp trên có thẩm quyền chưa kịp thời, có tình trạng cấp dưới ngại va chạm, trốn
tránh trách nhiệm, đẩy công việc lên cấp trên xin ý kiến chỉ đạo giải quyết dẫn
đến tình trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo mất nhiều thời gian, công
việc bị ùn tắc do phải xử lý những thủ tục không cần thiết (tỉnh Thái Nguyên).
PHỤ LỤC 2
TẬP
HỢP NHỮNG KIẾN NGHỊ CỦA CHÍNH PHỦ, CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG TRONG CÔNG TÁC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Kiến nghị của Chính phủ (theo Báo cáo số 464/BC-CP ngày 04/11/2014 của Chính phủ)
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo và một số văn bản khác có liên
quan để khắc phục những khó khăn, vướng mắc như đã nêu trên.
- Tăng cường giám sát việc thực
hiện chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo
(nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng, thực hiện
chính sách xã hội); giám sát trách nhiệm
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan hành chính
các cấp.
2. Kiến nghị của các bộ, cơ
quan ngang bô, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND
cấp tỉnh
2.1. Về cơ chế, chính sách
pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật có liên quan
- Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật giải quyết
khiếu nại, tố cáo phù hợp với thực tiễn. Tổ chức
các hình thức phù hợp để kịp thời nắm bắt các vướng mắc phát sinh trong quá
trình áp dụng pháp luật, chia sẻ các kinh nghiệm trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo, thực thi có hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân (như hội thảo, tọa đàm, sơ kết, tổng kết...)1.
- Đề nghị sửa đổi Luật tố tụng
hành chính về thời hiệu và điều kiện khởi kiện cho phù hợp2.
- Đề nghị bổ sung vào Luật khiếu
nại, Luật tố cáo quy định cụ thể về chế tài xử lý về trách nhiệm hợp tác của người khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khi người khiếu nại, tố cáo gây khó
khăn cho công tác điều tra xác minh (không đến làm việc theo giấy mời, không
cung cấp hồ sơ, tài liệu gốc, chứng cứ khiếu nại...) dẫn đến không đảm bảo,
trình tự, thủ tục, kéo dài thời gian giải quyết3.
- Kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ ban
hành quy định về trình tự thủ tục, thẩm quyền giải quyết đối với khiếu nại về
nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính
sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày
01/7/1991; Kiến nghị Ủy ban thường vụ
Quốc hội sớm xem xét và cho ý kiến đối với Báo cáo của Chính phủ về việc Tổng
kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc
hội và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội4.
- Cần hoàn thiện quy định pháp
luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành5.
- Xem xét quy định không thụ lý
giải quyết tố cáo của công dân đối với trường hợp không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại chuyển sang tố cáo người giải quyết khiếu nại6.
- Có quy định riêng về khiếu nại,
giải quyết khiếu nại trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho vùng
đồng bào dân tộc thiểu số7.
- Xử lý kịp thời, nghiêm minh các
hành vi tiêu cực, cố ý làm sai pháp luật của tập thể, cá nhân gây thiệt hại đến
quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức,
cá nhân và Nhà nước; Với các cá nhân, tổ chức lợi dụng danh nghĩa đi khiếu nại
để gây rối, kích động, làm mất trật tự trị an xã hội, hoặc cố tình chây ỳ,
không chấp hành các quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng đã có hiệu lực
pháp luật thì ngoài việc giải thích, vận động họ thực hiện, cần có biện pháp
kiên quyết để họ chấp hành pháp luật của Nhà nước8; Đề nghị Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn
xử lý và quy định cụ thể chế tài đối với các
hành vi cố tình, khiếu nại, tố cáo sai sự thật, kích động, cưỡng ép dụ dỗ, mua
chuộc người khác tố cáo sai sự thật; mạo danh người khác để tố cáo sai sự thật
(quy định tại Điều 6 Luật khiếu nại; Điều 8 Luật tố cáo)9; Đồng thời, quy định cụ thể về chế độ khen thưởng
đối với người tố cáo đúng và việc bồi thường thiệt hại về tài sản, danh dự...
đối với người tố cáo sai sự thật10.
- Đề nghị Chính phủ ban hành Nghị
định về thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực (khoản 4 Điều
46 của Luật khiếu nại)11;
văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục triển khai, tổ chức thực hiện quyết định
giải quyết khiếu nại12.
- Đề nghị Chính phủ có hướng dẫn
cụ thể về chế độ, chính sách cho cán bộ làm công tác thanh tra, tham mưu giải
quyết khiếu nại, tố cáo ở các cơ quan trực thuộc Chính phủ như Học viện13.
- Đề nghị ban hành văn bản pháp
luật hướng dẫn cơ chế phối hợp trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, HĐND, đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND
các cấp, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc về việc
tiếp nhận xử lý đơn thư, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết và kiểm tra, giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân14.
- Đề nghị có văn bản hướng dẫn đối
với các trường
hợp sau: xác định khiếu nại lần 1, lần 2 trong trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2 nếu đã
hết thời hạn mà khiếu nại lần 1 chưa được
giải quyết quy định tại Điều 33 Luật khiếu nại; hướng dẫn xác định trường hợp
chuyển từ khiếu nại sang tố cáo; hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch UBND tỉnh theo Điều 264
Luật tố tụng hành chính là giải quyết khiếu nại hay giải quyết tranh chấp đất
đai15.
- Đề nghị Thanh tra Chính phủ cần
ban hành văn bản thay thế Thông tư số 04
ngày 26/8/2010 về việc hướng dẫn quy trình tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu
nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị cho phù hợp với Luật tiếp công dân, Luật khiếu
nại (điểm a khoản 2 Điều 12) và Luật tố
cáo, nhất là đối với lãnh đạo các cơ quan
Đảng, Đoàn ĐB Quốc hội, HĐND và UBND các cấp16; Ban hành Thông tư liên tịch thay thế Thông tư
liên tịch số 475/TTLT-TTCP-BNV ngày 13/3/2009 của Thanh tra Chính phủ và Bộ Nội
vụ để bổ sung biên chế cho ngành Thanh tra và đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ và đãi ngộ cho đội ngũ này17; đề nghị sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 21 của
Thông tư 07 ngày 31/10/2013 cho phù hợp với điểm c khoản 2 Điều 15 Luật khiếu
nại quy định về thẩm quyền tổ chức đối thoại18.
- Đề nghị Thanh tra Chính phủ, Bộ
TN&MT cần phối hợp với TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai có liên quan đến khởi kiện hành chính19.
- Đơn, thư khiếu nại, tố cáo của
người dân tập trung phần lớn vào nội dung yêu cầu được đền bù theo giá thị
trường. Do vậy, để giảm thiểu tình trạng khiếu nại của người dân, giảm bớt mâu
thuẫn, bất đồng của người dân đối với chính quyền, cần hoàn thiện quy định của
pháp luật về khảo giá đất để đền bù sát giá thị trường20.
- Đề nghị có cơ chế xem xét, giải
quyết đối với các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo lần 2 khi thấy có sai
sót hoặc có tình tiết mới ảnh hưởng đến nội dung vụ việc (tương tự như thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng)21.
- Đề nghị quy định cho phép Chủ
tịch UBND cấp tỉnh được ủy quyền cho cấp phó hoặc Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
cùng cấp trong việc đối thoại khi giải quyết
khiếu nại, tố cáo lần 2, nếu kết quả xác
minh khiếu nại phù hợp với yêu cầu của người khiếu nại22.
- Đề nghị Thanh tra Chính phủ sớm
triển khai chuyển giao phần mềm về xử lý đơn thư KNTC thống nhất trong cả nước;
tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo23.
- Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư quy định quy trình,
trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai24 và thông tư hướng
dẫn việc tổ chức thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai và
các biện pháp cưỡng chế để thực hiện quyết định25.
- Đề nghị Thanh tra Chính phủ có
hướng dẫn cụ thể quy định về các trường hợp không thụ lý giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu
nại; đề nghị quy định rõ trách nhiệm tiếp công dân ở cấp xã, nhất là quy định
trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã
trong việc tổ chức, phân công người tiếp
công dân tại trụ sở UBND xã; đề nghị Bộ
Nội vụ, Chính phủ nghiên cứu xem xét bổ sung
biên chế cho ngành thanh tra, đặc biệt là đối
với thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện, thanh tra một số sở, ngành (tài
nguyên và môi trường, nông nghiệp và phát triển
nông thôn, lao động, thương binh và xã hội, giao thông vận tải, xây dựng...) để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thanh tra kinh tế - xã hội, tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng. Bên cạnh đó, đề nghị có quy
định phù hợp về thanh tra của Ban quản lý khu kinh tế26.
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật
thanh tra theo hướng tăng cường thẩm quyền,
trách nhiệm của các tổ chức thanh tra trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo27.
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật
khiếu nại, Luật tố cáo theo hướng xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước
trong việc xác minh, kết luận, kiến nghị giải quyết khiếu nại, tố cáo khi được
cấp có thẩm quyền giao28.
- Đề nghị hướng dẫn về cơ cấu tổ
chức, biên chế, cán bộ của Trụ sở tiếp công dân cấp
tỉnh, huyện29; hướng dẫn quy trình tiếp công dân30; hướng dẫn tổ chức, thi hành
quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực31.
- Đề nghị ban hành thông tư hướng
dẫn Nghị định 75/CP và Nghị định 76/CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số
điều của Luật khiếu nại, Luật tố cáo32.
- Đề nghị sớm ban hành hướng dẫn
quy trình giải quyết đơn kiến nghị, phản ánh33.
- Đề nghị sửa đổi một số quy định của Luật tố tụng hành chính cụ thể như: gộp chung các vụ khiếu kiện có cùng
nội dung để xét xử hoặc xét xử theo thủ tục rút gọn đối với vụ việc tương tự;
về việc hoãn phiên tòa...34.
- Đề nghị Thanh tra Chính phủ ban
hành văn bản hướng dẫn về cách tính số lượt người và số người trong một lượt
tiếp công dân để có sự thống kê đồng bộ, thống nhất trong cả nước35.
- Đề nghị Quốc hội ban hành Luật
Biểu tình là cơ sở xử lý những trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, dân
chủ, nhân quyền để gây rối36.
- Theo quy định tại Điều 30 và
Điều 39 Luật khiếu nại quy định “...người giải quyết
khiếu nại tiến hành đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại...”.
Người giải quyết khiếu nại là UBND các cấp, nhưng tại Điều 21 Thông tư 07 của
Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại quy định: “Đối với khiếu
nại lần 2, người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh tổ chức đối thoại”. Việc mở rộng đối tượng có
trách nhiệm đối thoại đã tháo gỡ được một phần khó khăn thực tế hiện nay tại
địa phương, vì Chủ tịch UBND các cấp rất khó thực hiện việc trực tiếp đối thoại
với người khiếu nại trong tất cả các vụ việc. Tuy nhiên nội dung này mới chỉ
điều chỉnh cho khiếu nại lần 2, còn khiếu nại lần 1 vẫn chưa có cơ chế cho phép
người thẩm tra, xác minh được tổ chức đối
thoại nên cũng cần sửa đổi Luật cho phù hợp.
Mặt khác, người có trách nhiệm xác minh tổ chức đối thoại
được hiểu là Trưởng đoàn xác minh hay Thủ trưởng cơ quan được giao xác minh; do
đó cần có quan điểm thống nhất về vấn đề này37.
- Điều 27 Luật tố cáo quy định:
“Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực
tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời, thông báo cho người
tố cáo việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo”.
Cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định thụ lý đơn là UBND các cấp và giao
cơ quan chuyên môn thẩm tra, xác minh, nhưng trong thời hạn 10 ngày không thể
khẳng định cơ quan cấp dưới giải quyết đúng, sai, vì phải giao cho cơ quan
chuyên môn thành lập đoàn thẩm tra, xác minh, báo cáo; sau đó UBND các cấp mới
ra quyết định thụ lý hoặc ra thông báo không thụ lý gửi người tố cáo. Như vậy,
rất khó khăn trong quá trình thực hiện và thường vi phạm về thời hạn, đề nghị sửa đổi cho phù hợp38.
- Về cơ chế giải quyết khiếu nại:
Từ các quy định của pháp luật và thực tiễn, để giải quyết có hiệu quả các khiếu
nại, tố cáo cho thấy nên xây dựng cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính bằng
trình tự tài phán hành chính, để người khiếu nại có quyền yêu cầu được giải
quyết theo trình tự tài phán hành chính trong bất kỳ giai đoạn nào của vụ việc
khiếu nại, kể cả quyền không phải khiếu nại đến chính người đã ban hành quyết
định, điều này có thể khắc phục được cơ chế giải quyết như hiện nay vừa là
người ra quyết định, vừa là người giải quyết khiếu nại (cơ chế người bị kiện
cũng là người xử kiện)39.
- Về thẩm quyền giải quyết khiếu
nại: Cần nghiên cứu theo hướng thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải
quyết khiếu nại. Không để việc giải quyết
khiếu nại nhiều cấp, ngành mà hiệu quả của việc giải quyết không cao; Để giải quyết
khiếu nại nhanh chóng, hiệu quả nên giao cho một cơ quan độc lập chuyên phán
quyết về các quyết định hành chính là cơ quan Tài phán hành chính để giải quyết.
Phán quyết của cơ quan này có hiệu lực bắt buộc thi hành như bản án của Tòa án
nhân dân40.
- Riêng đối với việc xử lý tố cáo nên quy định thời hạn tố
cáo tối đa không quá 05 năm sau khi xác định có hành vi vi phạm pháp luật xảy
ra, vì trên thực tế có những vụ việc tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật xảy
ra từ rất lâu, nên rất khó khăn trong việc xác minh và xử lý41.
- Về vai trò của Luật sư: Cho phép
Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi của người khiếu nại (trước mắt Luật sư tham gia
ở mức độ cung cấp các dịch vụ pháp lý, tư vấn cho người khiếu nại). Tuy nhiên,
đề nghị quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của Luật sư, cũng như trách nhiệm
của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền trước
các yêu cầu của Luật sư khi tham gia vào giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc cho
phép Luật sư tham bảo vệ quyền lợi của người khiếu nại sẽ khiến người giải
quyết khiếu nại phải khách quan hơn, đồng thời cũng là biểu hiện của một xã hội
công bằng, dân chủ42.
- Đề nghị làm rõ và giải đáp những
vấn đề vướng mắc trên thực tế mà Bộ KH&CN đã và đang gặp phải trong quá
trình giải quyết các khiếu nại mang tính chất chuyên ngành, đặc thù. Đồng thời
đề nghị đối với một số khiếu nại, tố cáo mang tính chất riêng thì nên giao cho
pháp luật chuyên ngành quy định để phản ánh rõ bản chất của một số vụ việc được gọi là “khiếu nại” như trong
lĩnh vực SHCN. Bởi lẽ, trong nhiều vụ việc khiếu nại về xác lập quyền SHCN,
không phải do cơ quan nhà nước làm trái pháp luật hay khiếu nại chỉ liên quan đến
bên khiếu nại với cơ quan nhà nước mà còn liên quan đến cả bên thứ ba. Những vụ
việc; khiếu nại trong lĩnh vực này cũng thường phải giải quyết kéo dài hơn so
với quy định của Luật Khiếu nại do quá trình giải trình cung cấp chứng cứ, giải
trình và xin ý kiến của bên thứ ba, bên có quyền lợi ích liên quan... mất rất
nhiều thời gian43.
- Đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn
liên ngành về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý
đơn, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết; kiểm
tra, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và cơ quan giải quyết 44.
- Có cơ chế chính sách khuyến
khích đối với cán bộ chuyên trách làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo45.
2.2. Củng cố bộ máy nhà nước
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Đề nghị nghiên cứu, xem xét mỗi
tỉnh không nên thành lập một Ban tiếp công dân, bởi nếu được thành lập thì đơn
vị này sẽ tương đương cấp sở khó có thể bố trí cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, phương tiện hoạt động và
biên chế đối với đơn vị này... Hơn nữa,
Ban tiếp công dân thực chất không trực tiếp giải quyết
được vụ việc mà chỉ thực hiện việc chuyển đơn. Đồng thời, đề nghị việc ban hành
văn bản hướng dẫn thi hành Luật tiếp công dân cần đúng với thời điểm Luật có
hiệu lực thi hành46.
