TỔNG
CỤC HẢI QUAN
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 5070/TCHQ-KTTT
V/v: Thành
lập Nhóm nghiên cứu triển khai thực hiện xác định trị giá tính thuế hải quan đối
với hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu theo Hiệp định Trị giá GATT/WTO
|
Hà Nội, ngày 10 tháng 09 năm
1999
|
Kính gửi: Thủ tướng
Chính phủ
Sau khi nghiên cứu các vấn đề đặt
ra đối với ngành Hải quan trong tiến trình hội nhập quốc tế và các cam kết quốc
tế trong lĩnh vực hải quan, Tổng cục Hải quan xin trình Thủ tướng Chính phủ những
vấn đề liên quan đến việc xác định trị giá tính thuế hải quan hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT - một nội dung được đề cập trong các cuộc
đàm phán thương mại song phương và đa phương - và là điều kiện bắt buộc phải thực
hiện khi Việt nam trở thành một bên tham gia ký kết.
1. Hệ thống xác định trị giá hiện
hành:
Trị giá tính thuế hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu cùng với Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là những yếu tố cơ bản của
chính sách thuế xuất nhập khẩu và tạo nên hàng rào thuế quan. Nguyên tắc xác định
giá tính thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được quy định tại Điều
7 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, theo đó hệ thống xác định trị giá
tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt nam về cơ bản dựa trên bảng giá tối
thiểu.
Ưu điểm chính của hệ thống xác định
trị giá tính thuế hiện nay là Nhà nước thu được khoản thuế chắc chắn dựa trên
giá tối thiểu, đây cũng là biện pháp chống bán phá giá và chống gian lận thương
mại qua giá khá đơn giản, qua đó góp phần bảo hộ sản xuất và bảo vệ nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước trong điều kiện thu thuế từ hàng hoá xuất nhập khẩu còn
chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng thu ngân sách nhà nước, mà điều này vẫn là
nhu cầu tất yếu trong vài năm tới.
Bên cạnh đó hệ thống xác định trị
giá dựa trên bảng giá tối thiểu cũng bộc lộ một số điểm yếu như mức giá quy định
tương đối cứng nhắc không được sửa đổi kịp thời theo sự biến động giá trên thị
trường, những mặt hàng có uy tín, chất lượng và giá trị thương mại rất khác
nhau đều được đưa vào một khung giá duy nhất, lợi dụng những đặc điểm này các
doanh nghiệp dù có giao dịch với mức giá thực tế cao hơn nhưng đều ghi trên hợp
đồng với mức giá ngang bằng giá tối thiểu để duy trì lợi thế cạnh tranh vì nếu
không nhà nhập khẩu sẽ tự loại mình ra khỏi hoạt động kinh doanh và như vậy nhà
nước mất đi một khoản thuế lẽ ra nhà nhập khẩu phải nộp.
Hai xu hướng trái ngược trên đây
cùng tồn tại nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của bảng giá tối thiểu
trong giai đoạn hiện nay, song điều đó không đồng nghĩa với việc coi bảng giá tối
thiểu là sự lựa chọn tối ưu trong tương lai mà nó chỉ phù hợp trong giai đoạn
chuyển đổi sang hệ thống xác định trị giá công bằng và tiến bộ hơn, phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Sự cần thiết xác lập hệ thống xác
định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT:
Tham gia các tổ chức khu vực hay
quốc tế như ASEAN, APEC và WTO, Việt nam sẽ phải thực hàng loạt các cam kết quốc
tế, các Hiệp định và Công ước trên các lĩnh vực hợp tác.
Trong lĩnh vực Hải quan, khi Việt
nam là thành viên của các tổ chức này, ngành Hải quan đã và sẽ tham gia hàng loạt
Công ước quốc tế như Công ước Kyoto, Công uớc HS, Hiệp định trị giá GATT, ... Lợi
ích lớn nhất khi thực hiện các công ước này là tạo thuận lợi cho thương mại.
Riêng đối với Hiệp định trị giá GATT sẽ tác động trực tiếp làm giảm nguồn thu
ngân sách nhà nước trong thời kỳ đầu áp dụng, đồng thời ảnh hưởng tới vai trò bảo
hộ sản xuất trong nước khi hàng hoá trong nước phải cạnh không bình đẳng với
hàng hoá nhập khẩu có sự gian lận bằng cách ghi giảm giá trên hợp đồng để trốn
thuế.
Tại Hội nghị Tổng cục trưởng Hải
quan các nước ASEAN lần thứ 5 ngày 22 - 23/5/1997 tại Brunei, Việt nam đã cam kết
cố gắng thực hiện Hiệp định trị giá GATT vào năm 2000, thực tế thời điểm đó đã
gần kề nhưng chúng ta chưa chuẩn bị đủ điều kiện để thực thi. Trong phiên họp lần
thứ 3 diễn ra tháng 7/1999 tại Geneva - Thuỵ sĩ giữa Việt nam và Ban công tác về
việc Việt nam gia nhập WTO, chúng ta đã đưa ra Bản chào thực hiện Hiệp định trị
giá GATT/WTO vào năm 2005 dựa trên sự cân nhắc về lợi ích và khả năng thực hiện
Hiệp định. Về lộ trình chúng ta đưa ra, các nước tham gia đàm phán cũng có những
ý kiến khác nhau nhưng tựu chung lại đó là kế hoạch hành động có tính thuyết phục
và phù hợp với điều kiện Việt nam đang áp dụng bảng giá tối thiểu, cần có thời
gian để chuyển đổi dần sang thực hiện Hiệp định.
Như vậy, việc tham gia thực hiện
Hiệp định trị giá GATT/WTO vừa là một nghĩa vụ khi chúng ta tham gia WTO, đồng
thời là một xu hướng tiến bộ nhằm thay thế và loại bỏ những bất cập trong hệ thống
xác định trị giá hiện hành. Song việc xem xét những tác động của nó trong điều
kiện hoàn cảnh cụ thể Việt nam hiện nay để đưa ra những giải pháp và kế hoạch
hành động thích hợp là vấn đề quan trọng có tác động trực tiếp tới vai trò của
hàng rào thuế quan và chức năng chống gian lận thương mại của ngành Hải quan.
3. Hiệp định trị giá GATT và yêu cầu
về tổ chức thực hiện:
Nguyên tắc cơ bản xuyên suốt nhằm
duy trì tính minh bạch, công bằng và ổn định của Hiệp định trị giá GATT là
trong chừng mực lớn nhất có thể thì trị giá tính thuế được xác định theo trị
giá giao dịch, hay nói cách khác trị giá tính thuế được xác định theo giá mua
bán thực tế ghi trên hợp đồng, tức là giá mà người mua và người bán đạt được
thông qua đàm phán. Chỉ trong trường hợp trị giá giao dịch không thể chấp nhận
thì sẽ áp dụng lần lượt theo thứ tự 5 phương pháp thay thế nhưng không được
dùng bảng giá tối thiểu, chỉ một số ít trường hợp nhập khẩu không có trị giá
giao dịch, người mua người bán có mối quan hệ đặc biệt mà hải quan đủ cơ sở kết
luận có ảnh hưởng tới giá giao dịch... thì cơ quan Hải quan sẽ xác định trị giá
theo một trong năm phương pháp thay thế. Theo số liệu thống kê của các nước đã
thực hiện Hiệp định này thì trên 90% số tờ khai nhập khẩu có trị giá giao dịch
được chấp nhận để tính thuế. Nhìn chung Hiệp định tạo môi trường thuận cho
thương mại, nhà nhập khẩu không chịu sự áp đặt chủ quan từ phía cơ quan Hải
quan trong việc xác định trị giá tính thuế.
Theo Hiệp định, điều kiện để xác định
trị giá tính thuế theo hợp đồng khá đơn giản nhưng hầu hết các hiện tượng gian
lận thương mại qua giá đều bị kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống quản lý rủi
ro, hệ thống kiểm tra sau giải phóng hàng được tổ chức tốt và trong những trường
hợp bị phát hiện doanh nghiệp sẽ bị phạt rất nặng, thậm chí dẫn đến sự phá sản.
Môi trường duy trì và đảm bảo khả
năng thực thi Hiệp định trị giá GATT là hệ thống kiểm tra sau khi giải phóng
hàng. Đó là vũ khí răn đe và tìm kiếm những kẻ gian lận thương mại. Nhưng chúng
ta chưa có hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ sức mạnh, mà chỉ mới được hình
thành trên văn bản vào tháng 6 năm 1999. Do vậy, nếu chấp nhận Hiệp định khi
chưa chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cần thiết tức là chấp nhận hầu hết giá ghi
trên hợp đồng với tỷ lệ gian lận thương mại rất cao, và như vậy ta đã mở chốt
cuối cùng mặc sức cho gian lận thương mại qua giá mà không có biện pháp kiểm
soát hữu hiệu.
Để thiết lập được hệ thống kiểm
tra đủ mạnh thì những nỗ lực riêng của Ngành Hải quan là chưa đủ mà cần sự hỗ
trợ và phát triển đồng bộ của hệ thống thuế nội địa, đặc biệt là tính minh bạch
và trung thực của hệ thống sổ sách kế toán chứng từ, bên cạnh đó là hệ thống
thanh toán quốc tế, thanh toán nội địa qua ngân hàng có khả năng kiểm soát mối
quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp, cá nhân. Tính tương hỗ và phụ thuộc lẫn
nhau đó đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có
liên quan.
Như vậy, do tính chất và đặc điểm
của việc tổ chức thực thi Hiệp định không chỉ nằm trong phạm vi của ngành Hải
quan và còn chịu sự chi phối bởi các văn bản pháp quy hiện hành, nên vấn đề này
cần được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo thực
hiện đúng cam kết quốc tế và nghĩa vụ của Việt nam khi tham gia các tổ chức quốc
tế và khu vực.
4. Một số hoạt động của ngành Hải
quan tiến tới thực hiện Hiệp định trị giá GATT:
Theo Điều 7 Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và Điều 7 Nghị định 54/CP
ngày 28/3/1993 của Chính phủ thì Bộ Tài chính được giao chủ trì phối hợp với Bộ
Thương mại, Tổng cục Hải quan để xây dựng các nguyên tắc xác định giá tính thuế
hàng hoá xuất nhập khẩu. Mặc dầu đã có một số cải tiến xung quanh hệ thống này
nhưng về cơ bản đó vẫn là hệ thống xác định trị giá dựa trên bảng giá tối thiểu.
Cho đến nay việc nghiên cứu để thực hiện Hiệp định trị giá GATT đã được đặt ra
khá cấp bách nhưng cả ba cơ quan được Chính phủ giao vẫn chưa có sự phối hợp để
đưa ra giải pháp chung trình Chính phủ.
Về phía Tổng cục Hải quan thì việc
thực thi Hiệp định sẽ là một bộ phận tất yếu trong quy trình thủ tục Hải quan
và nằm trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính về Hải quan. Từ trước đến
nay Tổng cục Hải quan là cơ quan đầu mối tiếp nhận sự trợ giúp và hợp tác quốc
tế về Hiệp định trị giá GATT, như các loại hình đào tạo, nghiên cứu, hội thảo,
tư vấn, dự án... Bên cạnh đó Tổng cục Hải quan đã chủ động thành lập Tổ nghiên
cứu trị giá GATT và xây dựng kế hoạch hành động tiến tới thực hiện Hiệp định trị
giá GATT. Hiện nay trong khuôn khổ Dự án VIE/97/059 do UNDP tài trợ thì việc hỗ
trợ nghiên cứu triển khai thực hiện Hiệp định trị giá GATT là một trong những nội
dung chính của dự án này.
II. KIẾN NGHỊ THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ:
Để tiến tới thực hiện Hiệp định trị
giá GATT - một nghĩa vụ bắt buộc khi trở thành thành viên WTO, Tổng cục Hải
quan xin kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ một số vấn đề sau:
Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo thành lập Nhóm nghiên cứu triển khai thực hiện xác định trị giá tính thuế hải
quan hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT trực thuộc Thủ
tướng Chính phủ do Tổng cục Trưởng Tổng cục Hải quan làm trưởng Nhóm với thành
phần và nhiệm vụ như sau:
Thành phần gồm:
Đại diện Văn phòng Chính phủ, Uỷ
ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Thương
mại và Tổng cục Hải quan.
- Nhiệm vụ:
Tổ chức nghiên cứu trình Thủ tướng
Chính phủ giải pháp đồng bộ để triển khai thực hiện đầy đủ Hiệp định trị giá
GATT vào năm 2005 theo hai giai đoạn: giai đoạn 1 đến năm 2003 mục tiêu chính
là áp dụng từng phần Hiệp địnhvà chuẩn bị tiền đề áp dụng toàn bộ, giai đoạn
hai 2004 - 2005 mục tiêu chính là hoàn thiện hệ thống xác định trị giá hải quan
theo Hiệp định trị giá GATT/WTO.
- Tổng cục Hải quan là cơ quan chủ
trì phối hợp và chuẩn bị điều kiện cần thiết để tiếp nhận những nội dung nghiên
cứu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của
Ngành.
Giao Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan nghiên cứu giải pháp tổng thể về kiểm tra sau thông quan, tổ chức đào tạo
và sắp xếp lực lượng để hình thành hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ sức mạnh
làm tiền đề chắc chắn thực thi Hiệp định trị giá GATT.
3. Trong thời gian trước mắt, giao
Tổng cục Hải quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ giải pháp cải tiến hệ thống
xác định trị giá đang áp dụng đối với các mặt hàng không thuộc danh mục nhà nước
quản lý giá tính thuế nằm ngoài bảng giá tối thiểu do Bộ Tài chính quy định đảm
bảo thu đúng, thu đủ và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đồng thời tạo ra bước
chuyển tích cực phù hợp với giai đoạn tiếp theo thực hiện Hiệp định trị giá
GATT.
Tổng cục Hải quan kính trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét chỉ đạo .
Nơi gửi:
- Như trên.
- PTTg Nguyễn Tấn Dũng (để báo cáo)
- PTTg Nguyễn Mạnh Cầm (để báo cáo)
- Văn phòng Chính phủ
- Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế QT
- Bộ Ngoại giao, Bộ TM, Bộ TC
- Thứ trưởng BTM Trần Đức Minh
- Lưu VT, KTTT.
|
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC HẢI QUAN
Phan Văn Dĩnh
|