BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số:
27-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 8 năm 2008
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ X
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
Trong mọi thời đại, tri thức
luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo
và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt
quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
Mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy
đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng
lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Trí thức là những người lao động
trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực
tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm
tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam xuất thân từ
nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng
thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài
nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt
Nam ở nước ngoài.
Ðội ngũ trí thức nước ta có tinh
thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp
cách mạng do Ðảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức
nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trí thức nước ta còn nhiều mặt hạn chế cần sớm được khắc phục để đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
I. THỰC TRẠNG
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CỦA ÐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TỪ
ĐỔI MỚI (NĂM 1986) ĐẾN NAY
1. Sự phát triển
và đóng góp của đội ngũ trí thức
Cùng với sự phát triển của đất
nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp
phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
từng bước xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ðội ngũ trí thức đã đóng góp
tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát
triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới;
trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng
tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất
lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ
của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
Bộ phận trí thức tham gia công
tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Ðảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Ðội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính
năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế. Ða số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; nhiều người
đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước.
2. Công tác xây
dựng đội ngũ trí thức
Trong những năm đổi mới, Ðảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển
nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực
đời sống xã hội.
Ðảng đã ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, văn hóa và văn nghệ, chính sách đối với người Việt Nam ở nước
ngoài... để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức.
Nhà nước đã thực hiện các chính
sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ
chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát
huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải
thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý;
thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài...
Nhìn chung, công tác trí thức của
Ðảng và Nhà nước trong những năm qua đã thể hiện coi trọng vị trí, vai trò của
trí thức, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức và các hội của
trí thức hoạt động, phát triển.
3. Những hạn chế,
yếu kém và nguyên nhân
Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đội ngũ trí thức
nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém.
Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những mặt bất
hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính... Trí thức tinh hoa và hiền tài còn
ít, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa
có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu vực và quốc tế.
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu
khoa học chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh
và đời sống.
Trong khoa học tự nhiên và công
nghệ, số công trình được công bố ở các tạp chí có uy tín trên thế giới, số sáng
chế được đăng ký quốc tế còn quá ít.
Trong khoa học xã hội và nhân
văn, nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hướng, chưa giải đáp
được nhiều vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra, chưa có những công trình sáng tạo
lớn, nhiều công trình còn sơ lược, sao chép.
Trong văn hóa, văn nghệ còn ít
tác phẩm có giá trị xứng tầm với những thành tựu vẻ vang của đất nước, sự sáng
tạo và hy sinh lớn lao của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn nhiều hạn chế.
Trình độ của trí thức ở nhiều cơ
quan nghiên cứu, trường đại học tụt hậu so với yêu cầu phát triển đất nước và
so với một số nước tiên tiến trong khu vực, nhất là về năng lực sáng tạo, khả
năng thực hành và ứng dụng, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ và sử dụng công
nghệ thông tin.
Một bộ phận trí thức, kể cả người
có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm,
né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề
nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng
cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức không thường xuyên
học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thiếu chí khí và hoài bão. Nhiều
trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý
chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn.
Những hạn chế, yếu kém của đội
ngũ trí thức do nhiều nguyên nhân. Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng lạc
hậu, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp; việc áp dụng khoa học và công nghệ
vào sản xuất và đời sống chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ, văn hóa và
văn nghệ đang trong quá trình hình thành...
Về khách quan, chưa có đầy đủ điều
kiện để phát huy hết năng lực sáng tạo của trí thức. Một bộ phận trí thức, ở mức
độ khác nhau còn chịu ảnh hưởng các mặt hạn chế của tư tưởng phong kiến, của nền
kinh tế tiểu nông và cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài,
của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn kinh
tế đang chuyển đổi.
Công tác trí thức của Ðảng và
Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Ðến nay vẫn chưa có chiến lược tổng
thể về đội ngũ trí thức.
Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội chưa thể hiện quan điểm lấy khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
làm “quốc sách hàng đầu”, chưa gắn với các giải pháp phát huy vai trò đội ngũ
trí thức trên nhiều lĩnh vực.
Nhiều chủ trương, chính sách của
Ðảng và Nhà nước về công tác trí thức chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực
hiện thiếu nghiêm túc. Một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; có
chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho
việc thực hiện có kết quả.
Nhìn chung, các chính sách đối với
trí thức còn thiếu đồng bộ, còn nặng tính hành chính và dấu ấn của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, chậm đổi mới.
Một số cán bộ đảng và chính quyền
chưa nhận thức đúng về vai trò, vị trí của trí thức; đánh giá, sử dụng trí thức
không đúng năng lực và trình độ, ngay cả với những trí thức đầu ngành, dẫn đến
tâm tư nặng nề trong đội ngũ trí thức.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý
chỉ chú trọng đến vốn tiền, vật chất mà chưa coi trọng nguồn nhân lực có trình
độ cao. Vẫn còn hiện tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không thực sự lắng nghe,
thậm chí quy chụp, nhất là khi trí thức phản biện những chủ trương, chính sách,
những đề án, dự án do các cơ quan lãnh đạo và quản lý đưa ra.
Hệ thống chính sách về trí thức
còn thiếu và chưa phù hợp; tổ chức các hội của trí thức ở Trung ương và địa
phương chưa đủ mạnh để tập hợp trí thức. Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản
lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp lý, thiếu chính
sách và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát
triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt động chuyên môn, nghề
nghiệp; thiếu những cơ chế thích hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng
dụng nhân tài.
Các chủ trương, chính sách đào tạo
đội ngũ trí thức chưa đồng bộ. Hệ thống giáo dục còn lạc hậu, chưa đủ sức đáp ứng
nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao. Thiếu chính sách
đủ mạnh thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giải quyết những
vấn đề của đất nước và tạo điều kiện để trí thức trong nước được giao lưu, hợp
tác, làm việc ở các trung tâm khoa học và văn hóa lớn trên thế giới.
Cơ chế và chính sách tài chính
hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ còn
nhiều bất cập, gây khó khăn, dẫn đến một số trường hợp trí thức phải tìm cách đối
phó, làm giảm chất lượng của các công trình sáng tạo, lãng phí thời gian, công
sức, tiền của, ảnh hưởng tới uy tín và danh dự của trí thức.
Những hạn chế, khuyết điểm trên
là do sự yếu kém của một số cấp ủy đảng, chính quyền trong lãnh đạo và chỉ đạo
thực hiện công tác trí thức; sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý bảo đảm môi
trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo; những định kiến và chủ nghĩa kinh
nghiệm trong một bộ phận cán bộ đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân
chủ trong quan hệ với trí thức, thậm chí xem thường trí thức.
II. MỤC TIÊU,
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
A. Mục tiêu
Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ
trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các
nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước
với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí.
Trong những năm trước mắt, hoàn
thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm
phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức; xây dựng chiến lược phát
triển đội ngũ trí thức đến năm 2020.
B. Quan điểm
chỉ đạo
1. Trí thức Việt Nam là lực lượng
lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ
trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
2. Xây dựng đội ngũ trí thức là
trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách
nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn
phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị,
đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc.
3. Thực hành dân chủ, tôn trọng
và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí
thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có
chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.
C. Nhiệm vụ và
giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
1. Hoàn thiện môi trường và điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức
- Ban hành quy chế dân chủ trong
hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ
sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định,
phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác
nhau cho các lĩnh vực nói trên, đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền
tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi
chuyển giao phát minh, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống
hiến.
- Ban hành quy định về quyền hạn,
điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách nhiệm của trí thức đầu ngành,
các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao, các tổng công trình sư trong điều
hành chuyên môn, nghiệp vụ.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế hoạt động,
tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của
trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương,
chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xóa bỏ sự coi nhẹ,
thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng.
- Nhà nước đầu tư xây dựng một số
khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại
học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của
trí thức trong và ngoài nước.
- Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc
tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ.
2. Thực hiện chính sách trọng dụng,
đãi ngộ và tôn vinh trí thức
- Ðổi mới công tác cán bộ của Ðảng
và Nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử
và sử dụng cán bộ là trí thức, khắc phục tình trạng hành chính hóa, thiếu công
khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ
quản lý.
Xây dựng và thực hiện cơ chế tạo
điều kiện để trí thức phát triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả
cống hiến của mình cho đất nước.
- Thực hiện đúng và đầy đủ chủ
trương phân cấp và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học
và công nghệ, các trường đại học trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức
danh khoa học trên cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước; trong việc sử dụng kinh
phí, sử dụng trí thức đầu ngành theo nhu cầu của đơn vị, nghiên cứu ban hành
quy định tuổi lao động cho phù hợp.
- Rà soát các chính sách hiện có
và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi
ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của
mình.
- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm
túc các cơ chế, chính sách để động viên và tiếp tục sử dụng về chuyên môn, nghiệp
vụ đối với những trí thức có trình độ cao, năng lực và sức khỏe đã hết tuổi lao
động.
- Có chính sách ưu đãi cụ thể về
lương, điều kiện làm việc, sinh hoạt... đối với trí thức làm việc ở vùng kinh tế,
xã hội khó khăn, trí thức là người dân tộc thiểu số, người khuyết tật...; đổi mới,
nâng cao chất lượng xét chọn và nâng mức thưởng đối với các danh hiệu cao quý
và các giải thưởng Nhà nước dành cho trí thức.
- Xây dựng chính sách thu hút, tập
hợp trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước tích cực tham gia hiến kế, hợp tác
đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới... Trọng dụng, tôn vinh
những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
3. Tạo chuyển biến căn bản trong
đào tạo, bồi dưỡng trí thức
- Tiến hành cải cách giáo dục từ
cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu
cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào
tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Thực hiện đa dạng hóa các
loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước.
- Tăng cường hoạt động nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với
nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học
ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các
trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở
đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
- Thực hiện tốt việc đưa cán bộ,
học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng
các chuyên ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết.
- Trên cơ sở bảo đảm chất lượng
đào tạo đại trà, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài
năng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất
nước.
- Có chính sách và kế hoạch cụ
thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã
có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí
thức nữ.
- Áp dụng chính sách định kỳ và
cơ chế bảo đảm chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ trí thức;
khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp
ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn.
4. Ðề cao trách nhiệm của trí thức,
củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức
- Xây dựng quy chế, cơ chế thông
tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước
và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương.
- Tăng cường sinh hoạt tư tưởng,
phát huy trách nhiệm đội ngũ trí thức trong rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát
huy những phẩm chất tốt đẹp, như lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân
văn, đạo đức, lối sống...
- Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện
đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có
hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng
cao dân trí.
- Có cơ chế, chính sách huy động
trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc
đào tạo đội ngũ kế cận.
- Nâng cao nhận thức của các cấp
ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc về vị trí, vai trò của các hội trí thức,
đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật, Liên hiệp các Hội Văn học
và nghệ thuật, trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và
trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
- Củng cố, phát triển, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học
và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam từ Trung
ương đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và
nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức.
- Tạo điều kiện để các hội trí
thức thực hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát hoạt
động nghề nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính.
5. Nâng cao chất lượng công tác
lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức
- Nâng cao nhận thức của các cấp
ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xác định công tác
trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
- Làm tốt công tác tư tưởng để
toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức; để đội ngũ trí thức nhận
thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc, đoàn kết phấn đấu,
lao động sáng tạo, hoàn thành tốt trọng trách trong thời kỳ mới. Hình thành ý
thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi “hiền tài là nguyên khí
của quốc gia”, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”.
- Phát huy tài năng và trọng dụng
những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý là đảng viên và không phải
là đảng viên trong các cơ quan nhà nước và tổ chức sự nghiệp.
- Trong quản lý và sử dụng trí
thức, các cấp ủy đảng và chính quyền nghiên cứu, thực hiện các phương thức phù
hợp, không áp dụng máy móc cách quản lý hành chính để phát huy cao nhất năng lực
cống hiến của trí thức.
- Những người đứng đầu cấp ủy đảng
và chính quyền các cấp có trách nhiệm định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối
thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng.
- Các cấp ủy đảng từ Trung ương
đến cơ sở có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế
hóa các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các chính sách, chế độ, chế
tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Các ban của Ðảng, ban cán sự
đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy tổ chức
nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền
trong nhân dân; có chương trình hành động cụ thể đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
2. Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự
đảng Chính phủ chỉ đạo kịp thời thể chế hóa và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ,
xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020, đồng thời rà soát hệ thống luật pháp
và các văn bản liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn
vinh trí thức để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới phù hợp với Nghị quyết.
Ðảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Ðào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ, Ðảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ
thuật Việt Nam, Ðảng đoàn Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật
Việt Nam và các bộ, ngành liên quan có chương trình hành động cụ thể, tổ chức
thực hiện Nghị quyết nhằm xây dựng đội ngũ trí thức có chất lượng thuộc bộ,
ngành của mình.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương
giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư làm đầu mối hướng dẫn, thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, đôn đốc, định kỳ sơ kết, báo cáo tình hình và đề xuất ý kiến bổ sung, điều
chỉnh các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết.
|
T/M.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nông Đức Mạnh
|