BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
-----
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------
|
Số: 133/BC-BTNMT
|
Hà Nội, ngày 02 tháng 8 năm 2007
|
BÁO CÁO
KẾT QUẢ RÀ SOÁT VÀ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện Chỉ
thị số 09/2007/CT-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư, Bộ Tài nguyên và
Môi trường báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất như sau:
I. NHỮNG MẶT ĐƯỢC VÀ CHƯA ĐƯỢC CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH
SỬ DỤNG ĐẤT
1. Những mặt
được
Điều 18 Chương
II Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã quy định “Nhà
nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật, bảo đảm
sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.”
Căn cứ quy định
nêu trên của Hiến pháp, pháp luật đất đai đã không ngừng hoàn thiện các quy định
về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tạo hành lang pháp lý để triển khai và đạt
được những kết quả tích cực chủ yếu sau đây:
- Quản lý nhà
nước về đất đai thông qua công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được tăng
cường, góp phần tích cực vào việc phân bổ và sử dụng ngày càng hợp lý, tiết kiệm,
có hiệu quả và bền vững tài nguyên đất đai.
- Qua việc quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ cấu sử dụng đất được chuyển đổi phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đất dành cho phát triển công
nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang và phát triển đô thị được
mở rộng, cơ bản đáp ứng nhu cầu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã trở thành căn cứ để tiến hành thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; đã cơ bản chấm dứt tình trạng
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất ngoài quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; hạn chế rõ rệt việc tùy tiện chuyển đất nông nghiệp, đặc biệt là đất
lúa sang mục đích phi nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, bảo đảm
diện tích đất có rừng hợp lý.
2. Những mặt
chưa được
Từ thực tiễn
triển khai cho thấy các quy định hiện hành về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đang có một số tồn tại, bất cập như sau:
a) Về quy hoạch
sử dụng đất:
- Nội dung quy
hoạch sử dụng đất đã được quy định tại Điều 23 của Luật Đất đai, Điều 12 và Điều
14 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP. Quy định về nội dung quy hoạch sử dụng đất
tại các điều này được áp dụng cho tất cả các cấp lập quy hoạch. Việc quy định nội
dung quy hoạch sử dụng đất cả nước cũng tương tự như nội dung quy hoạch sử dụng
đất cấp tỉnh, cấp huyện là không hợp lý, dẫn tới hệ thống chỉ tiêu quy hoạch sử
dụng đất của cả nước quá chi tiết, vừa chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường
vừa hạn chế quyền chủ động của địa phương.
- Theo quy định
tại khoản 2 Điều 26 và khoản 4 Điều 27 của Luật Đất đai, Chính phủ là cơ quan
có thẩm quyền xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh.
Tuy nhiên, việc ban hành nghị quyết xét duyệt, điều chỉnh của Chính phủ đòi hỏi
phải theo quy trình với thời gian khá dài, trong khi nhiều trường hợp, nhất là
những trường hợp điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đòi hỏi phải thực
hiện nhanh, kịp thời.
b) Về kế hoạch
sử dụng đất:
Kế hoạch sử dụng
đất là việc sắp đặt tiến độ triển khai quy hoạch sử dụng đất theo thời gian
trong kỳ quy hoạch sử dụng đất. Thực tiễn triển khai trong thời gian qua cho thấy
việc quyết định, xét duyệt kế hoạch sử dụng đất của các cơ quan có thẩm quyền ở
Trung ương (Quốc hội, Chính phủ) khó sát với diễn biến trong quá trình thực hiện
của địa phương.
c) Về mối quan
hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch về xây dựng:
Quy định về nội
dung quy hoạch sử dụng đất và nội dung quy hoạch xây dựng có mặt trùng lặp, chồng
chéo, đặc biệt là trong khu vực đô thị; mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất
và quy hoạch xây dựng cũng chưa được xác định cụ thể.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
1. Để phát huy
hơn nữa vai trò của quy hoạch sử dụng đất phù hợp với nền kinh tế thị trường và
trong tình hình đã có Luật Xây dựng, cần thiết sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất như sau:
a) Hoàn thiện
quy định về nội dung quy hoạch sử dụng đất, làm rõ nội dung quy hoạch sử dụng đất
và chỉ tiêu quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất của từng cấp (cả nước,
tỉnh, huyện) theo hướng càng xuống cấp dưới thì nội dung và chỉ tiêu càng cụ thể,
chi tiết. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định phê duyệt các cân đối lớn về sử dụng
đất như diện tích đất nông nghiệp (trong đó có đất chuyên trồng lúa nước, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng), đất phi nông nghiệp (trong đó có đất ở), đất chưa
sử dụng đưa vào sử dụng; Chính phủ (hoặc Thủ tướng Chính phủ) xét duyệt các chỉ
tiêu chính về sử dụng đất của cấp tỉnh. Các chỉ tiêu chi tiết về sử dụng từng
loại đất tại cấp tỉnh và cấp huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
b) Sửa đổi quy
định về phạm vi lập quy hoạch sử dụng đất như sau:
- Không lập
quy hoạch sử dụng đất cho các đơn vị hành chính thuộc khu vực nội thị để tránh
trùng lắp với quy hoạch chung về xây dựng đô thị và quy hoạch chi tiết xây dựng
đô thị;
- Bỏ quy định
lập quy hoạch sử dụng đất chi tiết đối với khu công nghệ cao, khu kinh tế để
tránh trùng lắp với quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghệ cao, khu kinh tế;
- Không lập
quy hoạch sử dụng đất cấp xã để tránh trùng lắp với quy hoạch điểm dân cư nông
thôn theo quy định về pháp luật xây dựng; những điểm cần lưu ý trong chỉ đạo sử
dụng đất của cấp xã sẽ được đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện.
c) Sửa đổi quy
định về thẩm quyền xét duyệt quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, giao thẩm quyền
này cho Thủ tướng Chính phủ (thay vì Chính phủ như quy định hiện hành);
d) Quốc hội,
Chính phủ không quyết định, xét duyệt kế hoạch sử dụng đất định kỳ 5 năm của cả
nước và cấp tỉnh. Việc xét duyệt kế hoạch sử dụng đất theo định kỳ 5 năm của cấp
tỉnh, cấp huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định trên cơ sở quy hoạch sử
dụng đất đã được Chính phủ (hoặc Thủ tướng Chính phủ) xét duyệt (đối với cấp tỉnh)
hoặc đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xét duyệt (đối với cấp huyện). Bãi bỏ việc
phân bổ kế hoạch sử dụng đất đến từng năm.
2. Theo tinh
thần trên đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ
Tài nguyên và Môi trường:
a) Trình Chính
phủ sửa đổi, bổ sung Điều 12 và Điều 14 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ;
b) Đề xuất để
Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 26 và Điều 27 của Luật Đất đai
(cùng với một số sửa đổi, bổ sung khác của Luật này).
Bộ Tài nguyên
và Môi trường báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Bộ: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư;
- Bộ trưởng, các Thứ trưởng;
- Các Vụ: Đất đai, Pháp chế;
- Lưu VT, ĐKTKĐĐ.
|
BỘ
TRƯỞNG
Mai Ái Trực
|