Người sử dụng lao động và người lao động được tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật. Do đó, hợp đồng lao động cần tránh 07 thỏa thuận trái pháp luật dưới đây:
>> Quy trình nâng bậc lương đối với công chức của Bộ Tư pháp
>> Doanh nghiệp lưu ý: Khám sức khỏe định kỳ cho người lao động cao tuổi
Người sử dụng lao động (NSDLĐ) thường đưa vào hợp đồng lao động điều khoản về việc không đóng các loại bảo hiểm cho người lao động (NLĐ). Do chưa hiểu rõ được lợi ích từ việc đóng bảo hiểm mang lại nên khi biết mình được nhận nguyên lương mà không phải trích nộp lại một khoản tiền thì đa số NLĐ đều đồng ý.
Ngoài ra, cũng không ít trường hợp NSDLĐ bắt buộc NLĐ phải cam kết làm việc cho mình trong một khoảng thời gian dài thì mới được đóng bảo hiểm. Nhiều NLĐ vì sợ phải ràng buộc với công ty trong thời gian quá lâu nên thường sẽ chấp thuận với việc không được đóng bảo hiểm.
Tuy nhiên, đối tượng bắt buộc tham gia các loại bảo hiểm được pháp luật quy định như sau:
- Đối với bảo hiểm xã hội (BHXH): là người làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên
(Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014)
- Đối với bảo hiểm y tế (BHYT): là người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ đủ 03 tháng trở lên.
(Căn cứ khoản 1 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế 2008 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 6 Điều 1 Luật Bảo hiểm y tế 2014).
- Đối với bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): là người làn việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn.
(Căn cứ khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm 2013)
Như vậy, khi NLĐ thuộc các đối tượng nêu trên thì NSDLĐ và NLĐ không được phép thỏa thuận không đóng bảo hiểm (bao gồm BHXH, BHYT và BHTN).
Tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật Lao động 2019 quy định việc xử lý kỷ luật lao động như sau:
“Điều 127. Các hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động
... 2. Phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.”
Theo đó, thỏa thuận phạt tiền (hay cắt giảm tiền lương) khi NLĐ vi phạm nội quy công ty là trái luật. Thay vào đó, NSDLĐ chỉ có thể xử lý kỷ luật lao động đối với NLĐ bằng các hình thức sau đây:
- Khiển trách;
- Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng;
Vì để hạn chế việc gián đoạn trong công việc do thời gian nghỉ thai sản, NSDLĐ thường bắt buộc NLĐ cam kết không kết hôn, sinh con trong thời gian làm việc cho NSDLĐ.
Tuy nhiên, cam kết này đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền của vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh dân số 2003 (được sửa đổi bởi Điều 1 Pháp lệnh dân số 2008) quy định:
“Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản:
1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con;”
Theo đó, cam kết không kết hôn, sinh con trong thời gian làm việc cho NSDLĐ là cam kết trái quy định pháp luật. Vì thế dù cho đã có sự chấp thuận của NLĐ thì cam kết này cũng không có giá trị ràng buộc pháp lý đối với NLĐ.
Để tránh tính trạng NLĐ nhảy việc sau khi đã thành thạo công việc và NSDLĐ sẽ phải tốn thời gian, chi phí để hướng dẫn, đào tạo cho người mới nên nhiều NSDLĐ đã yêu cầu NLĐ cam kết phải làm việc dài hạn cho mình (thường là từ 05 năm trở lên) thì mới đồng ý nhận NLĐ vào làm việc.
Cam kết này đã vi phạm quyền “làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc” của người lao động được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động 2019. Đồng thời, cam kết này cũng vi phạm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NLĐ nếu họ đảm bảo thời gian báo trước. Do vậy, cam kết làm việc dài hạn cho công ty sẽ không được pháp luật công nhận.
Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào đào tạo để làm việc cho doanh nghiệp thì trong hợp đồng đào tạo nghề phải có cam kết của người học về thời hạn làm việc cho doanh nghiệp (điểm c khoản 2 Điều 62 Bộ luật Lao động 2019).
Như vậy, trường hợp NLĐ được đào tạo nghề từ kinh phí của NSDLĐ và có cam kết về thời gian làm việc cho NSDLĐ trong hợp đồng đào tạo nghề thì phải tuân thủ cam kết này.
Tương tự, điều khoản thỏa thuận không làm việc cho công ty đối thủ trong HĐLĐ bị coi là vi phạm quyền làm việc của NLĐ, cụ thể tại khoản 1 Điều 10 Bộ luật Lao động 2019 quy định:
Như vậy, thỏa thuận này sẽ không được coi là hợp pháp dù cho NLĐ chấp thuận và ký vào HĐLĐ, trừ trường hợp dưới đây:
Khi NLĐ làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật thì NSDLĐ có quyền thỏa thuận với người lao động về nội dung bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ trong hợp đồng lao động (mà cụ thể ở đây là thỏa thuận không làm việc cho công ty đối thủ) hoặc bằng văn bản khác theo quy định của pháp luật (căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH).
Theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, NSDLĐ có quyền huy động NLĐ làm thêm giờ nếu được NLĐ đồng ý và đảm bảo số giờ làm thêm không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong ngày, không quá 40 giờ/tháng và không quá 200 giờ/năm, trừ trường hợp:
- Đối với các ngành, nghề, công việc quy định tại khoản 3 Điều 107 Bộ luật Lao động 2019: NSDLĐ được sử dụng lao động làm thêm hơn 200 giờ/năm nhưng không quá 300 giờ/năm.
- Trong trường hợp để đảm bảo an ninh, quốc phòng hoặc nhằm bảo vệ tính mạng con người (quy định cụ thể tại Điều 108 Bộ luật Lao động 2019) thì NSDLĐ có quyền yêu cầu NLĐ làm thêm giờ vào bất kỳ ngày nào mà không bị giới hạn về số giờ làm thêm và NLĐ không được từ chối.
Tuy nhiên, nhằm phục hồi kinh tế - xã hội sau Covid-19, Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 cho phép NSDLĐ được sử dụng lao động làm thêm trên 200 giờ nhưng không vượt quá 300 giờ/năm trừ trường hợp NLĐ chưa thành niên, NLĐ khuyết tật, NLĐ làm ngành, nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 (hoặc tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo).
Như vậy, nếu trong HĐLĐ có thỏa thuận về thời gian làm thêm nhưng vượt quá số giờ làm thêm nêu trên thì thỏa thuận này không có giá trị pháp lý.
Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Lao động 2019 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
“Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
...”
Như vậy, pháp luật chỉ quy định về thời hạn tối thiểu NLĐ phải báo trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Quy định này phải được hiểu là NLĐ có quyền báo trước trong khoảng thời gian thậm chí là 2 tháng, 3 tháng nhưng không được ít hơn thời hạn bên trên.
Nếu NSDLĐ vận dụng điều khoản này để chuyển quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ thành nghĩa vụ của người lao động thông qua việc yêu cầu họ phải thông báo trước cho mình một thời hạn dài hơn quy định pháp luật. Khi đó, thỏa thuận này sẽ không được xem là phù hợp với quy định của pháp luật lao động.
Kết luận: Đối với 07 thỏa thuận nêu trên, dù đã có sự đồng ý của cả người lao động và người sử dụng lao động thì các thỏa thuận này cũng không có giá trị pháp lý. Đồng thời, hai bên còn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính đối với các thỏa thuận trái luật nêu trên.
Trên đây là quy định về 07 thỏa thuận trái luật cần tránh khi ký kết hợp đồng lao động. Nếu còn thắc mắc khác, quý khách hàng vui lòng để lại câu hỏi tại đây.
Ngoài ra, quý khách hàng có thể xem thêm và tải về các mẫu hợp đồng quan trọng sau đây: