Xác định tình trạng hôn nhân của người để lại di sản

Khi làm thủ tục thừa kế cần phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian trước khi người đó chết không?

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho người để lại di sản là rất cần thiết để xác định những người thừa kế theo pháp luật của người đó hoặc xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự. Cụ thể như sau:

1. Trường hợp thừa kế theo pháp luật

Hàng thừa kế và người thừa kế được quy định tại Ðiều 676 BLDS:

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Từ quy định nêu trên thì khi chia thừa kế theo pháp luật, người vợ/người chồng của người để lại di sản luôn luôn được xác định là một trong những người đầu tiên hưởng di sản.

2. Trường hợp thừa kế theo di chúc

Trong trường hợp người để lại di sản có để lại di chúc để chỉ định những người hưởng di sản thì người chồng/người vợ vẫn luôn luôn có quyền được hưởng di sản đó cho dù người đó có được chỉ định trong di chúc hay không (trừ trường hợp quy định tại Điều 642, khoản 1 Điều 643 BLDS).

Quy định trên được thể hiện tại Điều 669 BLDS: Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Ðiều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Ðiều 643 BLDS:

- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

- Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

Từ hai trường hợp nêu trên (thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật) có thể thấy:

- Nếu tại thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết) mà chồng/vợ của người để lại di sản vẫn còn sống thì đương nhiên người chồng/người vợ luôn luôn được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc (trừ trường hợp quy định tại Điều 642, khoản 1 Điều 643 BLDS).

- Nếu tại thời điểm mở thừa kế, người để lại di sản có tình trạng hôn nhân là độc thân (ví dụ: người chồng/người vợ đã chết; hoặc vợ chồng đã ly hôn (bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật); hoặc người để lại di sản chưa kết hôn với ai) thì cần phải có giấy tờ chứng minh.

Vậy, việc xác định tình trạng hôn nhân của người để lại di sản tính đến thời điểm người đó chết là cần thiết và rất quan trọng để xác định đúng và đủ người thừa kế.

Hỏi đáp mới nhất
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Thư Viện Pháp Luật
853 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào