CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 256/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2013
|
BÁO CÁO
KIỂM ĐIỂM SỰ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ 6 THÁNG ĐẦU NĂM
Thực hiện Quy chế làm việc của Chính
phủ, các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành
kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ được phân công
và việc tham gia công việc chung của Chính phủ. Báo cáo này tập trung kiểm điểm
công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong 6 tháng đầu
năm như sau:
1. Về nhiệm vụ chỉ đạo, điều
hành phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại theo
Nghị quyết của Đảng, Quốc hội
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
thành viên Chính phủ tập trung chỉ đạo triển khai mục tiêu, nhiệm vụ năm 2013
theo Nghị quyết của Quốc hội là: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm
2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn
định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Ngay từ đầu năm,
Chính phủ đã sớm ban hành Nghị quyết về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2013, Nghị quyết chuyên đề về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và chỉ đạo khẩn
trương triển khai Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng1. Trong quá trình tổ
chức triển khai thực hiện, hàng tháng, hàng quý đều có kiểm
điểm đánh giá mặt được, chưa được và kịp thời điều chỉnh, bổ
sung.
Đến ngày 30/6,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 10.782 văn bản2 chỉ đạo, điều hành trên các lĩnh vực. Hầu hết các bộ, cơ quan kịp
thời ban hành chương trình, kế hoạch hành động, tích cực tham mưu và ban hành văn bản theo thẩm quyền để hướng dẫn, tổ chức thực
hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ đã chuẩn bị và trình Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư 18 đề án, báo
cáo; chỉ đạo xây dựng các chương trình hành động, kế hoạch
thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của các Hội nghị Trung ương. Chính phủ đã
trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 28 báo cáo, tờ trình; 14 dự án Luật,
Pháp lệnh. Lãnh đạo Chính phủ và các Thành viên Chính phủ đã báo cáo, giải
trình nghiêm túc về những vấn đề liên quan đến chỉ đạo, điều hành theo yêu cầu
của Quốc hội và đại biểu Quốc hội3.
Các Nghị quyết của Trung ương Đảng,
Quốc hội, Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội được Chính phủ triển khai
nghiêm túc với quyết tâm cao. Các bộ, ngành, địa phương đã bám
sát mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ để xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tế. Với sự nỗ lực của cả hệ
thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đối ngoại 6 tháng đầu năm đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng,
đạt được mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó
khăn đòi hỏi phải tiếp tục kiên định mục tiêu đồng thời có các giải pháp tháo gỡ
kịp thời trong 6 tháng cuối năm.
2. Về xây dựng và lãnh đạo bộ
máy hành chính nhà nước
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo kiện
toàn, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các bộ, cơ quan
ngang bộ gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước trong từng lĩnh
vực4. Đã tổng kết bước 2 thực hiện thí điểm không
tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; xây dựng đề án thí điểm mô hình
tổ chức chính quyền đô thị báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Chỉ đạo các ngành, các cấp tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ khoa học, cán bộ là người
dân tộc thiểu số. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý cán bộ, công chức và viên chức theo quy định của Luật Cán bộ
công chức, Luật Viên chức, pháp luật phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tuy nhiên, công tác xây dựng bộ máy vẫn
còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan còn quá chậm so với kế hoạch. Đến nay mới có 14/19 Nghị định được ban hành. Tình trạng này có phần do
nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa bộ, ngành vẫn còn một số điểm khó phân định rạch
ròi trong khi cơ chế phối hợp chưa thực sự hiệu quả và
cũng có phần do một số bộ đề nghị thành lập thêm nhiều Cục, Vụ. Đây cũng là một
nguyên nhân dẫn tới việc sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh, cấp huyện chậm. Đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Chất lượng công vụ chưa cao,
tham mưu chính sách còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút phẩm chất,
quan liêu, cửa quyền, vô cảm, nhũng nhiễu... Ở không ít nơi, kỷ luật, kỷ cương
chưa nghiêm thậm chí buông lỏng. Những bất cập trong bố trí, sử dụng, đánh giá
đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật chậm được khắc phục.
Sự thống nhất quản lý hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật được
bảo đảm. Các nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân được triển khai thực hiện đồng bộ. Thủ tướng Chính phủ và các
Thành viên Chính phủ dành nhiều thời gian làm việc với bộ,
cơ quan, địa phương, cơ sở để kiểm tra, đôn đốc thực hiện chủ trương, chính
sách, nhiệm vụ, kế hoạch đã đề ra, đặc biệt quan tâm tháo gỡ khó khăn, giải quyết
các kiến nghị của địa phương5.
Tuy nhiên hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy hành chính vẫn còn hạn chế. Nhiều cơ chế, chính sách được ban hành,
nhưng việc tổ chức triển khai thực hiện chậm, nhất là những
cơ chế chính sách mới liên quan tới tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Chỉ đạo, điều hành ở các ngành, các cấp nhìn chung còn nặng
về các giải pháp tình thế, chưa thật gắn kết với việc thực
hiện các nhiệm vụ chiến lược, dài hạn.
Trong thời gian tới cần khẩn trương
ban hành các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ các Bộ, các Nghị định quy định về
cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp nhằm phát
huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương; đồng thời bảo đảm sự quản
lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Tập trung xây dựng và ban hành văn
bản quy định chi tiết Luật Cán bộ, công chức, Tiếp tục thực hiện thí điểm đưa đội
ngũ trí thức trẻ về làm cán bộ ở những địa bàn khó khăn. Đẩy
nhanh tiến độ xây dựng Đề án tinh giản biên chế trình Ban
Bí thư và các Đề án về chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và chính
sách đối với cán bộ về công tác tại địa bàn khó khăn.
3. Về công tác xây dựng thể chế;
xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong
công tác xây dựng thể chế. Đã chỉ đạo thực hiện việc tổng kết thi hành và tổ chức
lấy ý kiến nhân dân và toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước về dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992; báo cáo, đề xuất với Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp6, Xây dựng, trình Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và 14 dự án luật,
pháp lệnh (tăng 3 dự án so cùng kỳ, đạt 63,6% chương trình
chính thức năm 2013). Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 69 nghị định, 40
quyết định quy phạm pháp luật (tăng 14 nghị định, 12 quyết
định quy phạm pháp luật so cùng kỳ năm trước). Các dự án luật, pháp lệnh, nghị định,
quyết định quy phạm pháp luật được chuẩn bị đúng trình tự,
thủ tục và cơ bản bảo đảm tiến độ. So với 6 tháng đầu năm các năm trước, tình trạng xin rút, lùi tiến
độ đã được khắc phục một bước.
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo nâng
cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật;
các cơ quan chủ trì soạn thảo chú trọng hơn khâu đánh giá hiệu quả tác động của
chính sách và tiếp thu ý kiến của các cơ quan, đoàn thể, hiệp hội, doanh nghiệp
và nhân dân. Đã kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bãi bỏ, thay
thế những quy định thiếu tính khả thi,
chưa phù hợp, từng gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Tuy nhiên một số dự án luật, pháp lệnh
chuẩn bị không đảm bảo tiến độ, ảnh hưởng đến chương trình công tác của Quốc hội,
Chính phủ. Chất lượng một số dự án, dự thảo chưa đạt yêu cầu. Việc xây dựng và
ban hành văn bản quy định chi tiết các luật đã có hiệu lực còn rất chậm. Trong
6 tháng đầu năm, cần phải ban hành 132 văn bản quy định chi tiết thi hành đối với
29 luật, pháp lệnh. Tuy nhiên đến ngày 30/6 mới ban hành được 19 văn bản, còn nợ
56 văn bản quy định chi tiết của 23 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực và chưa ban
hành kịp thời 57 văn bản quy định chi tiết của Luật xử lý vi phạm hành chính có
hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2013.
Những hạn chế trên có một phần do nhiệm
vụ xây dựng thể chế đặt ra rất nặng nề; số lượng các văn bản quy định chi tiết,
nhất là đối với Luật xử lý vi phạm hành chính nhiều (ngoài chương trình chính
thức Quốc hội đã thông qua, phải bổ sung 10 dự án luật, pháp lệnh vào chương trình năm 2013). Mặt khác, chất lượng đội ngũ công chức
làm công tác xây dựng thể chế còn bất cập, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn;
công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác động của chính sách chưa thực sự
thu hút được sự quan tâm của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhân dân, nhất
là những đối tượng chịu sự tác động của chính sách.
Trong thời gian tới, cần tập trung đẩy
nhanh tiến độ, nâng chất lượng xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật. Tiếp tục tổ chức và nâng cao hiệu quả các phiên họp chuyên đề về
pháp luật. Đối với các văn bản có yêu cầu cấp bách cần áp
dụng thủ tục rút gọn trong xây dựng và trình ban hành. Nâng cao vai trò, trách
nhiệm của Bộ Tư pháp trong đôn đốc, kiểm tra, theo dõi tình hình xây dựng thể
chế và thẩm định, thẩm tra văn bản. Tăng cường phối hợp giữa
cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan liên quan trong suốt quá trình nghiên cứu,
soạn thảo, thông qua các dự án, văn bản quy phạm pháp luật.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã
dành nhiều thời gian chỉ đạo công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển.
Đến nay, hầu hết các ngành, lĩnh vực, các địa phương trên
cả nước, các vùng kinh tế trọng điểm đều đã có chiến lược, quy hoạch phát triển.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng quy hoạch manh mún, chồng chéo, thiếu liên kết,
thiếu đồng bộ; không ít quy hoạch còn nặng về hình thức, chất lượng thấp, thiếu
nguồn lực thực hiện. Việc tổ chức thực hiện quy hoạch, quản lý quy hoạch chưa
triệt để, còn có nơi tùy tiện, buông lỏng, không bám sát nội
dung đã phê duyệt. Nguồn lực thực hiện quy hoạch, kế hoạch hạn chế, chủ yếu dựa
vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được sự tham gia của các nguồn lực xã hội.
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo cần đề
cao hơn nữa vai trò trách nhiệm của người đứng đầu các cấp trong việc xây dựng,
thẩm định, tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, quy hoạch. Rà soát, điều chỉnh
các chiến lược, quy hoạch bảo đảm phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội cả nước, bảo đảm tính đồng bộ giữa hiệu quả trước mắt với hiệu
quả lâu dài.
4. Về cải cách hành chính, tăng
cường kỷ cương, kỷ luật hành chính
Ngay từ đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương tập trung thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, xây dựng kế
hoạch cải cách hành chính cho cả giai đoạn và năm 2013; kiện toàn công tác kiểm
soát thủ tục hành chính, đẩy mạnh việc thực thi các phương án đơn giản hóa
thủ tục hành chính, giấy tờ công dân.
Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo nâng
cao kỷ cương, kỷ luật hành chính, đặc biệt là trong kiểm tra, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ, công việc đã giao. Đối với các
cơ chế, chính sách quan trọng, Chính phủ phân công các
Thành viên Chính phủ trực tiếp kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện,
tháo gỡ vướng mắc. Các Thành viên Chính phủ đã dành thời gian nắm bắt và chỉ đạo
tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho địa phương, cơ sở, kết hợp
đôn đốc, kiểm tra thực hiện các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực ngành mình.
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng quy định và triển khai phần mềm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, cập nhật và cung cấp thông tin liên quan đến tình hình thực hiện những công việc, nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao cho các bộ, cơ quan, địa phương. Nhiều bộ, cơ quan, địa phương
cũng đã triển khai quy định này.
Tuy nhiên, công tác cải cách hành
chính chuyển biến còn chậm, hiệu quả chưa cao, không ít hoạt động còn hình thức.
Kế hoạch cải cách hành chính của một số bộ, cơ quan, địa phương chậm ban hành
nên khó khăn trong việc tổ chức triển khai. Kỷ cương, kỷ luật hành chính, chấp
hành sự chỉ đạo, điều hành không ít nơi chưa nghiêm. Còn nhiều công việc nêu
trong các Chương trình hành động, Nghị quyết của Chính phủ, các Quyết định, Chỉ
thị, văn bản chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ
không được triển khai đúng tiến độ yêu cầu7. Việc
hướng dẫn thực hiện chủ trương, chính sách đã được đề ra trong các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về tháo gỡ vướng mắc khó khăn cho sản
xuất, kinh doanh và thực hiện tái cơ cấu còn chậm. Công tác kiểm tra, đôn đốc
thực hiện của một số bộ, cơ quan chưa được quan tâm đúng mức, làm giảm hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và cả hệ thống
hành chính nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo trong
thời gian tới cần khẩn trương ban hành Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính; các ngành, các cấp cần sát sao hơn nữa trong đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ đã giao. Thường xuyên chỉ đạo
kiểm điểm tình hình, kết quả triển khai thực hiện chương trình công tác và các
nhiệm vụ, công việc, trên cơ sở đó, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các
cơ quan, của người đứng đầu, xử lý nghiêm minh những trường
hợp coi nhẹ, buông lỏng kỷ cương, kỷ luật hành chính.
5. Về phối hợp
công tác với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
Chính phủ phối hợp chặt chẽ với Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, xã hội. Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức
các cuộc họp liên tịch với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Cựu chiến binh và một số tổ chức
xã hội nghề nghiệp nhằm đánh giá kết quả công tác phối hợp,
giải quyết các kiến nghị đồng thời đề ra phương hướng, giải pháp tăng cường,
nâng cao hiệu quả công tác trong thời gian tới.
Các Bộ, cơ quan của Chính phủ đã phối
hợp xử lý nhiều kiến nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp công tác trong quản lý nhà nước, tuyên truyền vận động nhân dân thực
hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chính phủ đã chỉ đạo tăng
cường tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến tham gia, đóng góp, phản biện xã hội
của các tầng lớp nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể về
các chủ trương, chính sách mới cũng như việc tổ chức thực hiện và có điều chỉnh
phù hợp với tình hình thực tế.
Chính phủ cũng tăng cường phối hợp
công tác với các cơ quan tư pháp, thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp công
tác với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao theo quy định.
Chính phủ trân trọng đề nghị Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, các cơ quan tư pháp tiếp tục
phối hợp chặt chẽ cùng Chính phủ và các cấp chính quyền tăng cường giám sát, động
viên nhân dân tích cực tham gia thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước tạo
chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác để quyết tâm hoàn
thành thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2013, góp phần thực hiện thành công Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.
6. Về việc thực hiện Quy chế
làm việc của Chính phủ
Chính phủ đã bám sát sự chỉ đạo của
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
cụ thể hóa thành các chương trình hành động của Chính phủ.
Ngay từ đầu năm, Chính phủ đã xây dựng chương trình công
tác với 699 đề án (tăng 79 đề án so với năm trước), trong đó có nhiều đề án về
cơ chế chính sách trung và dài hạn, thực hiện mục tiêu tái
cơ cấu nền kinh tế, triển khai các khâu đột phá chiến lược. Chương trình công
tác năm thể hiện chi tiết đến từng bộ, cơ quan. Tiến độ thực hiện được cụ thể
đến từng tháng, từng quý, có phân công cụ thể từ Lãnh đạo Chính
phủ, Thành viên Chính phủ tới từng chuyên viên theo dõi xử lý tại Văn phòng
Chính phủ. Qua đó đã giúp cho các cơ quan chủ động chuẩn bị đề án, tạo thuận lợi
cho việc theo dõi, đôn đốc thực hiện.
Hàng tháng, các bộ, cơ quan đều tiến hành rà soát, đánh giá thực hiện chương trình công tác
tạo chuyển biến khá rõ nét. Số đề án đã trình Chính phủ
tăng gấp 1,4 lần so với cùng kỳ năm trước. Các đề án lớn,
quan trọng trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) và trình Quốc hội cơ bản được chuẩn bị đúng tiến độ, nhiều đề án được
đánh giá có chất lượng tốt. Nhiều đề án trong chương trình công tác sau khi được
ban hành có tác động tích cực đối với đời sống, xã hội.
Tuy nhiên tiến độ thực hiện Chương
trình công tác vẫn chưa được bảo đảm. Theo chương trình 6 tháng, các bộ, cơ
quan phải trình 485 đề án, báo cáo (trong đó có 421 đề án công bố từ đầu năm và
64 đề án bổ sung) nhưng đến ngày 30/6, các bộ, cơ quan mới trình 257 đề án, đạt
64,2%; trong đó chỉ có 81 đề án đã được ban hành, đạt tỷ lệ 33,4% số đề án đã
trình. Trong quá trình chuẩn bị, nhiều đề án phải điều chỉnh
tiến độ, nhiều đề án đưa ra khỏi chương trình, nhiều đề án phát sinh ngoài
chương trình.
Các Thành viên Chính phủ tham gia khá
đầy đủ các phiên họp Chính phủ và giải quyết công việc chung của tập thể Chính
phủ. Việc phối hợp công tác, trao đổi thông tin giữa các Thành viên Chính phủ
được tăng cường. Nhiều nhiệm vụ, công việc liên ngành được
triển khai đạt kết quả hơn, từng bước hạn chế tình trạng né tránh giữa các cơ
quan ngang cấp hoặc đẩy trách nhiệm lên cấp trên. Mặc dù vậy, trong một số trường
hợp quan hệ phối hợp còn thiếu chủ động, việc tham gia ý kiến chưa đúng thời hạn
quy định, nội dung còn chung chung, chưa rõ ràng.
Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo các
ngành, các cấp chủ động hơn trong thông tin kịp thời, đầy đủ về chủ trương,
chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành. Các Thành viên Chính phủ đã chủ động
hơn trong việc chỉ đạo và trực tiếp tham gia công tác thông tin về những vấn đề
được dư luận quan tâm thuộc lĩnh vực của bộ, ngành mình. Cổng Thông tin điện tử
Chính phủ, Cổng Thông tin điện tử của các bộ, ngành, địa phương và hệ thống cơ
quan báo chí đã góp phần tích cực trong việc định hướng dư luận, tạo đồng thuận
xã hội. Trong 6 tháng, đã thực hiện 22 chương trình "Dân hỏi - Bộ trưởng
trả lời", 11 cuộc đối thoại, tọa đàm trực tuyến với sự
tham gia của lãnh đạo bộ, ngành, địa phương. Đã tổ chức nhiều hình thức Hội thảo,
tọa đàm khoa học,... lấy ý kiến góp ý xây dựng của các chuyên gia, doanh nghiệp
đối với các chủ trương, chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành vĩ mô để có sự
xem xét, điều chỉnh phù hợp.
Chế độ báo cáo phục vụ sự chỉ đạo, điều
hành được các cấp, các ngành thực hiện cơ bản đầy đủ theo quy định. Đã kết nối
vận hành mạng thông tin hành chính điện tử từ Văn phòng Chính phủ đến bộ, cơ
quan, Hội đồng nhân dân, UBND các tỉnh, các Tập đoàn, Tổng Công ty 90, 91. Việc
gửi, nhận văn bản điện tử được thực hiện đã góp phần cải tiến phương thức làm
việc. Các bộ, UBND tỉnh, thành phố có thể theo dõi tiến độ hồ sơ, đề án trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ tiếp tục đổi mới việc tổ chức
họp, hội nghị đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành, phù hợp
Quy chế làm việc của Chính phủ. Các cuộc họp, làm việc của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và các Thành viên Chính phủ được chuẩn bị chu đáo, có chất lượng hơn8. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường các
hội nghị trực tuyến đã tiết kiệm được
thời gian, kinh phí, tăng được thời lượng trao đổi thảo luận, mở rộng thành phần dự họp và ban hành Nghị quyết, Kết luận kịp thời.
7. Một số vấn đề cần tập trung
chỉ đạo trong 6 tháng cuối năm
Trong sáu tháng đầu năm, trong điều
kiện còn nhiều khó khăn, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành bộ máy hành
chính nỗ lực, kiên trì thực hiện mục tiêu đã đề ra và đạt được kết quả tích cực,
đúng hướng trên tất cả các lĩnh vực, vừa giải quyết các vấn đề trước mắt vừa chủ
động triển khai thực hiện các nhiệm vụ trung và dài hạn. Chính phủ cũng thẳng thắn
nhìn nhận những hạn chế trong công tác chỉ đạo, điều hành như nêu
trên đây để tập trung khắc phục trong thời gian tới.
Trong 6 tháng cuối năm các ngành, các
cấp cần tiếp tục nỗ lực nâng cao hiệu lực hiệu quả chỉ đạo, điều hành, phấn đấu
khắc phục tồn tại, yếu kém hoàn thành mục tiêu kế hoạch mà các Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội, Chính phủ đã đề ra:
1. Tiếp tục tập trung chỉ đạo tổ chức
thực hiện các cơ chế, chính sách, giải pháp Chính phủ đã đề ra trong Nghị quyết
số 01/NQ-CP , số 02/NQ-CP , Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ với
quyết tâm cao. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc và đối thoại trực tiếp với các địa
phương, với doanh nghiệp. Bám sát thực tiễn, nắm bắt biến động của tình hình;
chú trọng phân tích, đánh giá tác động của các chính sách; kịp thời đề xuất các
giải pháp chỉ đạo, điều hành linh hoạt, vừa tập trung tháo gỡ khó khăn trong sản
xuất kinh doanh vừa bảo đảm mục tiêu tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng.
2. Khẩn trương xây dựng Chương trình
hành động, Kế hoạch thực hiện các Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương, các Nghị quyết kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII. Tập trung chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh theo đúng tiến độ đảm
bảo chất lượng; khẩn trương ban hành các văn bản quy định chi tiết các luật,
pháp lệnh đã có hiệu lực thi hành, nhất là Luật Xử lý vi phạm hành chính, hạn
chế tình trạng nợ đọng.
3. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp cần trực tiếp chỉ đạo tăng cường chủ
động cung cấp thông tin chính thức đầy đủ, kịp thời để định hướng dư luận. Các
cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, xử lý việc thông tin tuyên truyền sai sự
thật, xuyên tạc tình hình đất nước, gây phương hại đến uy tín của cơ quan, tổ
chức, cá nhân và lợi ích của nhân dân.
4. Đẩy mạnh cải
cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính. Tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành và xử lý công việc hành chính.
Chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật hành chính. Tăng cường thanh tra công vụ, xử lý
công chức nhũng nhiễu, vô cảm, tiêu cực; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí và phòng, chống tham nhũng.
5. Nâng cao hiệu quả phối hợp công tác
giữa Chính phủ, UBND các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của
toàn xã hội trong phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, đối
ngoại.
Chính phủ trân trọng đề nghị các cơ
quan của Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các địa phương, các phương tiện
thông tin đại chúng và nhân dân tiếp tục ủng hộ phối hợp đồng thời tăng cường
giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương
theo luật định để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, thúc đẩy các mặt công tác
trên mọi lĩnh vực, hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề
ra./.
1
Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
2
Cùng kỳ năm 2012 là 10.018 văn bản
3
Một Phó Thủ tướng, 3 Bộ trưởng trả lời chất
vấn trực tiếp, 7 thành viên Chính phủ trực tiếp giải trình; một Phó Thủ tướng
báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất
vấn của Đại biểu Quốc hội. Đến ngày 30/6, các thành viên
Chính phủ đã trả lời 180/192 phiếu chất vấn của 89 đại biểu Quốc hội.
4
Trong 6 tháng đã ban hành 5 Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
5 Bộ: Tư pháp, Quốc phòng, Tài nguyên và Môi trường, Khoa học và
Công nghệ, Ngoại giao
5
Trong 6 tháng, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng
đã có 36 cuộc làm việc trực tiếp, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, tháo gỡ khó khăn và giải quyết hơn 350 kiến nghị của địa phương.
6
30/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, 63/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đã tổ chức 28.014 hội thảo, hội nghị, tiếp nhận khoảng 18 triệu
lượt ý kiến góp ý của tập thể, cá nhân.
7 Qua theo dõi 1.221 văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao cho các bộ, ngành, địa phương (cập nhật trên phần mềm): Có tổng số 1.873 nhiệm vụ, công việc cụ thể; trong đó 336 nhiệm
vụ, công việc triển khai đúng hạn (156 nhiệm vụ, công việc
đã hoàn thành); 38 nhiệm vụ, công việc đang triển khai
nhưng quá hạn; 1.298 nhiệm vụ, công việc chưa triển khai nhưng còn thời hạn;
198 nhiệm vụ công việc đã quá hạn nhưng chưa triển khai.
8
6 tháng, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng chủ trì 300 cuộc họp, hội nghị, trong đó
có 6 phiên họp Chính phủ thường kỳ, 2 phiên họp chuyên đề, 15 cuộc họp trực tuyến.