|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Công văn 154/TANDTC-PC năm 2017 xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Số hiệu:
|
154/TANDTC-PC
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
|
Người ký:
|
Nguyễn Trí Tuệ
|
Ngày ban hành:
|
25/07/2017
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
Xác định TNHS đối với hành vi buôn thuốc lá điếu nhập lậu
Đây là nội dung tại Công văn 154/TANDTC-PC về việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa. Theo đó:- Kể từ ngày 01/7/2015 đến ngày 01/01/2018, không xác định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm và không xử lý hình sự hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán theo quy định Điều 155 BLHS 1999.
- Với hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/7/2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ Điều 25 BLHS 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
- Trường hợp bản án đã có hiệu lực nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án (THA) thì được miễn toàn bộ hình phạt.
- Kể từ 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa sẽ bị xử lý theo BLHS 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung).
Xem thêm chi tiết tại Công văn 154/TANDTC-PC ngày 25/7/2017.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 154/TANDTC-PC
V/v xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa
|
Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2017
|
Kính gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự các cấp;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Ngày 20-6-2017, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Luật số 12/2017/QH14), trong đó có bổ sung quy định “thuốc lá
điếu nhập lậu” là hàng cấm tại khoản 40 và khoản 41 Điều 1. Luật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2018.
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định
của pháp luật trong việc xử lý các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc
lá điếu nhập lậu trong nội địa, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án
nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị
thuộc Tòa án nhân dân tối cao khi giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa cần lưu ý:
1. Kể từ
ngày 01-7-2015 (ngày Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành) đến ngày
01-01-2018 (ngày Luật số 12/2017/QH14 có hiệu lực thi hành), không xác định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm
và không xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá
điếu nhập lậu trong nội địa theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật
Hình sự số 15/1999/QH10 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 1999):
Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày
01-7-2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa
án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 của Bộ luật Hình sự
năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi miễn trách
nhiệm hình sự, Tòa án phải ghi rõ trong bản án lý do của việc miễn trách nhiệm
hình sự là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự; người được miễn
trách nhiệm hình sự không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trường hợp người bị kết án mà bản án
đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc
đang được hoãn thi hành án thì được miễn toàn bộ hình phạt; trường hợp người
đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì được miễn
chấp hành phần hình phạt còn lại. Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi
rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của việc miễn chấp hành hình
phạt là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người được miễn chấp hành hình
phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước. Những người đã chấp hành xong hình phạt, được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc hình phạt còn lại thì đương nhiên được xóa án
tích.
2. Kể từ
0 giờ 00 phút ngày 01-7-2015 đến trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018, không xử
lý về hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập
lậu trong nội địa. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử
phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được thực hiện như sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công
văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm
hình sự của bị can mà Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ,
thì Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng điểm b khoản
1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công
văn (hoặc Quyết định) rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án, thì
Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án phải căn cứ vào quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và các quy định của pháp luật có liên quan để
ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ
nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc
Hội đồng xét xử (nếu tại phiên tòa sơ thẩm) căn cứ vào quy định của Bộ luật
Hình sự năm 1999 và các quy định của pháp luật có liên quan để ra quyết định
đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng xét xử
căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, các quy định của pháp luật có
liên quan và áp dụng khoản 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản
2 Điều 157, Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.
Trường hợp người bị kết án mà bản án
đã có hiệu lực pháp luật thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm rà soát, báo cáo
ngay người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án
theo quy định của pháp luật.
đ) Trường hợp đã có kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và vụ án đang trong giai đoạn xét xử giám đốc
thẩm hoặc xét xử tái thẩm thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm căn cứ vào quy định
của Bộ luật Hình sự năm 1999, các quy định của pháp luật có liên quan, khoản 2 Điều 107 và Điều 286 hoặc khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều
157 và Điều 392 hoặc khoản 3 Điều 402 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
quyết định hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuyên bị cáo không có tội và
đình chỉ vụ án.
e) Việc đình chỉ vụ án đối với các
hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa kể
từ 0 giờ 00 phút ngày 01-7-2015 đến trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 là đình
chỉ về mặt trách nhiệm hình sự. Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong
bản án lý do của việc đình chỉ là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước,
người được đình chỉ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
g) Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải
chuyển bản án, quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật,
phương tiện vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 63 của Luật xử
lý vi phạm hành chính.
3. Kể từ 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018, việc xử lý hình sự đối với hành vi
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa được thực
hiện theo quy định của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng
chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc
Tòa án nhân dân tối cao, ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực
hiện nghiêm túc để bảo đảm việc xét xử được thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng
thời phải bảo đảm không để xảy ra oan, sai trong xét xử. Đối
với những vụ án đang trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Chánh án Tòa án nơi điều tra, truy tố chủ động phối hợp với Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết vụ án theo đúng quy định
của pháp luật
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo);
- Chánh án TANDTC (để báo cáo);
- Chính phủ;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban Kinh tế của Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Công an (để phối hợp);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Các Phó Chánh án TANDTC (để biết);
- Các Thẩm phán TANDTC (để biết);
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, PC, Khánh.
|
KT. CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
|
Công văn 154/TANDTC-PC năm 2017 xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn 154/TANDTC-PC năm 2017 xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
13.195
|
CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI,
HƯỚNG DẪN
NỘI DUNG
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung thay
thế tương ứng;
<Nội dung> =
Không có nội dung thay thế tương ứng;
<Nội dung> = Không có
nội dung bị thay thế tương ứng;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
- TẢI ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI
-

-

|
|
TP. HCM, ngày 31/03 /2020
Thưa Quý khách,
Covid 19 làm nhiều vấn đề pháp lý phát sinh, nhiều rủi ro pháp lý xuất hiện. Do vậy, thời gian này và sắp tới Quý khách cần dùng THƯ VIỆN PHÁP LUẬT nhiều hơn.
Là sản phẩm online, nên 220 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc tại nhà ngay từ đầu tháng 3.
Chúng tôi tin chắc dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
Với sứ mệnh giúp quý khách loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT cam kết với 2,2 triệu khách hàng của mình:
1. Cung cấp dịch vụ tốt, cập nhật văn bản luật nhanh;
2. Hỗ trợ pháp lý ngay, và là những trợ lý pháp lý mẫn cán;
3. Chăm sóc và giải quyết vấn đề của khách hàng tận tâm;
4. Thanh toán trực tuyến bằng nhiều công cụ thanh toán;
5. Hợp đồng, phiếu chuyển giao, hóa đơn,…đều có thể thực hiện online;
6. Trường hợp khách không thực hiện online, thì tại Hà Nội, TP. HCM chúng tôi có nhân viên giao nhận an toàn, và tại các tỉnh thì có nhân viên bưu điện thực hiện giao nhận;
THƯ VIỆN PHÁP
LUẬT luôn là:
Chỗ dựa pháp lý;
Dịch vụ loại rủi ro pháp lý;
Công cụ nắm cơ hội làm giàu;
Chúc Quý khách mạnh khỏe, vui vẻ và “…loại
rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…” !

Xin chân thành cảm ơn Thành viên đã sử dụng www.ThuVienPhapLuat.vn
|
|