BỘ
TÀI CHÍNH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------
|
Số: 17926/BTC-TCHQ
V/v xử lý vướng mắc khi áp dụng văn bản quy
phạm pháp luật
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2009
|
Kính
gửi: Bộ Tư pháp
Trong quá trình tổ chức thực hiện
Luật quản lý thuế và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật quản
lý thuế, có phát sinh một số vướng mắc liên quan đến nguyên tắc áp dụng văn bản
quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 83 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Để việc xử lý được chính xác, đảm bảo thống nhất
trong quá trình thực hiện, Bộ Tài chính xin trao đổi với quý Bộ như sau:
1. Vướng mắc về xác định thời hiệu
thi hành văn bản quy phạm pháp luật:
1.1. Theo quy định của Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản
quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời Điểm mà văn bản
đó đang có hiệu lực. Và theo quy định của Luật quản lý thuế thì thời Điểm Luật
này có hiệu lực là từ 01/7/2007. Do hành vi liên quan đến công tác quản lý thuế
thì có nhiều như: hành vi khai thuế, hành vi vi phạm pháp luật thuế, hành vi ấn
định thuế, hành vi chậm nộp thuế... Có những trường hợp một mặt hàng nhập khẩu
thuộc một tờ khai hải quan cùng có các hành vi trên xảy ra trong Khoảng thời
gian Luật quản lý thuế có hiệu lực nhưng cũng có những trường hợp hành vi khai
thuế xảy ra không cùng các hành vi khác (khai thuế trước thời Điểm Luật quản lý
thuế có hiệu lực các hành vi khác xảy ra khi Luật quản lý thuế có hiệu lực) mà
pháp luật quy định việc đối xử đối với các hành vi này trong Luật quản lý thuế
khác với Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nên dẫn đến có các cách hiểu khác
nhau, áp dụng pháp Luật khác nhau (ví dụ: (i) trước 01/7/2007 thiếu thuế, gian
lận thuế chỉ bị truy thu trong vòng 05 năm theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu; từ 01/7/12007 phải nộp đủ tiền thuế thiếu không giới hạn thời hiệu theo
Luật quản lý thuế, (ii) trước 01/7/2007 hành vi chậm nộp tiền thuế phải nộp phạt
không giới hạn thời hiệu 05 năm theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, từ
01/7/2007 hành vi chậm nộp tiền thuế có thời hiệu xử phạt 05 năm theo Luật quản
lý thuế).
Để đảm bảo việc xử lý đúng pháp
luật, căn cứ vào đặc Điểm của hoạt động quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu là phát sinh theo thời Điểm đăng ký tờ khai, Bộ Tài chính dự kiến
hướng dẫn cơ quan hải quan thực hiện áp dụng các quy định của Luật quản lý thuế
đối với những tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đăng ký với cơ quan hải
quan từ 11/7/2007 trở về sau. Cơ sở pháp lý để áp dụng pháp luật theo nguyên tắc
này là:
- Luật quản lý thuế có hiệu lực
từ 01/7/2007;
- Điều 14 Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định thời Điểm tính thuế là ngày đăng ký
tờ khai hải quan (được hiểu gồm cả chính sách thuế áp dụng theo quy định hiện
hành tại thời Điểm đăng ký tờ khai hải quan);...
- Điều 15, 16
Luật Hải quan quy định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phải làm thủ tục hải
quan, thủ tục hải quan chính thức bắt đầu bằng việc cơ quan hải quan tiếp nhận,
đăng ký tờ khai hải quan (cấp số, ngày).
Cách hiểu này thống nhất với quy
định về thời Điểm tính thuế, coi hành vi xuất khẩu, nhập khẩu là "hành vi
xảy ra" theo Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để minh bạch, công bằng trong việc áp dụng Luật quản lý thuế (người nộp
thuế biết việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của mình chịu sự Điều chỉnh của hệ
thống pháp luật nào).
1.2. Tuy nhiên, cũng có ý kiến
khác cho rằng:
- Những hành vi vi phạm pháp luật
về thuế xảy ra từ sau 01/7/2007 thuộc các tờ khai hải quan đăng ký trước
01/7/2007, những hành vi vi phạm pháp luật về thuế xảy ra trước 01/7/2007 thuộc
các tờ khai hải quan đăng ký trước 01/7/2007 nhưng sau 01/7/2007 cơ quan hải
quan kiểm tra, phát hiện khai thiếu thuế, gian lận thuế thì cũng áp dụng Luật
quản lý thuế.
- Trường hợp đăng ký tờ khai hải
quan trước 01/7/2007 nhưng sau 01/7/2007 mới đề nghị được khai bổ sung, hoàn
thuế, gia hạn nộp thuế, xoá nợ thuế,... thì cũng được áp dụng theo Luật quản lý
thuế.
- Cách hiểu khác này xuất phát từ
quan Điểm cho rằng "hành vi xảy ra" có thể là một trong các hành vi:
(i) về phía người nộp thuế: hành vi nhằm thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm; hành
vi nhằm đề nghị được hưởng quyền lợi; hành vi vi phạm; (ii) về phía cơ quan hải
quan: hành vi nhằm thực hiện trách nhiệm; hành vi nhằm thực hiện quyền hạn,
hành vi nhằm xác lập quan hệ hành chính (tiếp nhận hồ hơ), hành vi nhằm giải
quyết quan hệ hành chính (ra quyết định hành chính).
Việc hiểu như vậy dẫn đến tình
trạng áp dụng các hệ thống văn bản khác nhau cho cùng một lô hàng xuất khẩu, nhập
khẩu, áp dụng các hệ thống văn bản khác nhau cho các lô hàng làm thủ tục nhập
khẩu cùng thời Điểm, trong khi hệ thống văn bản theo Luật quản lý thuế có nhiều
nội dung mới thay thế hệ thống pháp luật về thuế trước 01/7/2007.
2. Vướng mắc về áp dụng quy định
chi tiết trong Thông tư:
Một thông tư có thể hướng dẫn
nhiều Luật, Nghị định (ví dụ: Điều 24 Thông tư 79/2009/TT-BTC hướng dẫn cụ thể Điều 47 Luật quản lý thuế, Điều 22 Nghị định
số 85/2007/NĐ-CP, Điều 68 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002),
nhưng các Luật này có hiệu lực vào các thời Điểm khác nhau và thời Điểm có hiệu
lực của Thông tư không trùng với thời Điểm thực hiện các Luật này, do đó có ý
kiến cho rằng cần làm rõ hiệu lực áp dụng văn bản quy phạm pháp luật.
Theo quy định thì những vấn đề
được hướng dẫn trong thông tư nếu có chi tiết hơn Luật, Nghị định vẫn phải áp dụng
theo hiệu lực của Luật, Nghị định. Tuy nhiên, phương án này sẽ dẫn đến thiếu
minh bạch trong thực hiện (thông tư chưa hướng dẫn vẫn phải thực hiện), mâu thuẫn
về hiệu lực ghi trong thông tư và hiệu lực thực tế theo luật nghị định, gây khó
khăn cho thực hiện hồi tố những nội dung quy định hướng dẫn trong thông tư.
3. Vướng mắc về xác định thời hiệu
xử phạt hành vi chậm nộp tiền thuế:
3.1. Điều 110
Luật quản lý thuế quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi chậm nộp tiền thuế là 5 năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện.
3.2. Từ đó có thể có 02 cách hiểu
khác nhau:
- Cách hiểu 1: Tính từ ngày bắt
đầu chậm nộp đến ngày kết thúc chậm nộp: nếu quá 5 năm thì không phải nộp toàn
bộ số tiền phạt chậm nộp.
- Cách hiểu 2: Tính từ ngày bắt
đầu chậm nộp đến ngày kết thúc chậm nộp: những ngày chậm nộp còn trong thời hạn
5 năm thì phải nộp phạt, những ngày chậm nộp ngoài thời hạn 5 năm thì không phải
nộp phạt.
Ví dụ minh hoạ:
Ngày bắt đầu chậm nộp là
01/01/2008, ngày nộp đủ thuế (kết thúc chậm nộp) là 01/01/2014. Tình huống này:
Nếu theo cách hiểu 1 thì từ
01/01/2008 đến 01/01/2014 đã quá 05 năm, người nộp thuế không phải nộp tiền phạt
chậm nộp.
Nếu theo cách hiểu 2: Số ngày chậm
nộp từ 01/01/2008 đến 01/01/2009 đã quá thời hiệu xử phạt 05 năm, do đó không bị
xử phạt, số ngày chậm nộp từ 02/01/2009 đến 01/01/20014 còn trong thời hiệu xử
phạt, do đó bị xử phạt.
Để hạn chế tình trạng doanh nghiệp
cố tình chây ỳ không nộp thuế đúng hạn, chậm nộp quá 05 năm để không bị xử phạt
cho cả quãng thời gian 05 năm, Bộ Tài chính đề nghị thống nhất áp dụng Điều 110 Luật quản lý thuế theo nguyên tắc:
+ Đối với những tờ khai hải quan
đăng ký trước 01/7/2007 thì bị phạt chậm nộp không bị hạn chế thời gian (không
áp dụng thời hiệu xử phạt 05 năm).
+ Đối với nhũng tờ khai hải quan
đăng ký sau 01/7/2007 việc phạt chậm nộp bị khống chế về thời gian phạt chậm nộp
là 05 năm, trong đó những ngày chậm nộp còn trong thời hạn 5 năm thì phải nộp
phạt, những ngày chậm nộp ngoài thời hạn 5 năm thì không phải nộp phạt.
+ Số tiền thuế thiếu, số tiền
thuế trốn, số tiền thuế gian lận phát hiện sau 01/7/2007 phải nộp đủ không giới
hạn thời hiệu truy thu trong vòng 01 năm hoặc 05 năm như quy định tại Điều 23 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
4. Vướng mắc về xác định yếu tố
lỗi do "nhầm lẫn": Vướng mắc này liên quan đến áp dụng quy định về
truy thu trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nghị định số 149. Tuy
nhiên, quy định này đến nay đã được thay thế bằng quy định về ấn định thuế (Điểm a Khoản 1 Điều 39 Luật QLT) và quy định về nộp tiền thuế
trong trường hợp vi phạm pháp luật thuế (Khoản 3 Điều 110 Luật
QLT). Vướng mắc phát sinh trong một số trường hợp kiểm tra sau thông quan
những lô hàng đăng ký tờ khai hải quan trước 01/7/2007.
4.1. Nội dung vướng mắc là:
Điều 21 NĐ
149/2005[NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ quy định truy thu thuế đối với hành vi gian
lận, trốn thuế và hành vi nhầm lẫn trong kê khai, tính thuế, nộp thuế.
Trong thực tế có hành vi không bị
xử phạt theo chế tài đối với vi phạm gian lận, trốn thuế nhưng bị xử phạt về
hành vi khai sai.
Vậy khai sai không bị xử phạt về
hành vi gian lận, trốn thuế thì có được đương nhiên coi là do nhầm lẫn không?
4.2. Về vấn đề này có thể có 3
quan Điểm:
Quan Điểm 1: khai sai nhưng đã
không tự phát hiện ra những sai sót, nhầm lẫn và chủ động khai bổ sung, nộp số
tiền thuế còn thiếu, do vậy bị coi là cố ý gian lận, trốn thuế.
Quan Điểm này phù hợp với Khoản 6 Điều 108 Luật quản lý thuế. Tuy nhiên, trước khi Luật
quản lý thuế có hiệu lực thì quan Điểm này thiếu tính minh bạch (Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trước khi có Luật quản lý thuế chưa quy định), Bộ Tài chính ủng hộ quan Điểm
này.
- Quan Điểm 2: khai sai không bị
xử phạt về hành vi gian lận; trốn thuế thì đương nhiên coi là do nhầm lẫn vì không
cố ý gian lận, trốn thuế....
Quan Điểm này trên cơ sở phương
pháp loại trừ (Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ quy định truy thu thuế đối
với hành vi gian lận, trốn thuế và hành vi nhầm lẫn, cơ quan chức năng không chứng
minh được người nộp thuế gian lận, trốn thuế thì phải coi là do nhầm lẫn).
- Quan Điểm 3: người nộp thuế
khai sai nhưng không tự chứng minh được do nhầm lẫn thì bị coi là gian lận, trốn
thuế.
Quan Điểm này dẫn đến khó thực
hiện đúng và thống nhất dễ gây tranh cãi giữa người nộp thuế và cơ quan hải
quan vì khái niệm "nhầm lẫn" không được giải thích chính thức trong
Luật, Nghị định.
Để việc áp dụng pháp luật được
thống nhất, đúng quy định, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn xử lý
các vướng mắc nêu trên.
Trân trọng cảm ơn sự phối hợp của
Quý Bộ./.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đỗ Hoàng Anh Tuấn
|