CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 710/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 30
tháng 12 năm 2023
|
BÁO CÁO
VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)
Kính gửi: Ủy ban Thường
vụ Quốc hội
Chính phủ trân trọng cảm
ơn sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cá nhân đồng
chí Chủ tịch Quốc hội trong suốt quá trình xây dựng, thẩm tra, hoàn thiện dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi). Dự thảo Luật đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng mà
trọng tâm là Nghị quyết số 18-NQ/TW liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Luật
Đất đai (sửa đổi), phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo tính đồng bộ thống nhất trong
hệ thống pháp luật và thống nhất trong nội dung của Luật, giải quyết cơ bản các
vấn đề vướng mắc, tồn đọng đã được chỉ ra trong quá trình Tổng kết thi hành Luật
Đất đai năm 2013, tăng cường phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính,
đi đôi với việc kiểm tra, giám sát tạo thuận lợi cho các địa phương, người dân,
doanh nghiệp trong việc phát huy nguồn lực đất đai phục vụ phát triển kinh tế
xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, đủ điều kiện để trình Quốc hội thông
qua tại Kỳ họp gần nhất.
Thực hiện quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật trước
khi trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp gần nhất, trên cơ sở ý kiến Kết luận của
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tại Thông báo số 3298/TB-VPQH ngày 22/12/2023
của Văn phòng Quốc hội và Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023 của Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội, Chính phủ báo cáo, làm rõ và đề xuất chỉnh lý thêm một
số nội dung sau đây:
I. VỀ
Ý KIẾN ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT
1. Đối với các yêu cầu cho ý kiến tại các mục 1, 2 và 3 phần
I Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, gồm:
- Về ý kiến đối với nội
dung dự thảo Luật đã hoàn thiện, chỉnh lý theo kết luận tại Thông báo kết
luận số 3123/TB-TTKQH và Thông báo số 3298/TB-VPQH, như: (1) Giao Chính phủ quy
định chi tiết về các loại đất cần xác định chỉ tiêu tại quy hoạch sử dụng đất cấp
tỉnh và quy hoạch sử dụng đất cấp huyện; (2) Quy định điều khoản thi hành đối với
việc lập, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất các cấp được tiếp tục thực hiện theo
quy định của Nghị quyết số 61/2022/QH15; (3) Phương hướng xử lý, tháo gỡ cho
trường hợp nhận chuyển nhượng dự án bất động sản theo quy định của pháp luật về
kinh doanh bất động sản; (4) Quy định về thu hồi đất thực hiện dự án nhà ở
thương mại, dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại, dịch vụ; (5) Về các
loại đất thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử
dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất; (6) Về mối quan hệ giữa các trường hợp
thu hồi đất và thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng
đất thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội không sử dụng vốn ngân sách nhà
nước; (7) Về chức năng của Tổ chức phát triển quỹ đất.
- Về ý kiến cụ thể về nội
dung chỉnh sửa, bổ sung khác tại các điều 3, 6, 9, 16, 20, 28, 29, 30, 33, 35,
36, 37, 44, 45, 46, 47, 48, 51, 54, 55, 59, 60, 66, 72, 73, 74, 75, 76, 79, 83,
87, 90, 91, 95, 99, 101, 102, 105, 110, 111, 114, 116, 118, 119, 120, 122, 124,
125, 126, 129, 130, 133, 134, 135, 136, 137, 140, 141, 144, 148, 151, 152, 153,
155, 156, 157, 159, 160, 161, 162, 163, 164, 165, 166, 167, 169, 171, 172, 173,
174, 175, 178, 180, 181, 182, 184, 185, 186, 190, 194, 196, 199, 200, 202, 203,
204, 205, 206, 207, 208, 209, 210, 211, 213, 215, 217, 220, 222, 227, 233, 235,
239, 240, 243, 245, 251, 258. Rà soát toàn diện các điều, khoản trong dự thảo
Luật có quy định sử dụng thuật ngữ “nhà đầu tư”, “chủ đầu tư”, bảo đảm chính
xác.
- Về ý kiến cụ thể, hoàn
thiện từng điều, khoản tại Chương XVI dự thảo Luật. Trong đó: (1) Rà soát nội
dung chuyển tiếp đối với dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận
chủ trương đầu tư bằng văn bản hoặc lựa chọn chủ đầu tư theo quy định của pháp
luật về đầu tư trước ngày Luật này có hiệu lực; (2) Thiết kế lại quy định chuyển
tiếp đối với dự án đầu tư thuộc trường hợp thỏa thuận nhận chuyển quyền sử dụng
đất theo quy định của Luật Đất đai 2013, đang thực hiện thỏa thuận mà đến ngày
Luật này có hiệu lực thi hành chưa hoàn thành việc thỏa thuận; (3) Làm rõ sự cần
thiết và tính phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật Đất đai đối với nội dung
sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 14, Điều 20 của Luật Lâm nghiệp
tại Điều 256.
Chính phủ đã rà soát và
cơ bản thống nhất với phương án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thiết kế tại dự thảo
Luật gửi kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15-KT, đồng thời Chính phủ đã thống nhất
một số nội dung chỉnh lý, hoàn thiện cụ thể được thể hiện chi tiết trong dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi)[1]
để gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội kèm theo Báo cáo này.
2. Về
các nội dung đã hoàn thiện, chỉnh lý theo Thông báo kết luận số 3123/TB-TTKQH và
Thông báo số 3298/TB-VPQH
a) Về nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân không trực tiếp sản xuất nông
nghiệp (Khoản 7 Điều 45)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó cá nhân không
trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhận chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất
trồng lúa (trừ trường hợp tặng cho cho người thuộc hàng thừa kế) quá hạn mức
giao đất thì phải thành lập tổ chức kinh tế và có phương án sử dụng đất trồng
lúa và được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt,
b) Về nguyên tắc,
tiêu chí phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất trong nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp
huyện (điểm c Khoản 2 Điều 66)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó không quy định
tại dự thảo Luật cụ thể các loại chỉ tiêu sử dụng đất trong nội dung quy hoạch
sử dụng đất cấp huyện mà giao Chính phủ quy định trong văn bản hướng dẫn thi
hành Luật.
c) Về cấp Giấy chứng
nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng
đất mà không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp giao đất trái
thẩm quyền (Điều 138)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó quy định thời
điểm công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất,
không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không vi phạm pháp luật về đất đai,
không thuộc trường hợp giao đất trái thẩm quyền đến trước ngày 01 tháng 7 năm
2014.
d) Về việc ổn định
tiền thuê đất hàng năm (Khoản 2 Điều 153)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó tiền thuê đất
hằng năm được áp dụng ổn định cho chu kỳ 05 năm, trường hợp tiền thuê đất chu kỳ
sau tăng so với chu kỳ trước thì tiền thuê đất phải nộp được điều chỉnh nhưng
không quá tổng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của giai đoạn 05 năm trước đó và tỷ lệ
cụ thể do Chính phủ quy định.
đ) Về hoạt động lấn
biển (Điều 190)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó quy định tại
dự thảo Luật nguyên tắc nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có hoạt động lấn biển
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư thì được
giao khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển cùng với giao đất, cho thuê đất
để thực hiện dự án đầu tư và giao Chính phủ quy định chi tiết.
e) Về giải quyết việc
chưa thống nhất về địa giới đơn vị hành chính (Điều 49)
Chính phủ về cơ bản thống
nhất với dự thảo quy định tại Điều 49 đã hoàn thiện, chỉnh lý theo Thông báo kết
luận số 3132/TB-TTKQH ngày 21/11/2023 của Tổng Thư ký Quốc hội và Thông báo
3298/TB-VPQH ngày 22/12/2023 của Văn phòng Quốc hội. Đồng thời đề nghị chỉnh lý
khoản 4 và khoản 5 Điều 49 như sau:
“4. Trường hợp phạm vi
quản lý đất đai cấp tỉnh chưa xác định được do chưa xác định được địa giới đơn
vị hành chính thì Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và
các địa phương có liên quan lập hồ sơ báo cáo Chính phủ.
5. Trường hợp phạm vi
quản lý đất đai cấp huyện, cấp xã chưa xác định được do chưa xác định được địa
giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp
chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp dưới có liên quan phối hợp giải quyết; trong thời
gian chưa có quyết định về xác định địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp
xã thì Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp thực hiện các nội dung quản lý nhà nước
về đất đai đối với khu vực chưa thống nhất. Trường hợp không thống nhất được
phương án giải quyết thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập hồ sơ báo cáo Chính phủ”.
g) Về quyền và
nghĩa vụ về sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 4, điểm g
khoản 1 Điều 28)
Chính phủ thống nhất quy
định theo hướng người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam là
công dân Việt Nam thì được có đầy đủ các quyền liên quan đến đất đai như công
dân Việt Nam ở trong nước (cá nhân trong nước); đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài không có quốc tịch Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ như quy định tại
Luật Đất đai năm 2013. Đối với việc sử dụng thuật ngữ “Người Việt Nam định
cư ở nước ngoài mà không phải là công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật
về quốc tịch”, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị thống nhất sử dụng thuật
ngữ “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài” đã được quy định trong Luật
Quốc tịch Việt Nam[2]
như Chính phủ đã đề xuất tại Báo cáo số 598/BC-CP ngày 23/10/2023.
Bên cạnh đó, để kế thừa
quy định tại Luật Đất đai năm 2013 đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật,
Chính phủ đề nghị chỉnh lý điểm g khoản 1 Điều 28 như sau:
“g) Người gốc Việt Nam
định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam được mua, thuê mua nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở, nhận quyền sử dụng đất ở trong dự án phát triển
nhà ở; nhận thừa kế quyền sử dụng đất ở và các loại đất khác trong cùng thửa đất
có nhà ở theo quy định của pháp luật về dân sự; nhận tặng cho nhà ở gắn liền với
quyền sử dụng đất ở từ những người thuộc hàng thừa kế theo quy định của pháp luật
về dân sự”
h) Về phạm vi nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (điểm
c khoản 1 Điều 28)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó giữ nguyên
phạm vi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài như quy định tại dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, đối với
các dự án của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tính chất quan trọng,
trọng điểm, động lực trong việc thu hút đầu tư nước ngoài thuộc thẩm quyền quyết
định, chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ thì thuộc
trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại khoản 31 Điều 79.
i) Về quyền và
nghĩa vụ của đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê
đất hàng năm (Điều 34)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó đơn vị sự
nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm không được
quyền bán, quyền thế chấp tài sản gắn liền với đất thuê và quyền thuê trong hợp
đồng thuê và quyền góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất thuê.
k) Về nguyên tắc lập
và phê duyệt quy hoạch sử dụng đai các cấp (Khoản 9 Điều 60, khoản 2 Điều 262)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó quy định
nguyên tắc lập và phê duyệt quy hoạch theo Luật Quy hoạch, đồng thời bổ sung
quy định chuyển tiếp cho phép áp dụng Nghị quyết số 61/2022/QH15.
l) Về quy định
nguyên tắc tiêu chí phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh, chỉ tiêu sử dụng đất
cấp huyện (Khoản 9 Điều 76)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15 KT ngày 26/12/2023, theo đó giao Chính phủ
ban hành nguyên tắc, tiêu chí phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh, chỉ tiêu sử
dụng đất cấp huyện.
m) Về thu hồi đất để
thực hiện dự án nhà ở thương mại, dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại
dịch vụ (khoản 27 Điều 79)
Tại Nghị quyết 18-NQ/TW
đã chủ trương "Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua
đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất”. Việc đấu giá quyền
sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư là công cụ để Nhà nước quản lý đất
đai theo hướng công khai, minh bạch, đem lợi ích tốt nhất cho xã hội trong đó
có việc tăng thu ngân sách và lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất để thực hiện dự án.
Trên cơ sở kế thừa Luật Đất
đai 2013, thể chế hóa Nghị quyết 18-NQ/TW, ý kiến của Chủ tịch Quốc hội, Chính
phủ đề nghị chỉnh lý, hoàn thiện khoản 27 Điều 79 như sau:
“27. Thực hiện các dự
án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận phủ họp với quy hoạch nhằm tạo quỹ
đất do Nhà nước đầu tư để đấu giá quyền sử dụng đất hoặc để giao cho nhà đầu tư
trúng thầu dự án sử dụng đất, bao gồm: dự án đầu tư xây dựng khu đô thị; dự án
chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn”.
n) Về tổ chức phát
triển quỹ đất (Điều 115)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, đồng thời chỉnh lý kỹ
thuật nội dung khoản 1 Điều 115 như sau:
“2. Tổ chức phát triển
quỹ đất có chức năng:
a) Thực hiện thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật để tạo lập, quản lý,
khai thác quỹ đất theo dự án do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao;
b) Thực hiện bồi thường,
hỗ trợ; tái định cư đối với các dự án được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
giao nhiệm vụ;
c) Tổ chức đấu giá quyền
sử dụng đất;
d) Cho các Tổ chức, cá
nhân thuê ngắn hạn đối với đất thuộc quỹ đất chưa giao, cho thuê để thực hiện
các dự án đầu tư để khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả theo quy định của
Chính phủ;
đ) Tạo lập quỹ đất
nông nghiệp thông qua việc thuê, nhận ký gửi quyền sử dụng đất nông nghiệp để
cho thuê, cho thuê lại để sản xuất nông nghiệp;
e) Cung cấp các dịch vụ
công về đất đai;
g) Thực hiện các nhiệm
vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
o) Về mối quan hệ
giữa các trường hợp thu hồi đất và thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc
đang có quyền sử dụng đất thực hiện dự án phát triển kinh tế-xã hội không sử dụng
vốn ngân sách nhà nước (Khoản 6 Điều 127)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó ưu tiên người
đang có quyền sử dụng đất có đề xuất dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất có đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất mà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư thì được sử dụng đất để thực hiện dự án mà Nhà nước không
thực hiện thu hồi đất theo quy định tại Điều 79.
p) Về nội dung,
phương pháp định giá đất và điều kiện áp dụng của từng phương pháp (Điều 158)
Chính phủ thống nhất bổ
sung các nội dung cơ bản của các phương pháp định giá đất: so sánh, thặng dư,
thu nhập, hệ số điều chỉnh giá đất tại khoản 5 Điều 158; quy định cụ thể điều
kiện áp dụng của các phương pháp định giá đất tại khoản 6 Điều 158.
q) Về đối tượng được
sử dụng đất quốc phòng, an ninh, kết hợp với hoạt động tao động sản xuất, xây dựng
kinh tế (khoản 1 Điều 201)
Chính phủ đề nghị sửa đổi,
bổ sung điểm b khoản 1 Điều 201 như sau:
“b) Doanh nghiệp do Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an được giao quản lý (trong Điều này gọi là doanh nghiệp
quân đội, công an)”
r) Về quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công an khi sử dụng đất quốc phòng an ninh
kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (khoản 3 Điều 201)
Chính phủ đề nghị sửa đổi,
bổ sung điểm h khoản 3 Điều 201 như sau:
“h) Doanh nghiệp quân
đội, công an được cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất
theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt;
trường hợp chuyển những tài sản gắn liền với đất, xử lý tài sản thế chấp, tài sản
góp vốn thì chỉ được thực hiện trong nội bộ giữa các doanh nghiệp, đơn vị quân
đội, công an theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an
phê duyệt”.
s) Về trường hợp tổ
chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng dự án bất động sản (Điều
117,119,124)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó đối với trường
hợp chuyển nhượng dự án bất động sản khi nhà đầu tư chưa được cấp Giấy chứng nhận
thì không tiến hành thu hồi đất mà Nhà nước giao đất cho bên nhận chuyển nhượng
dự án bất động sản trên cơ sở quyết định cho phép chuyển nhượng dự án bất động
sản và hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động
sản.
t) Về dự án tạo quỹ
đất do Nhà nước đầu tư
Chính phủ thống nhất với
phương án 2 đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi
Chính phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15- KT ngày 26/12/2023, theo đó bỏ Điều
113 quy định về dự án tạo quỹ đất do Nhà nước đầu tư.
u) Về các loại đất
thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất
hoặc đang có quyền sử dụng đất (Điều 122,127)
Chính phủ thống nhất với
phương án đã thiết kế trong dự thảo Luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi Chính
phủ kèm theo Công văn số 718/UBTVQH15-KT ngày 26/12/2023, theo đó hạn chế loại
đất được thực hiện dự án nhà ở thương mại dịch vụ thông qua thỏa thuận nhận quyền
sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất đối với đất ở hoặc đất ở và đất khác
và đề nghị chỉnh lý điểm b khoản 1 Điều 127 như sau: “b) Đối với trường hợp
sử dụng đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại thì được thỏa thuận về nhận quyền
sử dụng đất ở hoặc đất ở và đất khác”.
v) Về sửa đổi Luật
Đầu tư công liên quan đến quy định tách nội dung bồi thường giải phóng mặt bằng,
hỗ trợ tái định cư thành dự án độc lập.
Chính phủ thống nhất
không sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công trong dự thảo Luật này, mà thực hiện cơ
chế thí điểm như chủ trương tại Nghị quyết số 18-NQ/TW “Tiếp tục thực hiện thí
điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra
khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước”, Theo đó, đề xuất trong Nghị quyết về
thi hành Luật Đất đai (sửa đổi) sẽ giao Chính phủ quy định việc thí điểm tách dự
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành dự án độc lập để tổ chức thực hiện và
sau khi có đánh giá, tổng kết thì sửa đổi Luật Đầu tư công.
x) Quỹ phát triển đất
(Điều 114)
Chính phủ đề nghị giữ
nguyên các quy định về Quỹ phát triển đất, giữ lại điều sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Ngân sách nhà nước tại dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được
Chính phủ trình tại Báo cáo số 598/BC-CP gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
3.
Về một số nội dung đề nghị Chính phủ bổ sung, làm rõ và thiết kế quy định cụ thể
a) Về đối tượng được
sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng
kinh tế (điểm b khoản 1 Điều 201)
Về cơ sở chính trị, tại Kết
luận số 59-KL/TW ngày 16/9/2019, Bộ Chính trị đã thống nhất chủ trương “Các
doanh nghiệp quân đội trực tiếp làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, các đơn vị,
các tập đoàn kinh tế - quốc phòng được phép sử dụng đất quốc phòng vào nhiệm vụ
lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng”
và “Đồng ý về chủ trương sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, trong đó bổ sung quy định
đất quốc phòng sử dụng vào hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội…”
Như vậy, việc quy định về
doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh sử dụng đất quốc phòng, an
ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp quân đội, công an đối với tài sản gắn liền với đất khi sử dụng
đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh
tế là thể chế hóa chủ trương của Bộ Chính trị tại Kết luận số 59-KL/TW ngày
16/9/2019.
Về pháp lý, quy định đối
tượng Doanh nghiệp quân đội, công an gồm doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân trực tiếp làm nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng, an ninh hoặc doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng,
an ninh do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng
bộ với quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp[3].
Về thực tiễn, hiện nay Bộ
Quốc phòng và Bộ Công an đang được giao quản lý doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
và doanh nghiệp trên 50% vốn nhà nước; căn cứ vào tính chất, yêu cầu của nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng, an ninh và nguồn vốn nhà nước bố trí trong từng giai đoạn,
cả 02 loại hình doanh nghiệp này đều được giao thực hiện 01 hoặc nhiều nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng, an ninh khác nhau. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng, an ninh cả 02 loại hình doanh nghiệp này đều được giao quản lý,
sử dụng đất quốc phòng, an ninh. Do đó, nếu không quy định đầy đủ đối tượng sẽ
dẫn đến không đảm bảo nguồn lực để các doanh nghiệp trên hoàn thành các nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng, an ninh được giao.
Tiếp thu ý kiến của đồng
chí Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, trên cơ sở ý kiến tại buổi họp
ngày 26/12/2023, ý kiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, điểm
b khoản 1 Điều 201 được chỉnh lý như sau: “b) Doanh nghiệp nhà nước do Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an được giao quản lý”.
b) Về quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công an khi sử dụng đất quốc phòng, an ninh
kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (điểm h khoản 3 Điều
201)
Về cơ sở chính trị, tại Kết
luận số 59-KL/TW ngày 16/9/2019, Bộ Chính trị đã thống nhất chủ trương “Các
doanh nghiệp quân đội trực tiếp làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, các đơn vị,
các tập đoàn kinh tế - quốc phòng được phép sử dụng đất quốc phòng vào nhiệm vụ
lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Bộ
Quốc phòng chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện trước Bộ Chính trị, Quốc hội,
Chính phủ trong quản lý đất quốc phòng, không để lãng phí, tiêu cực. Thực hiện
nghiêm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng đã được phê duyệt, rà soát,
phân loại đất quốc phòng để quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích, hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và tham gia phát triển kinh tế -
xã hội” và “Đồng ý về chủ trương sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, trong đó
bổ sung quy định đất quốc phòng sử dụng vào hoạt động lao động sản xuất, xây dựng
kinh tế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội...”.
Như vậy, việc quy định
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công an đối với tài sản gắn liền với
đất khi sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất,
xây dựng kinh tế, trong đó chỉ cho phép thực hiện chuyển giao tài sản gắn liền
với đất quốc phòng, an ninh trong nội bộ các công ty quốc phòng, công an là thể
chế hóa chủ trương của Bộ Chính trị tại Kết luận số 59-KL/TW ngày 16/9/2019.
Về pháp lý, Luật Doanh
nghiệp và Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp cho phép
doanh nghiệp nhà nước trong đó có doanh nghiệp quân đội, công an được phép thế
chấp, cho thuê, góp vốn bằng tài sản trên cơ sở được sự phê duyệt của cơ quan đại
diện chủ sở hữu (Bộ Quốc phòng, Bộ Công an). Do vậy để đảm bảo sự thống nhất của
hệ thống pháp luật, cần thiết phải có quy định về quyền này trong Luật Đất đai
(sửa đổi).
Khi thế chấp, góp vốn bằng
tài sản gắn liền với đất doanh nghiệp quân đội, công an phải Căn cứ vào nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng, an ninh được giao, phải xây dựng phương án trình Bộ trưởng
Bộ Quốc Phòng, Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, phê duyệt. Đồng thời, việc cho
phép này là “có mở, có khoanh” vì việc xử lý tài sản trên đất trong trường
hợp xử lý tài sản thế chấp, góp vốn chỉ được thực hiện trong nội bộ các doanh
nghiệp quân đội hoặc doanh nghiệp công an. Không được bán cho các doanh nghiệp
ngoài quân đội, công an.
Việc quy định như dự thảo
luật hiện nay mới chỉ là điều kiện cần để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với
quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà
nước đầu tư tại doanh nghiệp. Điều kiện đủ để được thế chấp, góp vốn bằng tài sản
gắn liền với đất quốc phòng, an ninh còn phải tuân theo quy định của pháp luật
về doanh nghiệp và pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp, pháp luật về hoạt động của tổ chức tín dụng, ngân hàng; tuân theo quy định
về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, tuân theo quy định tại Điều lệ tổ chức
hoạt động của doanh nghiệp và chế độ sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với
hoạt động lao động sản xuất kinh doanh xây dựng kinh tế và nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng, an ninh.
Việc quy định rõ trong luật
“trường hợp chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất, xử lý tài sản thế chấp,
tài sản góp vốn thì chỉ được thực hiện trong nội bộ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an
theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt”
là cần thiết thể hiện tính công khai, minh bạch để bên nhận chuyển nhượng, nhận
góp vốn có đầy đủ thông tin pháp lý khi tham gia vào các quan hệ kinh tế với
các doanh nghiệp quân đội, công an.
Về thực tiễn, hiện nay đối
với các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh (Viettel, Tân Cảng Sài Gòn, Trực thăng
Việt Nam, Lũng Lô, 319,...) đều có ngành nghề kinh doanh là kho bãi, logistic,
cho thuê tài sản gắn liền với đất, nếu không quy định quyền này cụ thể trong Luật
Đất đai thì sẽ dừng hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do đặc điểm
yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh nên doanh nghiệp quốc phòng, an
ninh trong một số trường hợp cụ thể phải hợp tác sản xuất kinh doanh đối với
các đối tác trong và ngoài nước để sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa vũ khí, trang
thiết bị kỹ thuật quân sự, do đó phải được sử dụng tài sản gắn liền với đất để
thực hiện các hoạt động hợp tác theo phương án được cơ quan đại diện chủ sở hữu
(Bộ Quốc phòng, Bộ Công an...) phê duyệt là hết sức cần thiết.
Đây cũng là phương án Chủ
tịch Quốc hội đã kết luận tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữa hai đợt
họp của Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV.
c) Về nội dung
phương pháp định giá đất và trường hợp, điều kiện áp dụng từng phương pháp (Điều
158)
Chính phủ dự thảo phương
án thiết kế khoản 5 và khoản 6 Điều 158 quy định chi tiết về các phương pháp định
giá đất và điều kiện áp dụng của từng phương pháp trong dự thảo Luật như sau:
“5. Các phương pháp định
giá đất bao gồm:
a) Phương pháp so sánh
được thực hiện bằng cách điều chỉnh mức giá của các thửa đất có cùng mục đích sử
dụng đất đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất mà
người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quyết định trúng đấu
giá thông qua việc phân tích, so sánh các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất sau khi
đã loại trừ giá trị tài sản gắn liền với đất (nếu có) để xác định giá của thửa
đất cần định giá;
b) Phương pháp thu nhập
được thực hiện bằng cách lấy thu nhập ròng bình quân năm trên một diện tích đất
chia cho lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân của loại tiền gửi bằng Việt Nam
Đồng (VND) kỳ hạn 12 tháng tại các ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ trên địa bàn cấp tỉnh của 03 năm liền kề tính đến hết quý gần
nhất có số liệu trước thời điểm định giá;
c) Phương pháp thặng
dư được thực hiện bằng cách lấy tổng doanh thu phát triển ước tính trừ đi tổng
chi phí phát triển ước tính của thửa đất, khu đất trên cơ sở sử dụng đất có hiệu
quả cao nhất (hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, số tầng cao tối đa của công
trình) theo quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
d) Phương pháp hệ số điều
chỉnh giá đất là phương pháp định giá đất được thực hiện bằng cách lấy giá đất
trong bảng giá đất nhân với hệ số điều chỉnh giá đất. Hệ số điều chỉnh giá đất
được xác định thông qua việc so sánh giá đất trong bảng giá đất với giá đất thị
trường;
đ) Chính phủ quy định
phương pháp định giá đất mới chưa được quy định tại các điểm a, b, c và d khoản
này sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
6. Trường hợp, điều kiện
áp dụng phương pháp định giá đất như sau;
a) Phương pháp so sánh
được áp dụng để định giá đối với trường hợp có tối thiểu 03 thửa đất có cùng mục
đích sử dụng đất, tương đồng nhất định về các yếu tố có ảnh hưởng đến giá đất
đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất mà người
trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo Quyết định trúng đấu giá;
b) Phương pháp thu nhập
được áp dụng để định giá đối với trường hợp thửa đất, khu đất phi nông nghiệp
không phải là đất ở, đất nông nghiệp không đủ điều kiện áp dụng phương pháp so
sánh nhưng xác định được các khoản thu nhập, chi phí từ việc sử dụng đất theo mục
đích sử dụng đất được đưa ra định giá;
c) Phương pháp thặng
dư được áp dụng để định giá đối với trường hợp thửa đất, khu đất để thực hiện dự
án đầu tư không đủ điều kiện áp dụng phương pháp so sánh, phương pháp thu nhập
nhưng ước tính được tổng doanh thu phát triển và tổng chi phí phát triển của dự
án;
d) Phương pháp hệ số điều
chỉnh giá đất được áp dụng để định giá cụ thể tính tiền bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất đối với các trường hợp thu hồi nhiều thửa đất liền kề nhau, có cùng
mục đích sử dụng và đã được quy định giá đất trong bảng giá đất mà không đủ điều
kiện để áp dụng phương pháp so sánh hoặc để đối chiếu với kết quả xác định giá
đất bằng các phương pháp quy định tại các điểm a, b và c khoản này”.
Đồng thời, Chính phủ đề
nghị các nội dung quy định về trình tự, thủ tục thực hiện định giá đất theo từng
phương pháp, lựa chọn phương pháp định giá sẽ được quy định chi tiết tại Nghị định
hướng dẫn thi hành (khoản 7 Điều 158 đã quy định “7. Chính phủ quy định chi
tiết Điều này”).
4.
Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét một số nội dung sau:
a) Về Quỹ phát triển
đất (Điều 114)
Tại Báo cáo số 598/BC-CP,
Chính phủ đã nêu quan điểm: Quỹ phát triển đất không phải là một chính sách mới
mà đã được quy định từ Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013, theo đó Quỹ
phát triển đất có chức năng nhận vốn từ nguồn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,
tiền thu từ đấu giá quyền sử dụng đất và huy động các nguồn khác theo quy định
để ứng vốn và chi hỗ trợ trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; tạo
quỹ đất và phát triển quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Thực tế thời gian qua, Quỹ phát triển đất là nguồn tài chính quan trọng
để Nhà nước chủ động thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, xây dựng các khu
tái định cư, phát triển quỹ đất để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, đảm bảo
việc tiếp cận đất đai kịp thời, minh bạch, khách quan, hạn chế tiêu cực và tăng
thu ngân sách. Nếu bỏ quỹ phát triển đất sẽ dẫn đến các dự án đầu tư phát triển
quỹ đất do Tổ chức phát triển quỹ đất đề xuất phải chờ bố trí vốn theo kế hoạch
bố trí vốn của pháp luật về đầu tư công sẽ dẫn đến thiếu linh hoạt, chủ động
trong việc tạo quỹ đất, xây dựng các khu tái định cư, các dự án sẽ phải kéo dài
trong khâu giải phóng mặt bằng làm chậm tiến độ trong giải ngân vốn đầu tư
công, không khả thi trong việc đấu giá quyền sử dụng đất. Như vậy, việc phải có
Quỹ phát triển đất là góp phần thực hiện thể chế đầy đủ quan điểm của Nghị quyết
số 18-NQ/TW về “Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu
giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất”, “Hoàn thiện tổ chức, bộ
máy, cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các tổ chức phát triển quỹ đất, bảo
đảm tinh gọn, hoạt động hiệu quả, đủ năng lực tạo lập, quản lý, khai thác quỹ đất,
thực hiện tốt nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.
Mặt khác, việc tiếp tục
quy định về Quỹ phát triển đất nhằm đảm bảo kế thừa quy định của Luật Đất đai
năm 2013 đã dành một Điều quy định về Quỹ phát triển đất (Điều 111) đã ổn định
và phát huy tác dụng, để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với Luật Nhà ở vừa được
Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 (Đã có 03 điều đề cập đến Quỹ phát triển đất
gồm 63, 113 và 115).
Chính phủ đề nghị giữ Điều
114 quy định về Quỹ phát triển đất, cụ thể như sau:
“Điều 114. Quỹ phát
triển đất
1. Quỹ phát triển đất
của địa phương là Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh thành lập để tiếp nhận và ứng vốn phục vụ các nhiệm vụ thuộc chức năng của
Tổ chức phát triển quỹ đất quy định tại Luật này, thực hiện chính sách hỗ trợ đất
đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các nhiệm vụ khác theo quy định của
pháp luật.
2. Nguồn tài chính của
Quỹ phát triển đất được phân bổ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn
khác theo quy định của pháp luật.
3. Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định phân bổ nguồn
thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất hằng năm của địa phương cho Quỹ phát triển
đất.
4. Chính phủ quy định
cơ cấu, tổ chức, chức năng nhiệm vụ, và cơ chế hoạt động của Quỹ phát triển đất.”
b) Về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước
Chính phủ đề nghị giữ Điều
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước (đã được Chính phủ
trình tại Kỳ họp thứ 5 và Báo cáo số 598/BC-CP) nhằm đảm bảo nguồn vốn cho Quỹ
phát triển đất hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời có cơ chế để quỹ
phát triển đất bảo toàn vốn đối với trường hợp đà ứng vốn cho Tổ chức phát triển
quỹ đất thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao do Luật Ngân sách nhà nước hiện
hành quy định không hỗ trợ ngân sách cho các quỹ tài chính ngoài ngân sách, đồng
thời quy định tiền sử dụng đất phải nộp vào ngân sách nhà nước mà không khấu trừ
chi phí đã phải ứng trước để thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư, xây dựng hạ tầng để tạo quỹ đất đấu giá làm tê liệt hoạt động của Quỹ phát
triển đất do không được cấp vốn và không có cơ chế hoàn vốn để bảo toàn vốn, đảm
bảo tính khả thi của các quy định liên quan đến Quỹ phát triển đất tại Luật Nhà
ở vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6. Đồng thời, quy định này nhằm đảm
bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật khi bổ sung Điều 114 về Quỹ phát
triển đất, cụ thể như sau:
“Điều 254. Sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước
1. Sửa đổi, bổ sung khoản
11 Điều 8 như sau:
“11. Ngân sách nhà nước
không hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách,
trừ Quỹ phát triển đất theo quy định của Luật Đất đai. Trường hợp được ngân
sách nhà nước hỗ trợ vốn điều lệ theo quy định của pháp luật thì phải phù hợp với
khả năng của ngân sách nhà nước và chỉ thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện
sau: được thành lập và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật; có khả năng
tài chính độc lập; có nguồn thu, nhiệm vụ chi không trùng với nguồn thu, nhiệm
vụ chi của ngân sách nhà nước.”
2. Sửa đổi, bổ sung điểm
đ khoản 1 Điều 37 như sau:
“đ) Tiền sử dụng đất;
trừ thu tiền sử dụng đất tại điểm k khoản 1 Điều 35 của Luật này. Đối với tiền
sử dụng đất thu từ các dự án phát triển quỹ đất do Tổ chức phát triển quỹ đất tạo
lập thì phải khấu trừ chi phí đã ứng vốn từ Quỹ phát triển đất”.
c) Về người sử dụng
đất là người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không có quốc tịch Việt Nam
Luật Quốc tịch Việt Nam
quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm người có quốc tịch Việt Nam
và người gốc Việt Nam không có quốc tịch Việt Nam đang cư trú sinh sống lâu dài
ở nước ngoài, do đó tại Báo cáo số 598/BC-CP, Chính phủ đã đề xuất sử dụng thuật
ngữ “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài” đúng như quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam. Thuật ngữ này đã được
thể hiện trong Báo cáo của Đảng Đoàn Quốc hội xin ý kiến Bộ Chính trị.
Tuy nhiên, tại Luật Kinh
doanh bất động sản vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 sử dụng thuật
ngữ “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải là công dân Việt Nam
theo quy định của pháp luật về quốc tịch”; trong khi đó tại Luật Nhà ở cũng
được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 sử dụng thuật ngữ “Người Việt Nam định
cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch” (Theo Luật Quốc tịch
Việt Nam thì không có thuật ngữ người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải
là công dân Việt Nam[4]).
Ủy ban Kinh tế đề nghị sử
dụng sử dụng thuật ngữ “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không phải là
công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch” trong dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi) để thống nhất với thuật ngữ đã sử dụng trong Luật Kinh
doanh bất động sản.
Chính phủ đề nghị thống
nhất sử dụng thuật ngữ “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài” như đề
xuất tại Báo cáo số 598/BC-CP để đảm bảo thống nhất với Luật Quốc tịch Việt
Nam.
d) Về việc sửa đổi,
bổ sung khoản 2 Điều 14 Luật Lâm nghiệp (Điều 257)
Tại khoản 1 Điều 257 dự
thảo Luật kèm theo Báo cáo 598/BC-CP đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 14 của Luật Lâm nghiệp như sau: “2. Không chuyển
mục đích rừng tự nhiên sang mục đích khác, trừ dự án quan trọng quốc gia; dự án
phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia; dự án cấp thiết khác theo tiêu chí do
Chính phủ quy định”. Tuy nhiên tại dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp
thứ 6 đã sử dụng cụm từ “dự án đầu tư công” trong khoản 2
Điều 14 của Luật Lâm nghiệp như sau: “2. Không chuyển mục đích rừng tự
nhiên sang mục đích khác, trừ dự án quan trọng quốc gia; dự án phục vụ quốc
phòng, an ninh quốc gia; dự án đầu tư công theo tiêu chí do Chính phủ quy định.”
Với quy định như trên sẽ
gây khó khăn cho các dự án đầu tư không phải là đầu tư công mặc dù các dự án
này đều đáp ứng tiêu chí do Chính phủ quy định để phát triển kinh tế - xã hội.
Chính phủ đề nghị không giới hạn trong phạm vi dự án đầu tư công và giữ các nội
dung theo Báo cáo số 598/BC-CP.
đ) Về quy định hiệu
lực sớm: Chính phủ đề nghị quy định hiệu
lực sớm đối với (i) Điều 190 quy định về hoạt động lấn biển tại Luật Đất đai (sửa
đổi) để đảm bảo hành lang pháp lý thực hiện đúng Nghị quyết của Quốc hội về việc
ban hành Nghị định quy định chi tiết về lấn biển trong năm 2024; (ii) Điều 257
quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lâm nghiệp để tháo gỡ các vướng
mắc đang tồn tại trong thực tiễn, thúc đẩy việc triển khai các dự án đầu tư.
II. VỀ
Ý KIẾN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BÁO CÁO TIẾP THU GIẢI TRÌNH, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT
Chính phủ cơ bản nhất trí
với dự thảo Báo cáo tiếp thu giải trình, chỉnh lý dự thảo luật gửi kèm theo
Công văn số 718/UBTVQH15-KT, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Cơ quan chủ
trì thẩm tra và các cơ quan của Quốc hội phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo
và các Bộ, ngành có liên quan tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Báo cáo để đảm
bảo đầy đủ cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý, cơ sở thực tiễn, đảm bảo tính thống
nhất và tính khả thi, thuận lợi cho triển khai thực hiện.
III.
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Chính phủ trân trọng đề
nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội một số nội dung sau:
(1) Nghiên cứu các ý kiến
góp ý, đề xuất của Chính phủ để phối hợp hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5 (Tháng
1/2024), thực hiện đúng chủ trương của Nghị quyết số 18-NQ/TW, đảm bảo sự thống
nhất của hệ thống pháp luật, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, khơi thông nguồn lực
đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội.
(2) Xem xét ban hành Nghị
quyết tổ chức thi hành Luật đất đai (sửa đổi) để hướng dẫn triển khai thực hiện
đồng bộ một số chính sách trên toàn quốc như: điều chỉnh Bảng giá đất giai đoạn
2020 - 2024 để áp dụng từ 01/01/2025 đến 31/01/2025 song song với chuẩn bị Bảng
giá đất theo quy định của Luật Đất đai (sửa đổi); thực hiện giao đất đồng thời
với giao khu vực biển để thực hiện các dự án có hoạt động lấn biển; triển khai
thí điểm việc tách việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng
thành dự án độc lập...
Chính phủ gửi kèm theo
Báo cáo này dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được chỉnh lý, hoàn thiện và dự
thảo các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai (sửa đổi).
Trân trọng báo cáo Ủy ban
Thường vụ Quốc hội./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Hội đồng Dân tộc của Quốc hội;
- Ủy ban Kinh tế của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ:
- Lưu: VT, PL(40).
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Đặng Quốc Khánh
|
[1] Nội dung đề nghị bổ sung được thể hiện bằng
chữ có gạch chân ở dưới, nội dung đề nghị bỏ được thể hiện bằng chữ bị gạch
ngang ở giữa.
[2] Khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam quy định:
“3. Người Việt Nam định
cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống
lâu dài ở nước ngoài.
4. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là
người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được
xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống
lâu dài ở nước ngoài."
[3] Theo quy định tại khoản 5 Điều 217 Luật Doanh nghiệp: “Căn
cứ vào quy định của Luật này, Chính phủ quy định chi tiết việc tổ chức quản lý
và hoạt động của doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết
hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là doanh nghiệp nhà nước và công ty trách
nhiệm hữu hạn do doanh nghiệp nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 88 của Luật
này nắm giữ 100% vốn điều lệ”.
Theo quy định tại Nghị định
số 16/2023/NĐ-CP ngày 25/4/2023 của Chính phủ về tổ chức quản lý và hoạt động của
doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và doanh nghiệp kết hợp kinh
tế với quốc phòng, an ninh; sửa đổi quy định tại điểm g khoản 1 Điều 23 Nghị định
số 47/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật Doanh nghiệp (sau đây gọi là Nghị định số 16/2021/NĐ-CP), doanh nghiệp
trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc
phòng, an ninh được công nhận, công nhận lại theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ theo đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và thẩm định của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư định kỳ 05 năm.
Doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, an
ninh được: (1) Hưởng ưu đãi về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất
và thuế sử dụng đất đối với diện tích đất được giao quản lý, sử dụng phục
vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo quy định pháp luật về đất đai, thuế
và pháp luật có liên quan; (2) Tính vào chi phí được trừ khi xác
định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn đối với các khoản chi phí hoạt động của
doanh nghiệp, các khoản chi phục vụ quân sự quốc phòng, an ninh, quan hệ
quân dân theo kế hoạch, nhiệm vụ do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trực tiếp hoặc
thông qua cơ quan chuyên môn, đơn vị đầu mối trực thuộc giao nhiệm vụ.
[4] Khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam quy định:
“3. Người Việt Nam định
cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống
lâu dài ở nước ngoài.
4, Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là
người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được
xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống
lâu dài ở nước ngoài.”