Đã định cư ở nước ngoài, đứng tên mua đất ở Việt Nam được không?
Khoản 1 Điều 121 Luật Đất đai 2003 quy định:
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây thì được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam:
a) Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam;
b) Người có công đóng góp với đất nước;
c) Những nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước;
d) Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam;
đ) Các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”
Như vậy, trường hợp người bác của bạn không thuộc các trường hợp được sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất. Việc UBND phường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên người bác là không đúng theo quy định của pháp luật đất đai.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp không đúng đối tượng sử dụng đất sẽ được sử lý theo quy định tại Điều 106 Khoản 2 Điểm d Luật Đất đai 2013, cụ thể:
“2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”
Trình tự, thủ tục thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp thực hiện theo quy định tại Điều 87 Khoản 4 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.
Về hợp đồng chuyển nhượng đất đai đã ký kết vào năm 2007, do một trong các bên không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam nên được xác định là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật theo đoạn 1 và đoạn 2 Điều 128 Bộ luật Dân sự 2005:
“Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.”
Do đó, một trong cách bên của hợp đồng có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đã thực hiện là giao dịch vô hiệu. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (Khoản 2 Điều 137)
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Tăng cường công tác quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa và lễ hội mừng Xuân Ất Tỵ 2025?
- Nhiệm kỳ của Giám đốc theo tổ chức quản trị rút gọn tại Hợp tác xã là bao lâu?
- Tra cứu kết quả thi HSG quốc gia 2024-2025 ở đâu?
- Bán pháo hoa Bộ Quốc phòng có bị phạt không?
- Kịch bản chương trình họp phụ huynh cuối học kì 1 các cấp năm 2024 - 2025?