QUỐC
HỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 42/2019/QH14
|
Hà Nội, ngày 14 tháng 06 năm 2019
|
LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM, LUẬT SỞ HỮU
TRÍ TUỆ
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số
24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật
số 61/2010/QH12 và Luật Sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12.
Điều 1. Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm
1. Bổ sung các khoản 21, 22,
23, 24, 25 và 26 vào sau khoản 20 Điều 3 như sau:
“21. Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm
là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, do doanh nghiệp bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân khác thực hiện nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm,
giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.
22. Tư vấn bảo hiểm là hoạt động
cung cấp dịch vụ tư vấn về chương trình bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm, quản trị rủi
ro bảo hiểm và đề phòng, hạn chế tổn thất.
23. Đánh giá rủi ro bảo hiểm
là hoạt động nhận diện, phân loại, đánh giá tính chất và mức độ rủi ro, đánh
giá việc quản trị rủi ro về con người, tài sản, trách nhiệm dân sự làm cơ sở
tham gia bảo hiểm.
24. Tính toán bảo hiểm là hoạt động thu thập, phân
tích số liệu thống kê, tính phí bảo hiểm, dự phòng nghiệp vụ, vốn, biên khả
năng thanh toán, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, xác định giá trị doanh
nghiệp để bảo đảm an toàn tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
25. Giám định tổn thất bảo hiểm là hoạt động xác định
hiện trạng, nguyên nhân, mức độ tổn thất, tính toán phân bổ trách nhiệm bồi thường
tổn thất làm cơ sở giải quyết bồi thường bảo hiểm.
26. Hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo
hiểm là hoạt động hỗ trợ bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ
hưởng hoặc doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các thủ tục giải quyết bồi thường bảo
hiểm.”.
2. Sửa đổi, bổ sung Điều 11 như sau:
“Điều 11. Quyền tham gia các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm được tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích phát triển thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của thành viên theo quy định của pháp luật.”.
3. Sửa đổi, bổ sung tên Chương IV như sau:
“Chương
IV
ĐẠI
LÝ BẢO HIỂM, DOANH NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM, DỊCH VỤ PHỤ TRỢ BẢO HIỂM”
4. Bổ sung Mục 3 vào sau Mục 2 Chương IV như sau:
“Mục
3
DỊCH
VỤ PHỤ TRỢ BẢO HIỂM
Điều 93a. Cung cấp dịch vụ phụ trợ
bảo hiểm
1. Nguyên tắc cung cấp dịch vụ phụ trợ
bảo hiểm:
a) Trung thực, khách quan, minh bạch;
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan;
b) Tuân theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật trong lĩnh vực phụ trợ bảo hiểm;
c) Tuân theo quy tắc đạo đức, ứng xử
nghề nghiệp do tổ chức xã hội - nghề nghiệp ban hành.
2. Cá nhân, tổ chức đáp ứng các điều
kiện quy định tại Điều 93b của Luật này được quyền cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm theo quy định sau đây:
a) Cá nhân được quyền cung cấp dịch vụ
tư vấn bảo hiểm;
b) Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm và tổ chức khác có tư cách pháp nhân được quyền cung cấp dịch
vụ phụ trợ bảo hiểm (gọi chung là tổ chức cung cấp dịch vụ
phụ trợ bảo hiểm).
3. Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức
cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:
a) Giữ bí mật thông tin khách hàng, sử
dụng thông tin khách hàng đúng mục đích và không được cung cấp cho bên thứ ba
mà không có sự chấp thuận của khách hàng, trừ trường hợp cung cấp theo quy định
của pháp luật;
b) Cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo
hiểm phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho việc cung cấp dịch vụ tư vấn
bảo hiểm; tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
phù hợp với từng loại hình dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;
c) Tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm không được cung cấp dịch vụ giám định tổn thất bảo hiểm và hỗ trợ giải quyết
bồi thường bảo hiểm cho hợp đồng bảo hiểm mà tổ chức đó đồng
thời là bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng;
d) Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
không được cung cấp dịch vụ giám định tổn thất bảo hiểm
cho hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp đó thực hiện thu xếp giao kết hợp đồng bảo
hiểm.
4. Hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ
bảo hiểm phải được lập thành văn bản.
Điều 93b. Điều kiện cung cấp dịch
vụ phụ trợ bảo hiểm
1. Cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo
hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có văn bằng từ đại học trở lên về
chuyên ngành bảo hiểm. Trường hợp không có văn bằng từ đại
học trở lên về chuyên ngành bảo hiểm thì phải có văn bằng
từ đại học trở lên về chuyên ngành khác và chứng chỉ về tư vấn bảo hiểm do cơ sở
đào tạo được thành lập và hoạt động hợp pháp ở trong nước hoặc ở nước ngoài cấp.
2. Tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có tư cách pháp nhân, được thành lập
và hoạt động hợp pháp;
b) Cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động
phụ trợ bảo hiểm trong tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải có đủ các
điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; có văn bằng, chứng chỉ về phụ
trợ bảo hiểm phù hợp với loại hình dịch vụ phụ trợ bảo hiểm thực hiện do cơ sở
đào tạo được thành lập và hoạt động hợp pháp ở trong nước hoặc ở nước ngoài cấp.
Cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động
giám định tổn thất bảo hiểm còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn của giám định viên
theo quy định của pháp luật về thương mại.
Cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động
tính toán bảo hiểm còn phải đáp ứng tiêu chuẩn về tuân thủ pháp luật, đạo đức,
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm về hành nghề tính toán bảo hiểm, tư cách thành
viên của Hội các nhà tính toán bảo hiểm quốc tế.
Chính phủ quy định chi tiết điểm này.
3. Bộ trưởng Bộ
Tài chính quy định về nội dung chương trình đào tạo, thi, cấp chứng chỉ về phụ
trợ bảo hiểm đối với các cơ sở đào tạo ở trong nước và quy định việc công nhận
đối với chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm do cơ sở đào tạo ở nước ngoài cấp.”.
5. Sửa đổi, bổ sung tên Chương VI như sau:
“Chương
VI
DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM VÀ DOANH NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI;
CUNG CẤP DỊCH VỤ QUA BIÊN GIỚI”
6. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 105 như sau:
“2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp
dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, tổ chức nước ngoài cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm qua biên giới, cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm qua biên giới theo quy định của Chính
phủ.”.
7. Sửa đổi, bổ sung một số khoản
của Điều 120 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau:
“1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;
xây dựng chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam;”;
b) Sửa đổi, bổ sung khoản 4 như sau:
“4. Giám sát hoạt động kinh doanh bảo
hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp,
quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm; áp dụng các biện pháp cần thiết
để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các
yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm.
Giám sát hoạt động cung cấp dịch vụ
phụ trợ bảo hiểm thông qua việc chấp hành quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật trong lĩnh vực phụ trợ bảo hiểm, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, cung cấp
dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới;”.
8. Bổ sung khoản 9a vào sau
khoản 9 Điều 124 như sau:
“9a. Vi phạm quy định về quy chuẩn kỹ
thuật trong lĩnh vực phụ trợ bảo hiểm; trách nhiệm của cá
nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ
trợ bảo hiểm; cung cấp loại hình dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; cung cấp dịch vụ phụ
trợ bảo hiểm qua biên giới;”.
Điều 2. Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
1. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 3 Điều 6 như sau:
“a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên
cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ
tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục
đăng ký.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc theo điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;”.
2. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 và bổ sung khoản 4 vào sau
khoản 3 Điều 60 như sau:
“3. Sáng chế không bị coi là mất tính
mới nếu được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86
của Luật này hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được
nộp tại Việt Nam trong thời hạn mười hai tháng kể từ ngày
bộc lộ.
4. Quy định tại khoản 3 Điều này cũng
áp dụng đối với sáng chế được bộc lộ trong đơn đăng ký sở hữu công nghiệp hoặc
văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp do cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công
nghiệp công bố trong trường hợp việc công bố không phù hợp với quy định của
pháp luật hoặc đơn do người không có quyền đăng ký nộp.”.
3. Sửa đổi, bổ sung Điều 61 như sau:
“Điều 61. Trình độ sáng tạo của
sáng chế
1. Sáng chế được coi là có trình độ sáng
tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức
sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc
ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của
đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế
được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến
sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với
người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
2. Giải pháp kỹ thuật là sáng chế được
bộc lộ theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 60 của Luật này không được lấy
làm cơ sở để đánh giá trình độ sáng tạo của sáng chế đó.”.
4. Sửa đổi, bổ sung một số khoản
của Điều 80 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau:
“1. Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên
gọi chung của hàng hóa theo nhận thức của người tiêu dùng có liên quan trên
lãnh thổ Việt Nam;”;
b) Sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau:
“3. Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự
với một nhãn hiệu đang được bảo hộ hoặc đã được nộp theo đơn đăng ký nhãn hiệu
có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó
được thực hiện thì có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại của hàng
hóa;”.
5. Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 89 như sau:
“3. Đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu
công nghiệp được nộp dưới hình thức văn bản ở dạng giấy cho cơ quan quản lý nhà
nước về quyền sở hữu công nghiệp hoặc dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực
tuyến.”.
6. Sửa đổi, bổ sung tên Mục 4 Chương VIII như sau:
“Mục
4
ĐƠN
QUỐC TẾ, ĐỀ NGHỊ QUỐC TẾ VÀ XỬ LÝ ĐƠN QUỐC TẾ, ĐỀ NGHỊ QUỐC TẾ”
7. Bổ sung Điều 120a vào sau
Điều 120 trong Mục 4 Chương VIII như
sau:
“Điều 120a. Đề nghị quốc tế và xử
lý đề nghị quốc tế về chỉ dẫn địa lý
1. Đề nghị công nhận và bảo hộ chỉ dẫn
địa lý theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang đàm phán gọi là đề nghị quốc tế.
2. Việc công bố đề nghị quốc tế, xử
lý ý kiến của người thứ ba, đánh giá điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý
trong đề nghị quốc tế được thực hiện theo các quy định tương ứng tại Luật này đối
với chỉ dẫn địa lý trong đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý được nộp
cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.”.
8. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 136 như sau:
“2. Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ
sử dụng liên tục nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền
theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của
chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ
năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực
theo quy định tại Điều 95 của Luật này.”.
9. Sửa đổi, bổ sung Điều 148 như sau:
“Điều 148. Hiệu lực của hợp đồng
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
1. Đối với các loại quyền sở hữu công
nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm
a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực khi đã được đăng ký tại
cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.
2. Đối với các loại quyền sở hữu công
nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6
của Luật này, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa
thuận giữa các bên.
3. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp tại khoản 2 Điều này, trừ hợp đồng sử dụng nhãn hiệu, phải đăng ký
tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp mới
có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.
4. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp mặc nhiên bị chấm dứt hiệu lực nếu quyền sở hữu công nghiệp của bên
giao bị chấm dứt.”.
10. Bổ sung khoản 4 và khoản 5
vào sau khoản 3 Điều 198 như
sau:
“4. Tổ chức, cá nhân là bị đơn trong
vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án kết luận là không thực
hiện hành vi xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn thanh toán cho
mình chi phí hợp lý để thuê luật sư hoặc các chi phí khác theo quy định của
pháp luật.
5. Tổ chức, cá nhân lạm dụng thủ tục
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức,
cá nhân bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục đó phải
bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó bao gồm chi phí hợp lý để thuê luật sư. Hành vi lạm dụng thủ tục bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ bao gồm hành vi cố ý vượt quá phạm vi hoặc mục tiêu của thủ
tục này.”.
11. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 205 như sau:
“1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng
minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất
cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án
quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:
a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng
tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được
tính vào tổng thiệt hại vật chất;
b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối
tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử
dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã
thực hiện;
c) Thiệt hại vật chất theo các cách
tính khác do chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với
quy định của pháp luật;
d) Trong trường hợp không thể xác định
được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại các điểm
a, b và c khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định,
tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.”.
12. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 218 như sau:
“1. Khi người yêu cầu tạm dừng làm thủ
tục hải quan đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại Điều 217 của Luật
này thì cơ quan hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với lô
hàng. Cơ quan hải quan cung cấp cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông tin về
tên và địa chỉ của người gửi hàng; nhà xuất khẩu, người nhận hàng hoặc nhà nhập
khẩu; bản mô tả hàng hóa; số lượng hàng hóa; nước xuất xứ
của hàng hóa nếu biết, trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định áp
dụng biện pháp hành chính để xử lý đối với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và
hàng hóa sao chép lậu theo quy định tại khoản 4 Điều 216 của Luật này.”.
Điều 3. Hiệu lực
thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 11 năm 2019, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
2. Bổ sung mục
32a vào sau mục 32 Phụ lục 4 Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật
số 90/2015/QH13, Luật số 03/2016/QH14, Luật số 04/2017/QH14 và Luật số
28/2018/QH14 như sau:
“32a. Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm bao gồm
tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo
hiểm, giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm”.
3. Các dịch vụ phụ
trợ bảo hiểm mới phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm do
Chính phủ quy định và phải được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành.
4. Các quy định về
sở hữu trí tuệ tại Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
14 tháng 01 năm 2019 đối với các trường hợp sau đây:
a) Đơn đăng ký
xác lập quyền sở hữu công nghiệp có ngày nộp đơn từ ngày
14 tháng 01 năm 2019;
b) Yêu cầu hủy bỏ hiệu lực Bằng độc
quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn
địa lý được cấp trên cơ sở đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp có ngày
nộp đơn từ ngày 14 tháng 01 năm 2019;
c) Yêu cầu chấm dứt hiệu lực của Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu được thực hiện từ ngày 14 tháng 01 năm 2019;
d) Vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ được cơ quan có thẩm quyền thụ lý từ ngày 14 tháng 01 năm 2019; yêu cầu
khác về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện từ ngày 14 tháng 01 năm
2019.
Điều 4. Quy định
chuyển tiếp
1. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày
Luật này có hiệu lực, cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trước
ngày Luật này có hiệu lực phải đáp ứng các điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm theo quy định tại Luật này. Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản này
mà không đáp ứng các điều kiện theo quy định thì cá nhân,
tổ chức không được tiếp tục cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm cho đến khi đáp ứng
đủ điều kiện.
2. Các đơn đăng
ký sáng chế, chỉ dẫn địa lý được nộp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 được tiếp
tục xử lý theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi,
bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12.
3. Các hợp đồng sử dụng nhãn hiệu đã
ký kết giữa các bên nhưng chưa được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về quyền
sở hữu công nghiệp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 chỉ có
giá trị pháp lý đối với bên thứ ba kể từ ngày 14 tháng 01
năm 2019.
4. Các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được cơ quan có thẩm quyền thụ lý trước ngày 14 tháng 01 năm
2019 nhưng chưa giải quyết xong thì tiếp tục áp dụng quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
36/2009/QH12 để giải quyết.
Luật này được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ
7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
|