ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
231/BC-UBND
|
Quảng
Bình, ngày 03 tháng 11 năm 2016
|
BÁO CÁO
TỔNG
KẾT 10 NĂM THI HÀNH LUẬT ĐIỆN ẢNH
Thực hiện công văn số
4031/BVHTTDL-ĐA ngày 07 tháng 10 năm 2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
về việc “Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Điện ảnh”, UBND tỉnh Quảng Bình
báo cáo như sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT
ĐIỆN ẢNH 2006 - 2016
1. Công tác phổ biến, quán
triệt, triển khai Luật Điện ảnh
Điện ảnh Việt Nam gắn với vận
mệnh của dân tộc, vừa là nhân chứng trên mỗi chặng đường lịch sử, vừa là người
bạn đồng hành của nhân dân. Cùng với tính chất tiên tiến, điện ảnh Việt Nam
cũng mang bản sắc dân tộc trong nhiều tác phẩm điện ảnh, thể hiện đậm nét những
đặc điểm nổi bật, bản chất của con người và xã hội Việt Nam bằng những hình
tượng, thủ pháp và ngôn ngữ điện ảnh phù hợp với tâm hồn và tình cảm người Việt
Nam.
Luật Điện ảnh được ban hành đã
tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, rộng rãi, rõ ràng và minh bạch hơn, tạo
cơ chế phát triển điện ảnh, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước,
đẩy mạnh nền kinh tế xã hội phát triển, hội nhập được xu thế phát triển của thế
giới.
Nhiều doanh nghiệp sản xuất phim
có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập, đầu tư nước ngoài tăng lên kéo theo sự
gia tăng của cơ hội việc làm cho người lao động, đồng thời cũng là động lực
thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho những người hoạt động trong
lĩnh vực điện ảnh.
Sản xuất phim được tiếp cận với
công nghệ làm phim mới tạo nên những tác phẩm điện ảnh vừa có tính nghệ thuật
vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Người thụ hưởng được thưởng thức những tác
phẩm hay của những nền văn hóa đa dạng hơn mà chi phí lại không tăng.
Sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Điện ảnh phù hợp với thực tế có tác động cải thiện
mạnh mẽ đến pháp luật về điện ảnh nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung,
nâng cao được sự ổn định và chất lượng của pháp luật về điện ảnh, tránh được sự
chồng chéo, dễ thực hiện, dễ dàng đi vào đời sống xã hội, hạn chế các hành vi
vi phạm trong hoạt động điện ảnh, đồng thời nâng cao được hiệu quả, hiệu lực
quản lý của Nhà nước.
10 năm qua, trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình nội dung của Luật Điện ảnh và các văn bản liên quan được triển khai,
hướng dẫn đầy đủ và kịp thời đến toàn thể tổ chức, cá nhân trong tỉnh, tạo điều
kiện thuận lợi và thúc đẩy điện ảnh phát triển.
2. Công tác soạn thảo, ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến
sự nghiệp phát triển văn hóa, trong đó có điện ảnh. Đã có những chủ trương lớn
của Đảng về việc này như Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII ngày 16/7/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008
của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong
thời kỳ mới”; Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020…
Cho đến thời điểm hiện tại, điện
ảnh là ngành nghệ thuật được quan tâm xây dựng hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ
nhất: Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11 năm 2006 có hiệu lực từ ngày 1/1/2007; Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12 có hiệu lực từ
ngày 01/10/2009; gần đây nhất là Nghị định số 54/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
Luật Điện ảnh và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh có hiệu
lực từ ngày 01/7/2010.
3. Thực hiện chính sách phát
triển điện ảnh
Nghị quyết TW5 Khóa 8 về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn bó
chặt chẽ với điện ảnh Việt Nam. Trong 10 năm qua, chính sách đầu tư xây dựng
nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hiện đại hóa công
nghiệp điện ảnh, nâng cao chất lượng phim, phát triển quy mô sản xuất và phổ
biến phim, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân dân, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước. Chính
vì vậy Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh
theo quy định của pháp luật; bảo đảm để các cơ sở điện ảnh được bình đẳng trong
hoạt động, được hưởng các chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế và đất đai.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, việc
để dành quỹ đất để xây dựng rạp chiếu phim được quan tâm trong quy hoạch đô
thị. Các đội chiếu bóng lưu động hoạt động thường xuyên theo đúng kế hoạch hằng
năm phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, nông thôn, thiếu nhi, lực
lượng vũ trang nhân dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội.
4. Đánh giá việc xây dựng các
quy định của Luật Điện ảnh, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh
4.1. Các Quy định về Cơ sở điện
ảnh (từ Điều 12 đến Điều 17 Luật Điện ảnh năm 2006)
Các quy định về Cơ sở điện ảnh đã
tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam trong hội
nhập, khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào điện ảnh tại Việt
Nam; thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc hội nhập quốc tế với các chuẩn
mực chung, phù hợp. Với cơ chế pháp luật rõ ràng, mang tính quốc tế, đảm bảo
cho hoạt động điện ảnh hòa nhập với xu hướng phát triển chung của quốc tế nhưng
vẫn giữ chủ quyền quốc gia, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
4.2. Các quy định về Sản xuất
phim, Phát hành phim, Phổ biến phim (Từ điều 18 đến Điều 44 Luật Điện ảnh)
Việc cho phép các tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền hợp tác đầu tư trong
lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim và phổ biến phim đã đáp ứng được xu thế
phát triển điện ảnh trong nước cũng như trên thế giới, có tác động mạnh mẽ đến
đời sống xã hội và giao lưu quốc tế. Tác phẩm điện ảnh có tính đại chúng, có
sức hút đông đảo khán giả và có thể phổ biến trên toàn quốc. Đặc biệt tác phẩm
điện ảnh là một sản phẩm nghệ thuật có tác động sâu đến tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, lối sống của công chúng trong xã hội, còn đem lại những lợi ích kinh tế
không nhỏ góp phần trong việc phát triển kinh tế-xã hội.
Sửa đổi điều, khoản về xuất khẩu
phim và nhập khẩu phim: cụ thể bãi bỏ hạn ngạch, không hạn chế về số lượng đối
với phim nhập khẩu. Vấn đề này khi được thông qua đảm bảo cho các quy định của
pháp luật phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, đồng thời tạo nên
sự phong phú, đa dạng về chủng loại phim và tăng số lượng phim nhập khẩu.
Sửa đổi điều, khoản về đấu thầu
phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước: trên thực tế quy định như Luật Điện
ảnh hiện hành việc sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước bị cắt khúc
và không đảm bảo được tính thống nhất, thực tế hoạt động cho thấy quy định về
đấu thầu phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước không phù hợp thực tế. Vì vậy
việc sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước đang gặp khó khăn. Khi Luật sửa
đổi được thông qua sẽ tạo một cơ chế pháp lý rõ ràng, minh bạch phù hợp với xu
thế phát triển điện ảnh trên thế giới và với thực tế tại Việt Nam. Với 3 hình
thức: đấu thầu trên cơ sở kịch bản đã được Hội đồng tư vấn lựa chọn, đấu thầu
theo dự án (bao gồm tất cả các khâu từ kịch bản đến khi hoàn thành một bộ phim)
và chỉ định thầu, chủ đầu tư các dự án làm phim sẽ chọn được những nhà sản xuất
phim có năng lực đảm bảo được lợi ích về sáng tạo nghệ thuật và hiệu quả kinh
tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để nâng chất lượng và giảm giá thành
phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường.
Bổ sung thêm việc cho phép một số
đài phát thanh - truyền hình được công nhận là cơ quan báo chí được tham gia
sản xuất phim, phổ biến phim và xuất nhập khẩu phim nhằm mục đích xác định
trách nhiệm của Tổng giám đốc đài phát thanh - truyền hình trong hoạt động này.
Đây là quy định phù hợp với xu thế phát triển của truyền hình trong tương lai
và tình hình thực tế, tránh việc các đài phát thanh - truyền hình tồn tại như
một cơ quan báo chí nhưng hoạt động không tuân theo các quy định có liên quan
của Luật Điện ảnh.
4.3. Các quy định về Thanh tra
(Từ Điều 48 đến Điều 53 Luật Điện ảnh năm 2006)
Trước đây, quy định thanh tra điện
ảnh trực thuộc thanh tra Bộ như vậy không bao gồm thanh tra Sở do vậy không
phát huy được tác dụng của thanh tra trong việc thanh tra chấp hành các quy
định của Luật Điện ảnh, tạo kẽ hở cho các hành vi vi phạm về hoạt động điện ảnh
mà không bị xử lý. Vì vậy khi sửa đổi thanh tra điện ảnh là thanh tra chuyên
ngành về điện ảnh là phù hợp với Luật Thanh tra và nâng cao được hiệu lực của
thanh tra chuyên ngành các địa phương trong hoạt động thanh tra về lĩnh vực
điện ảnh.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả cơ bản đạt được
Sự ra đời của Luật Điện ảnh và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh phù hợp với thực tế có tác
động cải thiện mạnh mẽ đến pháp luật về điện ảnh nói riêng và hệ thống pháp
luật nói chung, nâng cao được sự ổn định và chất lượng của pháp luật về điện
ảnh, tránh được sự chồng chéo, dễ thực hiện, dễ dàng đi vào đời sống xã hội,
hạn chế các hành vi vi phạm trong hoạt động điện ảnh, đồng thời nâng cao được
hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Một số bộ phim do nhà nước đặt
hàng và tài trợ sản xuất về đề tài chiến tranh cách mạng, phản ánh quá khứ hào hùng của dân tộc đạt chất lượng nghề
nghiệp cao (Đừng đốt, Sinh mệnh, Mùi cỏ cháy, Những người viết huyền thoại…);
nhiều bộ phim thành công về nghệ thuật và có tính nhân văn, đạt giải tại các
Liên hoan phim trong nước và quốc tế (Đời cát, Mùa ổi, Bến không chồng, Thung
lũng hoang vắng, Mùa len trâu, Thời xa vắng, Trăng nơi đáy giếng, Chơi vơi…).
Đó là những tác phẩm ít nhiều mang phẩm chất “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”, tuy nhiên số lượng các tác phẩm có giá trị như vậy không nhiều, nhất là
trong vài năm gần đây, khi việc Nhà nước đặt hàng và tài trợ cho phim truyện
giảm sút, thậm chí có năm tạm ngưng vì nhiều lý do.
Chủ trương xã hội hóa hoạt động
điện ảnh được phát huy cao độ khiến diện mạo điện ảnh Việt Nam trong 10 năm qua
trở nên đa dạng, phong phú; thị trường điện ảnh phát triển mạnh. Theo thống kê
của Hiệp hội điện ảnh Mỹ (MPA) và công ty Megastar, doanh thu điện ảnh tại Việt
Nam năm 2000 là 2 triệu đôla, năm 2010 là 26 triệu, năm 2011 là 35 triệu, năm
2012 là 47 triệu, 2013 là trên 57 triệu.
Vị trí của các hãng phim tư nhân
ngày càng rõ rệt: Số lượng hãng phim tư nhân tăng vọt, đến hết tháng 6/2013 cả
nước có 252 hãng phim, trong đó 90% là hãng phim tư nhân. Phim tư nhân dần
chiếm tỉ lệ áp đảo trong tổng số phim Việt Nam phát hành ở rạp (từ chỗ mỗi năm
chỉ có 1-2 phim, đến nay phim tư nhân chiếm 80-90%) và thu hút lượng khán giả
lớn (có phim đông người xem hơn và đạt doanh thu cao hơn phim “bom tấn” của Mỹ chiếu cùng thời điểm, đạt đến 60 tỉ). Một số
phim tư nhân gần đây được đánh giá khá cao về tay nghề. Số lượng phim sản xuất
năm 2013 tăng mạnh (lên đến 26 phim so với 16 phim của năm 2011, 2012), trong
đó chủ yếu là phim tư nhân (chỉ có 2 phim của hãng phim nhà nước).
Các nhà làm phim trẻ xuất hiện dần
tạo nên dấu ấn của lớp đạo diễn thời hội nhập bên cạnh thế hệ đạo diễn thời kỳ
đổi mới. Các đạo diễn trẻ có những thử nghiệm đáng ghi nhận với các dòng phim
khác nhau: phim nghệ thuật, phim giải trí, phim độc lập…
Sự xuất hiện đồng thời và liên tục
của các đạo diễn Việt kiều đã làm cho điện ảnh VN có những mầu sắc mới. Trong
vài năm trở lại đây, phim của các đạo diễn Việt kiều chiếm tỉ lệ cao ở rạp,
nhiều phim thương mại doanh thu cao bên cạnh một số phim được đánh giá khá về
tay nghề, kỹ thuật, kỹ xảo.
Hệ thống văn bản pháp quy về điện
ảnh dần hoàn thiện: Luật Điện ảnh năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Điện ảnh năm 2009; Nghị định số 54/2010/NĐ-CP
của Chính Phủ năm 2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Điện ảnh và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện
ảnh. Các văn bản này tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điện ảnh, quy định
một số chính sách về sản xuất, phát hành phổ biến phim…
Chính phủ, Bộ VHTTDL quan tâm chỉ
đạo xây dựng Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
(đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt ngày 11/11/2013); Quy
hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vừa được Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ vào cuối tháng 12/2013. Điện
ảnh là ngành nghệ thuật đầu tiên xây dựng thành công Chiến lược và Quy hoạch.
2. Những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân
Cơ chế thị trường định hướng XHCN
ngoài một số mặt tích cực, năng động nhưng cũng có nhiều mặt trái, tác động
tiêu cực đến điện ảnh, đặc biệt xu hướng chạy theo lợi nhuận, sự “chụp giật”
làm nghiệp dư hóa hoạt động điện ảnh; trong khi một số nước trong khu vực xây
dựng nền công nghiệp điện ảnh một cách khá bài bản thì điện ảnh Việt Nam lại
thiếu đồng bộ, thiếu chuyên nghiệp; sự đầu tư ngày càng hạn chế của Nhà nước
vào sáng tác và sản xuất phim khiến cho phẩm chất “tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” của tác phẩm điện ảnh có sự phai nhạt trong những năm gần đây, cụ thể:
Lực lượng sáng tác trẻ chưa có sự
vững chắc về phong cách, có sự phân tâm trong sáng tác và chưa thực sự tâm
huyết do bị ảnh hưởng bới yếu tố thương mại.
Nhiều hãng phim tư nhân chạy theo
thị hiếu một bộ phận khán giả, sản xuất các phim giải trí dễ dãi với mục đích
thu lãi lớn. Phim câu khách rẻ tiền, ít có giá trị nhận thức, giáo dục hay thẩm
mỹ xuất hiện ngày càng nhiều; có phim lạm dụng yếu tố bạo lực, tình dục hoặc
xoáy sâu vào hiện tượng cá biệt, cái xấu, góc tối, “xã hội đen”, thậm chí kích
động bạo lực…
Những năm gần đây, trên thị trường
không có nhiều tác phẩm hướng đến chân thiện mỹ mà chủ yếu là các phim thương
mại chiếm lĩnh rạp chiếu dẫn đến thị hiếu khán giả có phần đi xuống. Khán giả,
nhất là khán giả trẻ chỉ thích xem các phim giải trí thậm chí phim “tầm phào”,
và thờ ơ với những phim truyền thống, phim có giá trị.
Trong thời đại bùng nổ thông tin,
các trang mạng xã hội, thậm chí cả báo chí truyền thông đặc biệt là báo mạng vì
mục đích “câu view” đã có những lúc phản ảnh thiếu khách quan, khi thì “tâng
bốc” quá đáng, khi thì suy diễn, chụp mũ các hiện tượng làm nhiễu loạn dư luận
và ảnh hưởng đến hoạt động điện ảnh.
Tại Quảng Bình rạp chiếu phim
trang thiết bị và cơ sở vật chất cũ, lạc hậu chỉ có thể chiếu phim nhựa trong
khi cả thế giới chuyển sang rạp kỹ thuật số. Nguồn phim hạn chế và bị động, phụ
thuộc, chủ yếu làm nhiệm vụ chiếu phim phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu vùng
xa do Cục Điện ảnh cung cấp và thực hiện các tuần phim, đợt phim kỷ niệm. Vì
vậy, khán giả đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới
hải đảo ít có điều kiện được thưởng thức các tác phẩm điện ảnh.
Luật Điện ảnh, Nghị định hướng dẫn
đã có từ nhiều năm, tuy nhiên, một số văn bản quan trọng chưa được ban hành do
chưa có sự đồng thuận của một số Bộ liên quan với Bộ VHTTDL (Ví dụ: Thông tư
liên Bộ VHTTDL- Tài chính hướng dẫn đấu thầu sản xuất phim có sử dụng ngân sách
nhà nước; Đề án Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh) nên định hướng của nhà nước
chưa phát huy được hết tác dụng, nhất là đối với các địa phương.
3. Kiến nghị, đề xuất
Hiện nay, Ngành điện ảnh đang đối
mặt với những khó khăn to lớn ở hầu hết các lĩnh vực. Một số chính sách dành
cho ngành điện ảnh không còn phù hợp và chưa được quan tâm thích đáng. Thị
trường sản xuất và phát hành phim khó định hướng. Cần có sự hỗ trợ nhiều hơn
của nhà nước để hỗ trợ định hướng sáng tác, sản xuất, phát hành và phổ biến
phim, xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống rạp đạt tiêu chuẩn, từ đó ngành có
thể xây dựng tác phẩm đạt chất lượng cao, có giá trị giáo dục tư tưởng và thẩm
mỹ cho công chúng, cụ thể:
1. Nhà nước cần có chính sách ưu
đãi về thuế và cơ chế đặc thù cho các cơ sở điện ảnh.
2. Nhà nước cần triển khai việc
mua toàn bộ hoặc một phần bản quyền của các tác phẩm có giá trị cao (theo Nghị
định 54) mà không phân biệt phim của hãng tư nhân hay hãng nhà nước.
3. Cần tìm đầu ra cho các bộ phim
tài liệu, phim hoạt hình được nhà nước đặt hàng.
4. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
cho điện ảnh đúng hướng
5. Yếu tố quan trọng nhất để củng
cố, xây dựng và phát triển điện ảnh là con người: người tài trong sáng tác;
người có chuyên môn, tay nghề công nghệ kỹ thuật; người có trình độ và kinh
nghiệm trong quản lý… Vì vậy, vấn đề quan trọng nhất cần quan tâm là đào
tạo và sử dụng con người.
Trên đây là Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành
Luật Điện ảnh, UBND tỉnh báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch./.
Nơi nhận:
- Bộ VH, TT&DL;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- Sở Văn hóa và Thể thao;
- LĐ VPUBND tỉnh;
- Lưu: VT, VX.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Tiến Dũng
|