BỘ
XÂY DỰNG
CỤC GIÁM ĐỊNH NHÀ NƯỚC VỀ CLCTXD
*****
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
******
|
Số: 130/GĐ-GĐ2
V/v Giải thích và hướng dẫn thực hiện Thông
tư 11/2005/TT-BXD
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 04 năm 2006
|
Kính
gửi: Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh
Được sự ủy quyền của lãnh đạo Bộ
Xây dựng, trả lời công văn số 8932/SXD-QLCL ngày 20/12/2005 của Quý cơ quan về
việc hướng dẫn thực hiện công tác chứng nhận chất lượng, sau khi nghiên cứu, Cục
Giám định nhà nước về CLCTXD giải đáp các thắc mắc như sau:
1. Về sự khác biệt giữa công việc
chứng nhận chất lượng và việc quản lý dự án, giám sát thi công xây dựng; Sự độc
lập của tổ chức chứng nhận chất lượng đối với Chủ đầu tư, tư vấn quản lý dự án
và tư vấn giám sát (trả lời ý kiến 9, 14)
Theo quy định tại Điều
45 của Luật Xây dựng, nội dung quản lý dự án bao gồm quản lý chất lượng, khối
lượng, tiến độ, an toàn lao động và an toàn môi trường xây dựng. Theo quy định
tại Điều 87 của Luật Xây dựng, nội dung giám sát thi công
xây dựng là theo dõi, kiểm tra về chất lượng, khối lượng, tiến độ, an toàn lao
động và vệ sinh môi trường.
Về thực chất giám sát thi công xây
dựng là một phần việc của quản lý dự án. Cũng theo quy định tại các Điều này,
chủ đầu tư có thể tự thực hiện việc quản lý dự án hoặc giám sát thi công xây dựng
khi thành lập các Ban quản lý trực thuộc có đủ Điều kiện năng lực hoặc thuê tư
vấn quản lý dự án hoặc giám sát thi công xây dựng.
Tư vấn giám sát thi công xây dựng
có nhiệm vụ giám sát thường xuyên và liên tục, nghiệm thu công việc, giúp chủ đầu
tư giải quyết các vấn đề kỹ thuật phát sinh trong quá trình thi công, kiểm soát
chất lượng, tiến độ, khối lượng, an toàn lao động và vệ sinh môi trường trong
quá trình thi công xây dựng. Trong khi đó theo quy định tại Nghị định
179/2004/NĐ-CP ngày 21/10/2004 của Chính phủ Quy định quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm, hàng hóa và theo hướng dẫn tại Thông tư số 11/2005/TT-BXD ngày
14/7/2005 của Bộ Xây dựng (Thông tư 11) thì chứng nhận chất lượng là sự xác nhận
của tổ chức chứng nhận về chất lượng công trình. Tổ chức chứng nhận chất lượng
không chịu trách nhiệm về chất lượng công trình mà chỉ phản ánh trung thực về
thực trạng chất lượng công trình.
Thông thường tổ chức chứng nhận chất
lượng đại diện cho lợi ích của người sử dụng công trình, của cộng đồng xã hội
và chịu sự Điều Tiết của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng. Vì bản chất và Mục
đích của việc chứng nhận chất lượng như vậy, tốt nhất, tổ chức chứng nhận chất
lượng cần độc lập với các chủ thể tạo ra chất lượng công trình gồm nhà thầu thi
công xây dựng, tư vấn thiết kế, chủ đầu tư, tư vấn quản lý dự án hoặc tư vấn
giám sát thi công xây dựng công trình.
Nội dung kiểm tra để chứng nhận chất
lượng chủ yếu tập trung vào các công đoạn: kiểm tra thiết kế; kiểm tra năng lực
của các chủ thể tham gia xây dựng công trình; kiểm tra sự tuân thủ các quy định
về quản lý chất lượng công trình, xác định tính trung thực của kết quả nghiệm
thu của chủ đầu tư thông qua việc đối chiếu mang tính xác xuất giữa kết quả
nghiệm thu với thực trạng chất lượng của đối tượng nghiệm thu.
Về nguyên tắc, tổ chức chứng nhận
chất lượng có thể được thực hiện việc thẩm tra thiết kế và thí nghiệm kiểm định
chất lượng, tuy nhiên tổ chức chứng nhận chất lượng không thực hiện khảo sát hoặc
lập dự án đầu tư.
2. Chứng nhận chất lượng cho các
đối tượng công trình đã xây dựng xong hoặc đang xây dựng dở dang tại thời điềm
Thông tư 11 có hiệu lực (Trả lời ý kiến 1, 2)
a. Đối với các công trình đã được
xây dựng xong và được nghiệm thu trước ngày Thông tư 11 có hiệu lực (15/8/2005)
thì không phải thực hiện chứng nhận chất lượng theo quy định của thông tư này.
b. Đối với các công trình đã được
xây dựng xong nhưng chưa được nghiệm thu hoặc đang xây dựng dở dang thuộc đối
tượng quy định tại Khoản a, Điều 2, Mục I của Thông tư 11
thì phải tiến hành chứng nhận chất lượng. Phương thức thực hiện việc chứng nhận
chất lượng là chủ đầu tư thuê tổ chức tư vấn đủ Điều kiện năng lực như quy định
tại Điều 5, Mục II của Thông tư 11 tiến hành xem xét chi Tiết
toàn bộ hồ sơ hoàn thành công trình, đối chiếu với thiết kế và các yêu cầu kỹ
thuật đặt ra cho công trình, yêu cầu chủ đầu tư làm rõ hoặc phúc tra chất lượng
nếu thấy cần thiết.
Trường hợp không có tổ chức tư vấn
nào nhận công việc chứng nhận chất lượng (vì lý do công trình hoặc phần lớn các
bộ phận công trình đã được xây dựng xong) thì chủ đầu tư có thể báo cáo cho cơ
quan quản lý nhà nước về xây dựng ở địa phương để giải quyết. Đối với các trường
hợp này, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng ở địa phương tổ chức kiểm tra
công tác quản lý chất lượng và hồ sơ hoàn thành công trình như quy định tại
Thông tư số 12/2005/TT-BXD. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, kết hợp xem xét thực
trạng công trình và cam kết của Chủ đầu tư về chất lượng công trình, cơ quan quản
lý nhà nước về xây dựng ở địa phương ra văn bản xác nhận sự tuân thủ các quy định
về quản lý chất lượng đối với các chủ thể tham gia xây dựng công trình và chấp
thuận cam kết của chủ đầu tư về chất lượng công trình, trong đó nói rõ các tiêu
chí về chất lượng như đã quy định tại Thông tư 11.
c. Đối với các công trình không thuộc
đối tượng bắt buộc phải chứng nhận chất lượng thì chỉ chứng nhận chất lượng khi
có các bên hữu quan yêu cầu như quy định tại Khoản b, Điều 2, Mục
I của Thông tư 11.
3. Kiểm tra hồ sơ thiết kế và
yêu cầu phúc tra chất lượng của tổ chức chứng nhận chất lượng (trả lời ý kiến
1, 2, 8)
a. Kiểm tra hồ sơ thiết kế:
Đối với các đối tượng công trình bắt
buộc phải có chứng nhận chất lượng thì tổ chức chứng nhận chất lượng cần xem
xét đánh giá sự phù hợp của thiết kế so với tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng cho
công trình. Nội dung kiểm tra hồ sơ thiết kế tập trung vào các tiêu chí an toàn
của công trình như quy định tại Điều 3, Mục I của Thông tư 11.
Hồ sơ thiết kế được kiểm tra là thiết kế kỹ thuật trong thiết kế 3 bước, thiết
kế bản vẽ thi công trong thiết kế 2 bước và 1 bước.
Phương thức thực hiện là xem xét hồ
sơ thiết kế, kết quả thẩm tra thiết kế (nếu có) và yêu cầu các bên có liên quan
làm rõ các vấn đề còn nghi vấn về sự an toàn của công trình và sự phù hợp với
tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng cho công trình. Công việc kiểm tra hồ sơ thiết kế
của tổ chức chứng nhận chất lượng trong trường hợp này không trùng lặp với công
việc thẩm tra thiết kế của tư vấn giúp chủ đầu tư trước khi phê duyệt thiết kế.
Tổ chức chứng nhận chất lượng xác nhận chất lượng thiết kế trên cơ sở kết quả
thẩm tra thiết kế của Chủ đầu tư (hoặc của tư vấn) và sự kiểm tra trực tiếp của
mình.
Để tiện cho tiến trình thiết kế và
thi công xây dựng công trình được thuận lợi, việc kiểm tra hồ sơ thiết kế của tổ
chức chứng nhận chất lượng nên được thực hiện ngay trong giai đoạn chủ đối tượng
phê duyệt thiết kế. Về nguyên tắc, Chủ đầu tư cũng có thể giao cho tổ chức chứng
nhận chất lượng thẩm tra thiết kế trước khi phê duyệt.
Đối với công trình được chứng nhận
chất lượng khi có yêu cầu, việc kiểm tra hồ sơ thiết kế đối với đối tượng công
trình này tùy thuộc vào yêu cầu của bên có yêu cầu chứng nhận chất lượng. Trường
hợp yêu cầu phải chứng nhận chất lượng công trình phù hợp với tiêu chuẩn và quy
chuẩn, tổ chức chứng nhận chất lượng cần kiểm tra hồ sơ thiết kế như đã giải
thích ở trên. Trường hợp chỉ yêu cầu chứng nhận chất lượng phù hợp với thiết kế
được duyệt thì tổ chức chứng nhận chất lượng không bắt buộc phải kiểm tra hồ sơ
thiết kế. Tuy nhiên nếu phát hiện các sai sót của thiết kế thì tổ chức chứng nhận
vẫn có trách nhiệm báo với chủ đầu tư.
b. Phúc tra chất lượng công trình:
Trong quá trình chứng nhận, nếu
phát hiện thấy các vấn đề còn nghi vấn về chất lượng công trình, tổ chức chứng
nhận chất lượng có quyền yêu cầu chủ đầu tư giải thích hoặc tổ chức phúc tra chất
lượng nhằm làm rõ thực trạng về chất lượng. Việc đưa ra các nghi vấn về chất lượng
công trình phải có cơ sở xác đáng.
Trước hết tổ chức chứng nhận chất
lượng cần xem xét kỹ thực trạng chất lượng công trình, hồ sơ nghiệm thu bộ phận,
hạng Mục công trình và công trình do chủ đầu tư cùng các bên có liên quan lập;
đối chiếu với yêu cầu kỹ thuật của công trình, với thiết kế được phê duyệt và với
tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng cho công trình.
Sau đó để Chủ đầu tư và các bên có
liên quan giải trình làm rõ các nghi vấn về chất lượng đã đặt ra. Chỉ trong trường
hợp Chủ đầu tư và các bên có liên quan không tuân thủ đúng và đủ các quy định về
QLCL công trình hoặc có nghi ngờ về kết quả nghiệm thu thì mới đặt vấn đề kiểm
định, phúc tra chất lượng. Tổ chức chứng nhận chất lượng có thể trực tiếp thực
hiện việc kiểm định chất lượng công trình hoặc yêu cầu Chủ đầu tư thuê tư vấn
kiểm định khác thực hiện việc này.
4. Các tiêu chí về an toàn môi
trường và an toàn trong sử dụng, vận hành công trình (trả lời ý kiến 3)
a. An toàn về môi trường:
An toàn về môi trường ở đây được hiểu
là môi trường sống trong công trình không có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người
sống trong đó và việc xây dựng, vận hành công trình không có tác dụng xấu tới
chất lượng môi trường xung quanh. Đối với chất lượng môi trường sống trong công
trình thì đó là các chỉ số về không khí, bụi, ánh sáng, tiếng ồn, độ rung, bức
xạ, chất lượng nước sinh hoạt … phải thỏa mãn các yêu cầu của tiêu chuẩn áp dụng
cho công trình.
Tương tự như vậy là các chỉ số về
nước thải, khí thải, chất thải rắn, … thải ra từ công trình phải nhỏ hơn các
quy định của tiêu chuẩn áp dụng cho công trình. Ngoài việc xây dựng công trình
không được làm ảnh hưởng xấu tới tác động môi trường sinh thái xung quanh cũng
như không ảnh hưởng xấu tới ổn định của các công trình liền kề. Tổ chức chứng
nhận chất lượng có thể kiểm tra, so sánh kết quả đo đạc các thông số môi trường
trong và ngoài công trình so với quy định của các tiêu chuẩn hiện hành áp dụng
cho công trình được chỉ định trong hồ sơ thiết kế.
Ngoài ra việc đánh giá về an toàn
môi trường cũng phải được thực hiện theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường số
52/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005.
b. An toàn trong sử dụng, vận hành
công trình:
Các bộ phận công trình cần kiểm tra
mức độ an toàn đối với sinh mạng và sức khỏe con người trong quá trình sử dụng
là: Hệ thống cấp ga, hệ thống điện, chống sét, thang máy, thang cuốn, tời nâng,
cẩu trục, bình chịu áp lực, kính nhà cao tầng, … và bao gồm cả các chi Tiết về
cấu tạo, kiến trúc phục vụ cho người tàn tật trong sử dụng (nếu có).
Phương thức kiểm tra là tổ chức chứng
nhận chất lượng kiểm tra, so sánh chất lượng của các bộ phận, hạng Mục kể trên
so với quy định của thiết kế và các tiêu chuẩn hiện hành áp dụng cho công
trình. Ngoài ra một số thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ
sinh lao động cũng phải được kiểm tra, đăng ký lưu hành sử dụng như theo quy định
tại Thông tư số 23/2003/TT-BLĐTBXH ngày 3/11/2003 của Bộ Lao động – Thương binh
và xã hội.
5. Về Chỉ thị 04/2005/CT-BXD của
Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành ngày 8/6/2005 (trả lời ý kiến 4)
Việc ban hành Chỉ thị này tại thời Điểm
đó là nhằm Mục đích kiểm định lại chất lượng nhà ở tái định cư trước khi bàn
giao, cho phép đưa vào sử dụng. Về bản chất đây cũng là một hình thức kiểm tra,
chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình. Chỉ thị 04/2005/CT-BXD của Bộ
trưởng Bộ Xây dựng được ban hành khi chưa có Thông tư 11. Do vậy kể từ khi Thông
tư 11 có hiệu lực, việc kiểm tra xác nhận chất lượng nhà ở tái định cư được thực
hiện theo quy định của Thông tư 11.
6. Chứng nhận chất lượng đối với
công trình xây dựng quy mô nhỏ và các công trình được sửa chữa, cải tạo (trả lời
ý kiến 5, 6)
Theo quy định tại Điểm
a, Điều 2, Mục 1 của Thông tư 11, một số công trình tập trung đông người và
có khả năng gây ra thảm họa khi xảy ra sự cố cần phải có chứng nhận chất lượng ở
mọi quy mô xây dựng. Do vậy đối với các đối tượng công trình này, việc chứng nhận
chất lượng phải được thực hiện với mọi cấp công trình. Về vấn đề chi phí chứng
nhận chất lượng, đề nghị xem giải thích ở Mục 7 của công văn này.
Nếu việc sửa chữa, cải tạo hoặc
nâng cấp công trình có tác động tới sự an toàn của công trình thì cần phải thực
hiện chứng nhận chất lượng về an toàn của công trình như đối với các công trình
xây dựng mới. Tuy nhiên đối tượng chứng nhận chất lượng chỉ tập trung vào các bộ
phận công trình được sửa chữa, cải tạo hoặc nâng cấp.
7. Chi phí kiểm tra, chứng nhận
chất lượng công trình xây dựng (trả lời ý kiến 6, 7, 13)
Theo quy định tại Quyết định số
10/2005/QĐ-BXD ngày 15/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc ban hành định mức
chi phí quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, chi phí cho công việc kiểm định
và chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình được xác định bằng dự toán do
tổ chức chứng nhận lập, Chủ đầu tư phê duyệt.
Chi phí chứng nhận chất lượng được
xác định bằng dự toán vì khối lượng công việc cần phải chứng nhận chất lượng là
khác nhau áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. Ví dụ tổ chức chứng nhận chất lượng
có thể thực hiện luôn việc thẩm tra thiết kế, kiểm định chất lượng công trình
hoặc không; tần suất kiểm tra của tổ chức chứng nhận chất lượng trong quá trình
thi công có thể nhiều hoặc ít tùy thuộc mức độ tin cậy vào hệ thống quản lý chất
lượng của nhà thầu và tính trung thực của hồ sơ nghiệm thu của Chủ đầu tư ….
Theo quy định tại Thông tư số 11, đối
với công trình được đầu tư bằng vốn Nhà nước, về nguyên tắc tổng giá trị chi
phí cho công tác kiểm tra, chứng nhận chất lượng không vượt quá 35% của chi phí
giám sát. Trường hợp vượt quá giá trị này, Chủ đầu tư báo cáo người quyết định
đầu tư xem xét quyết định. Đối với các công trình đầu tư các nguồn vốn khác
(trong đó có vốn đầu tư nước ngoài) không quy định mức trần cho chi phí chứng
nhận chất lượng.
Để tiện vận dụng các định mức, đơn
giá đã có cho việc lập dự toán chứng nhận chất lượng. Sở Xây dựng lập dự toán
chứng nhận chất lượng theo các nhóm công việc: thẩm tra hoặc kiểm tra hồ sơ thiết
kế; kiểm tra năng lực các chủ thể; kiểm tra chất lượng vật tư, chất lượng thi
công xây lắp và hồ sơ nghiệm thu; kiểm định (thí nghiệm) phúc tra chất lượng
công trình và các chi phí khác. Trong từng nhóm công việc như đã nêu, vận dụng
các định mức, đơn giá đã có thể xác định chi phí cần thiết. Đối với các công việc
chưa có định mức, đơn giá (chủ yếu là chi phí cho công chuyên gia) có thể vận dụng
các quy định của nhà nước về chi phí trả công chuyên gia trong thẩm tra, phát
hiện các vấn đề về khoa học, kỹ thuật.
Nếu một tổ chức thực hiện việc chứng
nhận chất lượng đồng thời cho nhiều hạng Mục công trình giống nhau về công
năng, mặt bằng, kết cấu xây dựng (do sử dụng thiết kế điển hình) được xây dựng
bởi dùng một nhà thầu thi công xây dựng thì có thể triết giảm tần suất và khối
lượng kiểm tra. Triết giảm ở mức độ nào thì phải do tổ chức chứng nhận chất lượng
đề xuất, chủ đầu tư xem xét phê duyệt.
8. Về trách nhiệm của tổ chức chứng
nhận chất lượng đối với các kết luận chất lượng công trình của mình (trả lời ý
kiến 10, 11, 12)
Theo quy định tại Khoản
a, Điều 2, Mục III của Thông tư 11; tổ chức chứng nhận chất lượng phải chịu
trách nhiệm đối với kết luận của mình về sự phù hợp của chất lượng công trình
so với thiết kế, tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng cho công trình. Trường hợp công
trình đã được chứng nhận chất lượng nhưng vẫn bị xuống cấp thì trách nhiệm của
tổ chức chứng nhận chất lượng được phân xử theo từng tình huống như sau:
a. Trường hợp chủ đầu tư và các nhà
thầu cố tình tạo dựng hồ sơ nghiệm thu không đúng với thực trạng chất lượng
công trình (mặc dù về mặt hình thức đúng với quy định về quản lý chất lượng) và
các sai phạm về chất lượng này xảy ra ngoài phạm vi kiểm tra trực tiếp của tổ
chức chứng nhận chất lượng thì tổ chức chứng nhận chất lượng không chịu trách
nhiệm đối với sự sai khác về chất lượng so với kết luận của mình.
b. Trường hợp tổ chức chứng nhận chất
lượng công trình do trình độ nghiệp vụ yếu, không phát hiện được các sai sót về
chất lượng xảy ra trong phạm vi kiểm tra trực tiếp của mình thì tổ chức chứng nhận
chất lượng phải chịu trách nhiệm đối với các kết luận của mình về chất lượng
công trình. Tổ chức chứng nhận chất lượng phải bồi thường kinh phí cho chủ đầu
tư, vận dụng quy định về bồi thường thiệt hại đối với các hợp đồng giám định chất
lượng hàng hóa nêu tại Mục 6, chương VI, Luật Thương mại số
361/2005/QH11.
Nếu tổ chức chứng nhận chất lượng cố
tình kế luận về chất lượng công trình sai sót với thực tế thì phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật theo quy định.
Với quy mô về cách làm như đã nêu
trên, về thực chất, chứng nhận chất lượng là sự xác nhận của tổ chức tư vấn độc
lập về sự tuân thủ các quy định về quản lý chất lượng công trình; về sự đúng, đủ
và tính trung thực của hồ sơ nghiệm thu so với thực trạng chất lượng.
Tổ chức chứng nhận chất lượng không
chịu trách nhiệm về những tiêu chí chất lượng ngoài phạm vi kiểm tra chứng nhận
chất lượng mà tổ chức này đã thống nhất trước đó với chủ đầu tư. Theo quy định
tại Thông tư 11, quy định bắt buộc chỉ tập trung vào 4 tiêu chí về an toàn công
trình. Do vậy trong trường hợp chủ đầu tư cần có sự xác nhận về các tiêu chí chất
lượng khác như chất lượng hoàn thiện, sự phù hợp về quy hoạch, tính đồng bộ của
hệ thống kỹ thuật hạ tầng, thì chủ đầu tư phải yêu cầu tổ chức chứng nhận chất
lượng xem xét thêm các vấn đề này.
Trong quá trình kiểm tra chứng nhận
chất lượng, có thể còn tồn tạo một số sai sót nhỏ không ảnh hưởng đến an toàn của
công trình, tổ chức chứng nhận chất lượng vẫn có thể xác nhận về sự an toàn của
công trình hoặc hạng Mục công trình và lập biên bản ghi nhận các tồn tại về chất
lượng để chủ đầu tư khắc phục.
Trên đây là giải thích của Cục giám
định Nhà nước đối với các thắc mắc của Quý sở nêu tại công văn số
8932/SXD-QLCL. Hiện tại, Bộ Xây dựng giao cho Cục tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động chứng nhận chất lượng;
soạn thảo tiêu chuẩn, thủ tục công nhận các tổ chức chứng nhận chất lượng và hướng
dẫn lập định mức cho chi phí chứng nhận chất lượng cho phù hợp với thực tiễn
xây dựng. Các văn bản này sẽ được ban hành trong thời gian tới.
Nơi nhận:
- Như trên;
- TT. Nguyễn Văn Liên (để báo cáo);
- Sở Xây dựng Hà Nội (để biết);
- Cục trưởng (để báo cáo)
- Lưu VP Cục GĐNN.
|
KT.
CỤC TRƯỞNG
PHÓ CỤC TRƯỞNG
Lê Quang Hùng
|