- Có cơ chế phối hợp giữa bộ,
ngành và địa phương trong công tác tiếp công dân, giải quyết các khiếu nại, tố
cáo, đặc biệt với những khiếu nại có liên quan đến đất đai, nhà cửa, chủ thể
khiếu nại là cán bộ, công nhân viên của Bộ hoặc sự việc xảy ra tại đơn vị thuộc
Bộ47.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước
với các cơ quan tư pháp trong thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo;
phân định rõ thẩm quyền xem xét xử lý vụ
việc, không để xảy ra tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Duy trì nề nếp
và phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng tư vấn giải quyết khiếu nại, tố cáo
của tỉnh, huyện tạo đồng thuận trong quan điểm xử lý, giải quyết vụ việc48.
- Cho phép thành lập, tổ chức hệ
thống thanh tra, kiểm tra y tế tới tuyến huyện, riêng đối với lĩnh vực an toàn
thực phẩm và hành nghề y, dược ngoài công lập đề nghị thành lập, tổ chức hệ thống
kiểm tra, quản lý chuyên ngành tới tuyến
xã, phường49.
- Tăng cường cán bộ có trình độ và
phẩm chất làm công tác giải quyết khiếu nại về nhà đất. Xây dựng kế hoạch, chương
trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức pháp luật cho đội
ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại50.
2.3. Tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát; tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền
- Tăng cường và phát huy trách
nhiệm của cấp ủy đảng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Gắn giải
quyết khiếu nại, tố cáo với quy chế dân chủ ở cơ sở, với cải cách hành chính,
đấu tranh phòng chống tham nhũng. Coi hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo là
tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá năng lực, hiệu quả công tác của cấp ủy, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị và cán bộ công chức có trách nhiệm; Tăng cường kỷ luật
hành chính của các cơ quan trong quá trình giải quyết khiếu nại; Tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới
trong công tác giải quyết khiếu nại về nhà đất51.
- Đề nghị có quy định về trách
nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy các cấp trong việc lãnh đạo, kiểm tra,
giám sát công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức Đảng và đảng viên; Tăng cường chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan hành chính nhà nước các cấp; kịp thời phát hiện
và xử lý người thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo52.
- Cần quy định chặt chẽ về quyền
và trách nhiệm của người đứng đầu, có chế tài xử lý cụ thể đối với các cơ quan,
đơn vị, cá nhân trong việc không tổ chức thực hiện các quyết định, kết luận giải
quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật53.
- Tăng cường hoạt động giám sát
của Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể đối với công tác tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo54.
2.4.
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
- Lựa chọn, nghiên cứu để thực
hiện các chuyên mục được dư luận quan tâm để phát trên sóng Truyền hình Việt
Nam, đặc biệt là chuyên mục Hộp thư truyền hình55.
2.5. Đề
xuất, kiến nghị khác
- Đối với đơn, thư khiếu nại từ
cấp cơ sở gửi lên các cơ quan Trung ương
mà nội dung khiếu nại không có tình tiết mới, khiếu nại nhiều lần, có những đòi
hỏi không chính đáng, đề nghị các cơ quan chức năng ở Trung ương cần xem xét kết quả giải quyết của cấp bộ,
ngành (đã xem xét xử lý và có báo cáo) trước khi chuyển trở lại bộ, ngành để
yêu cầu xử lý, nhất là những trường hợp đã
có quyết định hoặc văn bản trả lời cuối cùng theo quy định của pháp luật56; Đề nghị các cấp, các
ngành thống nhất khi nhận được đơn khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết lần 2
thì không chuyển về nơi đã giải quyết và có văn bản trả lời chấm dứt thụ lý,
giải quyết khiếu nại57.
- Cần kéo dài thời gian chuyển đổi
vị trí công tác từ 3 năm (Nghị định 158) lên 5 năm và cho người làm công tác
thanh tra được hưởng chế độ ưu đãi của ngành ngay từ khi làm thanh tra, giải
quyết đơn thư58.
- Đề nghị các Bộ, ngành trung ương
trả lời kịp thời những vướng mắc khi địa phương có văn bản xin ý kiến59.