Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Chào luật sư, Tôi có câu hỏi xin được luật sư tư vấn: Tôi có thành lập 01 công ty TNHH ban đầu khi tôi đăng ký vốn điều lệ tôi có đăng ký bằng tiền mặt (do thờì điểm do tài sản của tôi chưa có sổ đỏ). Này nhà tôi đã có sổ đỏ tôi muốn đưa vào phần tài sản công ty để giảm lượng tiền mặt trong quý
(PLO)- Trong khi nằm điều trị bệnh lâu dài trong bệnh viện, bác tôi đã lập di chúc phân chia tài sản của mình cho các con. Trong đó, người con trai cả được chia một cái ao, người con gái thứ ba được hưởng căn nhà. Di chúc mà bác tôi lập trong bệnh viện chỉ có xác nhận của giám đốc bệnh viện chứ không có dấu của ủy ban hay cơ quan công chứng thì
chúc. Trường hợp không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì di chúc và phí lưu giữ di chúc phải được trả lại cho người lập di chúc.
- Việc công bố di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
Như vậy, ông của bạn có thể liên hệ với phòng công chứng để làm thủ tục gửi giữ di
Thứ nhất, Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”.
Vì thế, việc lập di chúc chung có chứng thực của UBND cấp xã của bố mẹ bạn để định đoạt quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản chung được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là hợp pháp.
Điều 668 BLDS
giải quyết tình huống trên đúng quy định của pháp luật, cần vận dụng các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và thủ tục, trình tự chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT.
Theo giả thiết do tình huống đưa ra thì quyền sử dụng đất và quyền sở
hợp pháp phải tuân thủ quy định của pháp luật về nội dung và hình thức di chúc. Nội dung của di chúc phải ghi rõ các thông tin theo quy định tại Điều 653 Bộ luật dân sự:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc;
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá
chúc chung vợ, chồng nên theo quy định tại Điều 668, “di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Theo thư, bố bạn đã mất nhưng mẹ còn sống nên di chúc chung của bố mẹ bạn chưa có hiệu lực pháp luật. Do đó, nếu em bạn không muốn thực hiện nghĩa vụ được giao trong di chúc thì mẹ bạn
Ông bà tôi có 9 người con nhưng 1 người hy sinh trong kháng chiến. Khi ông bà tôi mất có để lại một số tài sản là: 46.000.000đ (tiền bồi thường do thu hồi đất), 1 căn nhà ở và ruộng đất. Ông bà tôi để lại 1 bản di chúc đưa cho người con thứ 2 cầm nhưng bản di chúc không có người làm chứng. Chú út khởi kiện tại tòa án. Tòa án xét như sau: số tiền
Căn nhà ở mà bạn mua do cô N. đứng tên, do đó theo pháp luật Việt Nam, cô ấy có quyền sở hữu, định đoạt tài sản. Cô N. có quyền để lại di chúc như bạn mong muốn, nêu văn bản đó tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Dân sự về di chúc. Bạn không phải là người đứng đồng sở hữu căn nhà nên về mặt pháp lý, không có quyền can thiệp vào ý nguyện của
Theo các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân và gia đình, ngôi nhà mà vợ chồng bà đã mua và được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng bà. Do vậy, bà và chồng bà có quyền sở hữu ngang nhau đối với tài sản đó. Khi ông nhà mất đi không để lại di chúc, theo pháp luật, một nửa ngôi nhà
Trong thư bạn không nói rõ ngôi nhà cụ bà đang ở có từ bao giờ. Vì vậy chúng tôi tạm phân thành 2 trường hợp:
1. Nếu ngôi nhà có từ khi cha bạn còn sống thì theo quy định của pháp luật Việt Nam, ngôi nhà đó được xác định là tài sản chung của cha mẹ bạn. Do vậy, mẹ chỉ có quyền định đoạt một nửa tài sản đó và một phần trong phần di sản
1. Đúng như bạn trình bày thì bản di chúc của ông ngoại bản để lại không có hiệu lực toàn bộ, bởi di chúc không tuân thủ các điều kiện quy định tại Điều 656 Bộ luật Dân sự, và cụ ông còn định đoạt cả phần di sản của bà ngoại - lẽ ra phải chia theo pháp luật.
2. Trong trường hợp không có tranh chấp giữa người được hưởng thừa kế, và mọi
pháp luật. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
Các con không phân biệt trai gái, đã lập gia đình hay chưa đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Theo nguyên tắc chung, nếu người mất có di chúc thì tài sản sẽ được chia theo di chúc; nếu không có hoặc di chúc không hợp pháp, tài sản của người mất sẽ được chia theo pháp luật.
Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định cụ thể các hàng thừa kế bao
Tôi là con duy nhất trong gia đình, lúc còn khỏe mạnh cha tôi có lập di chúc để lại cho người con thứ 3 của tôi thừa kế diện tích đất là 6000 m2 (có cơ quan chức năng của Tỉnh xác nhận). Đến năm 1995 con thứ 3 của tôi qua đời nên cha tôi về sống cùng tôi. Năm 1996 cha tôi lập di chúc lần 2, trong di chúc ông nêu rõ diện tích 4000 m2 cho cháu (con
Cụ ngoại cháu có 3 người con gái và một người con nuôi. Năm cụ cháu 70 tuổi, ông bà cháu đã phá đi và xây nhà mới. Khi đó, cụ cũng đã làm di chúc để lại đất đang ở cho bà cháu (là người con thứ 2 của cụ). Di chúc do người làm chứng viết, cụ có ký tên ở dưới, và khi đó cụ cháu còn rất minh mẫn khỏe mạnh. Bà cháu sau đó (được phép của cụ) đã đi làm
Theo Điều 655 Bộ luật dân sự, di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ hai đều kiện: người lập di chúc còn minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa và cưỡng ép; nội dung di chúc không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật