BỘ
LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 1184/2006/QĐ-LĐTBXH-BTXH
V/v: Chính sách cứu trợ xã hội
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2006
|
Kính Gửi: Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm
đến đời sống của các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như người già cô
đơn, trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS, người tàn tật nặng,
người bị nhiễm HIV/AIDS và những người gặp rủi ro bất hạnh thiên tai gây ra
thông qua các chính sách trợ giúp xã hội.
Theo báo cáo của các địa phương năm 2005 cả nước
có khoảng 416.000 người thuộc diện khó khăn trên đây được trợ cấp xã hội thường
xuyên và nuôi dưỡng tập trung (chiếm 53,6%), tăng 3% so với năm 2004. Trong đó
các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Bình Dương, Hải Phòng, Hà Giang, Lào Cai, Quảng
Ninh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Bạc
Liêu hầu hết các đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó khăn đều được hưởng chính
sách trợ giúp xã hội thường xuyên với mức trợ cấp cao hơn mức quy định của Nhà
nước. Tuy nhiên vẫn còn một số tỉnh, số lượng đối tượng xã hội có khó khăn được
hưởng chính sách trợ cấp xã hội chưa nhiều và mức trợ cấp còn thấp so với quy định
của Nhà nước như Hưng Yên, Phú Thọ, Điện Biên, Quảng Nam, Đắc Nông.
Năm 2005 bão, lũ lụt, mưa lớn đã xảy ra ở nhiều
tỉnh trong cả nước đặc biệt là vùng miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên
và Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa… làm cho 397 người chết và mất
tích, 262 người bị thương, 7.586 nhà bị đổ, trôi và nhiều công trình cơs ở hạ tầng
bị hư hại nặng, thiệt hại ước tính 5.809 tỷ đồng; hạn hán lũ lụt đã làm cho
1.748.078 lượt người bị thiếu lương thực (thiếu đói). Chính phủ đã hỗ trợ 1051
tỷ đồng và 20.220 tấn gạo cho các tỉnh bị thiệt hại nặng để cứu đói, ổn định cuộc
sống, phát triển sản xuất. Nhiều địa phương cũng đã hình thành Quỹ cứu trợ xã hội
dự phòng ngay tại xã, phường, vì vậy khi thiên tai xảy ra đã chủ động, kịp thời
cứu trợ những gdi bị nạn sớm ổn định cuộc sống và ổn định sản xuất.
Năm 2006 theo dự báo của khí tưởng thủy văn tình
hình thời tiết sẽ còn phức tạp và bất thường ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
và đời sống của nhân dân, nhất là thời kỳ giáp hạt và ở vùng sâu, vùng xa, vùng
thường xuyên bị thiên tai, đồng thời đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó khăn như
trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, người tàn tật nặng, người nhiễm HIV/AIDS, người
cao tuổi sẽ tăng lên. Để thực hiện tốt chính sách cứu trợ xã hội, đồng thời tạo
điều kiện cho các đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó khăn ổn định cuộc sống, tiếp
tục sản xuất, góp phần giữ vững ổn định xã hội và trật tự an toàn xã hội, Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chỉ đạo ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và các Ban,
ngành có liên quan thực hiện tốt một số việc sau đây:
1- Thống kê, tổng hợp đối tượng xã hội, trong đó
số người được trợ cấp xã hội theo quy định tại nghị định 168/2004/NĐ-CP ngày
20/9/2004 và Quyết định 313/2005/QĐ-TTg ngày 2/12/2005; bố trí kinh phí để thực
hiện chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng và nuôi dưỡng tập
trung trong các cơ sở bảo trợ xã hội.
2- Tiến hành rà soát đánh giá thực chất số hộ, số
khẩu thiếu đói phải hỗ trợ 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Trên cơ sở đó xây dựng
phương án cứu đói kịp thời cho dân. Trong quá trình thực hiện công tác cứu trợ
cần ưu tiên quan tâm giải quyết cho các hộ thuộc diện chính sách có công, chính
sách xã hội, các hộ đồng bào dân tộc ít người, các hộ thuộc vùng sâu, vùng xa,
vùng bị lũ lụt, vùng bị hạn hán nặng. Sử dụng nguồn kinh phí đảm bảo xã hội, dự
phòng đã được bố trí trong ngân sách năm 2006, các nguồn huy động khác để thực
hiện cứu đói kịp thời; không để trường hợp nào chết vì đói. Nếu nguồn tài chính
trên cân đối không đủ thì Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo Chính phủ (đồng gửi Bộ
LĐTBXH và Bộ Tài chính) đề nghị tăng tiến độ cấp kinh phí năm 2006 hoặc xem xét
hỗ trợ.
3. Khi thiên tai xảy ra trên diện rộng, Ủy ban
nhân dân các cấp thành lập Ban chỉ đạo vận động, tiếp nhận và phân phối tiền,
hàng cứu trợ do 01 đồng chí lãnh đạo Ủy ban nhân dân làm Trưởng ban, các Ban,
ngành, đoàn thể tham gia, cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội làm thường
trực. Ban chỉ đạo có trách nhiệm tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ; chỉ
đạo thành lập các đội xung kích bằng các hình thức thích hợp để thực hiện cứu
trợ khẩn cấp, kịp thời cho nhân dân, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,
vùng bị cô lập; chỉ đạo tổ chức vận động cứu trợ xã hội ở các cấp; thực hiện tốt
chế độ thống kê, báo cáo từ cơ sở đến Trung ương.
4. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu thường
xảy ra lũ quét, vùng cửa sông, ven biển thường bị ngập sâu và đặc biệt vùng có
nguy cơ sạt lở, vùng phân lũ, chậm lũ phải có phương án tổ chức di dời dân về
nơi an toàn; có kế hoạch và vận động nhân dân củng cố nhà ở, dự phòng lương thực,
thực phẩm, chất đốt, thuốc men, các vật dụng thiết yếu khác; quán triệt và thực
hiện phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; vật tư, phương
tiện và kinh phí tại chỗ; hậu cần tại chỗ).
Những xã vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, đề
nghị UBND tỉnh bố trí một khoản kinh phí làm Quỹ cứu trợ xã hội dự phòng
và giao cho UBND xã chịu trách nhiệm quản lý, cứu trợ kịp thời cho những gia
đình có hoàn cảnh khó khăn.
5. Mức trợ cấp và trợ giúp:
a- Mức trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên:
- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho đối
tượng xã hội bằng 65.000 đồng/người/tháng;
- Mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất
tại cơ sở Bảo trợ xã hội của Nhà nước bằng 140.000đ/người/tháng; riêng đối với
trẻ em dưới 18 tháng tuổi phải ăn thêm sữa và trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS mức trợ
cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất bằng 210.000đồng/trẻ em/tháng;
- Mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất
đối với người tâm thần mãn tính tại các cơ sở Bảo trợ xã hội của Nhà nước bằng
160.000đồng/người/tháng.
b- Mức trợ cấp cứu trợ xã hội đột xuất:
- Hộ có người chết: 2 triệu đồng/người
- Hộ có người bị thương nặng (phải vào viện): 1
triệu đồng/người
- Hộ có nhà đổ, sập, trôi; hộ phải di dời khẩn cấp:
5-6 triệu đồng/hộ
- Nhà bị hỏng nặng: 2,5 – 3 triệu đồng/hộ
- Hỗ trợ lương thực: 12 kg gạo/người/tháng, thời
gian 1-3 tháng
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể điều chỉnh
mức trợ cấp cho phù hợp với thực tế của địa phương, nhưng không được thấp hơn mức
trợ cấp quy định nêu trên.
6. Thực hiện đúng quy trình cứu trợ xã hội quy định
tại các Thông tư số 18/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/7/2000, Thông tư số
16/2004/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2004 và Thông tư số 02/2006/TT-BLĐTBXH ngày
31/3/2006.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Ban, ngành thực hiện tốt các
vấn đề nêu trên đồng thời báo cáo kết quả thực hiện theo định kỳ 6 tháng, năm về
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổng hợp để báo cáo Chính phủ.
Nơi nhận:
- Như trên
- VPCP;
- Ban chỉ đạo PCLBTW;
- Bộ NN&PTNT;
- Bộ Tài chính;
- Các Sở LĐTBXH các tỉnh, TP.
- Lưu VP, Vụ BTXH
|
K/T BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đàm Hữu Đắc
|